Tải bản đầy đủ (.pdf) (32 trang)

Tiểu luận kỹ năng soạn thảo luận cứ án hành chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (375.44 KB, 32 trang )

H
ỌC VIỆN TƯ PHÁP
KHOA ĐÀO TẠO LUẬT SƯ
BÀI TI
ỂU LUẬN
K
Ỹ NĂNG CỦA LUẬT S
Ư TRONG VỤ ÁN
HÀNH CHÍNH
Chuyên đề:
K
Ỹ NĂNG SOẠN THẢO BẢN LUẬN CỨ BẢO VỆ CHO
ĐƯƠNG S
Ự TRONG VỤ ÁN H
ÀNH CHÍNH
H
ọ và tên: KIỀU ANH VŨ
Sinh ngày: 11 tháng 01 năm 1989
L
ớp:
A Khóa: XIII (TP. HCM)
SBD: LS13.1HCM – 755
Tp. H
ồ Chí Minh, ng
ày
15 tháng 10 năm 2012
Kiều Anh V
ũ
– Kỹ năng soạn thảo Bản luận cứ bảo vệ cho đương sự trong vụ án hành chính 1
MỞ ĐẦU
Trong hoạt động quản lý hành chính nhà n


ư
ớc, các chủ thể quản lý cần ban hành các
quyết định hành chính và thực hiện các hành vi hành chính tác động đến các đối tượng
quản lý khác nhau trong xã hội. Các quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính này
có thể được đối tượng quản lý đồng ý nh
ưng cũng có trư
ờng hợp đối tượng quản lý không
đồng ý vì cho rằng quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính đó trái pháp luật, xâm
phạm quyền và lợi ích hợp pháp của họ, từ đó dẫn đến việc khiếu kiện hành chính và giải
quyết khiếu kiện hành chính.
Khiếu kiện hành chính và giải quyết khiếu kiện hành chính là một vấn đề tất yếu của
Nhà nước pháp quyền, xã hội dân chủ, góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi
ích hợp pháp của công dân; tăng cường pháp chế xã hội chủ ngh
ĩa
.
Tham gia tố tụng trong vụ án hành chính là một trong những dịch vụ pháp lý đặc thù
của luật sư. Luật sư tham gia tố tụng hành chính nhằm tư vấn pháp lý cho đ
ương s
ự, đại
diện cho đương sự tham gia tố tụng hoặc tham gia tố tụng với tư cách độc lập là người
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự.
Để đảm bảo tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, luật sư không chỉ tận
tâm, am hiểu pháp luật mà còn phải có kỹ năng hành nghề tốt. Một trog những kỹ năng rất
quan trọng của luật sư trong việc tham gia tố tụng hành chính là kỹ năng soạn thảo Bản
luận cứ bảo vệ cho đương sự trong vụ án hành chính. Đây chính là đối tượng nghiên cứu
của tác giả trong chuyên đề này.
Thông qua chuyên đề này, tác giả mong muốn đúc kết, học tập được những kỹ năng
cơ bản, cần thiết trong việc soạn thảo Bản luận cứ bảo vệ cho đương sự trong vụ án hành
chính; chuẩn bị những nền tảng kỹ năng cơ bản để giúp ích cho quá trình hành nghề của
tác giả sau này.

Để nghiên cứu chuyên đề này, tác giả đ
ã nghiên c
ứu một cách nghiêm túc với sự vận
dụng, kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học. Về phương pháp luận, tác giả dựa
trên phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Về phương pháp nghiên cứu cụ
thể, tác giả sử dụng đa dạng các phương pháp bao gồm phân tích, tổng hợp, tổng – phân –
hợp, so sánh, quy nạp, diễn dịch,…
Kiều Anh V
ũ
– Kỹ năng soạn thảo Bản luận cứ bảo vệ cho đương sự trong vụ án hành chính 2
CHƯƠNG 1:
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG VỀ TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH
VÀ KỸ NĂNG CỦA LUẬT SƯ TRONG VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
1.1. Một số vấn đề lí luận chung về tố tụng hành chính
Trước khi nghiên cứu kỹ năng của luật sư trong vụ án hành chính nói chung và kỹ
năng của luật sư trong việc soạn thảo Bản luận cứ bảo vệ cho đương sự trong vụ án hành
chính, chúng ta cần phải nghiên cứu những vấn đề cơ bản trong vụ án hành chính, bao
gồm một số vấn đề được đề cập dưới đây.
1.1.1. Khái niệm tố tụng hành chính
Tố tụng hành chính là toàn bộ trình tự, thủ tục do pháp luật quy định đối với việc
khởi kiện, thụ lý, giải quyết vụ án hành chính và thi hành bản án, quyết định của Tòa án
về vụ án hành chính.
1.1.2. Khái niệm vụ án hành chính
Vụ án hành chính là vụ án phát sinh tại Tòa án có thẩm quyền do có khiếu kiện hành
chính.
Khiếu kiện hành chính là khiếu kiện về Quyết định hành chinh,hành vi hành chính;
khiếu kiện về danh sách cử tri bầu cử đại biểu Quốc hội, danh sách cử tri bầu cử đại biểu
Hội đồng nhân dân; khiếu kiện Quyết định kỷ luật buộc thôi việc công chức giữ chức vụ
từ Tổng cục trưởng và tương đương trở xuống; khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại
về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh.

1.1.3. Đối tượng khởi kiện trong vụ án hành chính
Đối tượng khởi kiện trong vụ án hành chính là Quyết định hành chính, hành vi hành
chính.
Quyết định hành chính thuộc đối tượng khởi kiện của vụ án hành chính là văn bản
do cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc người có thẩm quyền trong
các cơ quan, tổ chức đó ban hành, quyết định về một vấn đề cụ thể trong hoạt động quản
lý hành chính
đư
ợc áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể
1
.
Người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác là
người có chức vụ, chức danh cụ thể và theo quy định của pháp luật thì ng
ư
ời có chức vụ,
chức danh đó mới có thẩm quyền ra quyết định hành chính hoặc có hành vi hành chính.
Trường hợp quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính do một người cụ thể ký hoặc
thực hiện, nhưng người đó ký quyết định hành chính hoặc thực hiện hành vi hành chính
1
Khoản 1 Điều 3 Luật Tố tụng hnàh chính 2010.
Kiều Anh V
ũ
– Kỹ năng soạn thảo Bản luận cứ bảo vệ cho đương sự trong vụ án hành chính 3
với danh ngh
ĩa m
ột chức vụ, chức danh có thẩm quyền thì quyết định hành chính, hành vi
hành chính đó là của người đảm nhiệm chức vụ, chức danh đó
2
.
Quyết định hành chính thuộc đối tượng khởi kiện của vụ án hành chính có thể là văn

bản được thể hiện dưới hình thức quyết định hoặc dưới hình thức khác như thông báo, kết
luận, công văn do cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác hoặc người có
thẩm quyền trong các cơ quan, tổ chức đó ban hành có chứa đựng nội dung của quyết
định hành chính được áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể về một
vấn đề cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính mà ng
ư
ời khởi kiện cho rằng quyền, lợi
ích hợp pháp của mình bị xâm phạm, bao gồm:
- Quyết định hành chính được cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác
hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó ban hành trong khi giải quyết, xử lý
những việc cụ thể trong hoạt động quản lý hành chính;
- Quyết định hành chính được ban hành sau khi có khiếu nại và có nội dung sửa đổi,
bổ sung, thay thế, huỷ bỏ một phần hoặc toàn bộ quyết định hành chính nêu trên.
Như vậy, Quyết định hành chính làđối tượng khởi kiện của vụ án hành chính không
chỉ là Quyết định hành chsinh lần đầu mà còn có thể là Quyết định giải quyết khiếu nại
Quyết định hành chính đó nếu Quyết định khiếu nại có nội dung sửa đổi, bổ sung, thay
thế, huỷ bỏ một phần hoặc toàn bộ quyết định hành chính lần đầu.
Hành vi hành chính là hành vi của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức
khác hoặc của người có thẩm quyền trong cơ quan, tổ chức đó thực hiện hoặc không thực
hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật.
Việc xác định hành vi hành chính khi nào là của cơ quan hành chính nhà nước, cơ
quan, tổ chức khác, khi nào là của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà
nước, cơ quan, tổ chức khác và khi nào là không thực hiện nhiệm vụ, công vụ phải căn cứ
vào quy định của pháp luật về thẩm quyền, thời hạn thực hiện đối với nhiệm vụ, công vụ
đó và phân biệt như sau:
- Trường hợp theo quy định của pháp luật, việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ cụ thể
là của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác, nhưng do người trong cơ
quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác đó thực hiện theo sự phân công hoặc uỷ
quyền, uỷ nhiệm thì hành vi
đó là hành vi hành chính c

ủa cơ quan hành chính nhà nước,
cơ quan, tổ chức khác mà không phải là hành vi hành chính của người đ
ã th
ực hiện hành
vi hành chính đó;
2
Khoản 2 Điều 2 Nghị quyết 02/2011/NQ-HĐTP ngày 29/7/2011 hướng dẫn thi hành một số quy định của Luật Tố
tụng hành chính.
Kiều Anh V
ũ
– Kỹ năng soạn thảo Bản luận cứ bảo vệ cho đương sự trong vụ án hành chính 4
- Trường hợp theo quy định của pháp luật, việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ cụ thể
là của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác thì
việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ cụ thể đó là hành vi hành chính của người có thẩm
quyền, không phụ thuộc vào việc họ trực tiếp thực hiện hay phân công, uỷ quyền, uỷ
nhiệm cho người khác thực hiện;
- Trường hợp theo quy định của pháp luật, việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ cụ thể
là của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác, nhưng hết thời hạn theo quy
định của pháp luật mà cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác không thực
hiện nhiệm vụ, công vụ thì hành vi không thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó là hành vi hành
chính của cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác, không phụ thuộc vào việc
nhiệm vụ, công vụ đó được phân công, uỷ quyền, uỷ nhiệm cho người cụ thể nào trong cơ
quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác đó thực hiện;
- Trường hợp theo quy định của pháp luật, việc thực hiện nhiệm vụ, công vụ cụ thể
là của người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác,
nhưng hết thời hạn theo quy định của pháp luật mà người có thẩm quyền trong cơ quan
hành chính nhà nước, cơ quan, tổ chức khác không thực hiện nhiệm vụ, công vụ thì hành
vi không thực hiện nhiệm vụ, công vụ đó là hành vi hành chính của người có thẩm quyền,
không phụ thuộc vào việc họ đ
ã phân công, u

ỷ quyền, uỷ nhiệm cho người khác thực
hiện.
1.1.4. Đương sự trong vụ án hành chính
Đương sự trong vụ án hành chính bao gồm người khởi kiện, người bị kiện, người có
quyền lợi và ngh
ĩa v
ụ liên quan
3
.
Khác với vụ án dân sự, hai bên đối tụng trong vụ án hành chính không gọi là
“nguyên đơn” và “bị đơn” mà gọi là “người khởi kiện” và “người bị kiện”.
Người khởi kiện là cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện vụ án hành chính đối với
quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định
giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, việc lập danh sách cử tri.
Người bị kiện là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyết định hành chính, hành vi hành
chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử
lý vụ việc cạnh tranh, lập danh sách cử tri bị khởi kiện.
Để xác định đúng người bị kiện khi nào là cá nhân, khi nào là cơ quan, tổ chức thì
phải căn cứ vào quy định của pháp luật về thẩm quyền giải quyết vụ việc đó. Trường hợp
có nhiều luật cùng quy định thẩm quyền ra quyết định hành chính hoặc thực hiện hành vi
3
Khoản 5 Điều 3 Luật Tố tụng hành chính.
Kiều Anh V
ũ
– Kỹ năng soạn thảo Bản luận cứ bảo vệ cho đương sự trong vụ án hành chính 5
hành chính về một l
ĩnh v
ực quản lý thì việc xác định thẩm quyền của người bị kiện khi
nào là cá nhân, khi nào là cơ quan, tổ chức phải căn cứ vào luật chuyên ngành.
Người có quyền lợi, ngh

ĩa v
ụ liên quan là cá nhân, cơ quan, tổ chức tuy không khởi
kiện, không bị kiện, nhưng việc giải quyết vụ án hành chính có liên quan đến quyền lợi,
ngh
ĩa v
ụ của họ nên họ tự mình hoặc đương sự khác đề nghị và được Toà án chấp nhận
hoặc được Toà án đưa vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, ngh
ĩa v

liên quan.
1.1.5. Yêu cầu khởi kiện
Tùy theo đối tượng khởi kiện mà người khởi kiện có thể đưa ra các yêu cầu khác
nhau. Tuy nhiên, các yêu cầu của người khởi kiện cần phù hợp với thẩm quyền giải quyết
vụ án của Tòa án c
ũng nh
ư c
ủa Hội đồng xét xử.
Theo khoản 1 Điều 163 Luật Tố tụng hành chính, Hội đồng xét xử xem xét tính hợp
pháp của quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc,
quyết định giải quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, danh sách cử tri bị
khởi kiện, quyết định giải quyết khiếu nại có liên quan.
Căn cứ khoản 2 Điều 163 Luật Tố tụng hành chính
4
, người khởi kiện có thể đưa ra
các yêu cầu sau đây:
- Đối với đối tượng khởi kiện là Quyết định hành chính: Người khởi kiện có quyền
yêu cầu Tòa án tuyên hủy toàn bộ hoặc một phần Quyết định hành chính xâm hại đến
quyền lợi hợp pháp của mình.
4
Hội đồng xét xử có quyền quyết định:

a) Bác yêu cầu khởi kiện, nếu yêu cầu đó không có căn cứ pháp luật;
b) Chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện, tuyên hủy một phần hoặc toàn bộ quyết định hành chính trái
pháp luật; buộc cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước thực hiện nhiệm vụ, công vụ
theo quy định của pháp luật;
c) Chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện, tuyên bố một số hoặc toàn bộ các hành vi hành chính là trái
pháp luật; buộc cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan nhà nước chấm dứt hành vi hành chính
trái pháp luật;
d) Chấp nhận yêu cầu khởi kiện, tuyên hủy quyết định kỷ luật buộc thôi việc trái pháp luật; buộc người đứng đầu cơ
quan, tổ chức thực hiện nhiệm vụ, công vụ theo quy định của pháp luật;
đ) Chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện, tuyên hủy một phần hoặc toàn bộ quyết định giải quyết
khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh trái pháp luật; buộc cơ quan, người có thẩm quyền ra quyết định giải
quyết khiếu nại về quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh giải quyết lại vụ việc theo quy định của Luật cạnh tranh;
e) Chấp nhận một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện; buộc cơ quan lập danh sách cử tri sửa đổi, bổ sung danh sách
cử tri theo quy định của pháp luật;
g) Buộc cơ quan, tổ chức bồi thường thiệt hại, khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức bị
xâm phạm do quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc, quyết định xử lý vụ việc
cạnh tranh trái pháp luật gây ra;
h) Kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền, người đứng đầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét
trách nhiệm của cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền của cơ quan nhà nước.
Kiều Anh V
ũ
– Kỹ năng soạn thảo Bản luận cứ bảo vệ cho đương sự trong vụ án hành chính 6
- Đối với hành vi hành chính: Người khởi kiện có thể yêu cầu Tòa án buộc người bị
kiện phải thực hiện hành vi nào đó theo quy định của pháp luật hoặc chấm dứt hành vi trái
pháp luật.
- Ngoài các yêu cầu trên, người khởi kiện còn có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại
do quyết định hành chính, hành vi hành chính gây thiệt hại thực tế đối quyền lợi hợp pháp
của họ.
Tuy vậy, không chỉ có người khởi kiện mới có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại
mà người có quyền lợi, ngh

ĩa v
ụ liên quan trong vụ án hành chính c
ũng
có thể đồng thời
yêu cầu bồi thường thiệt hại. Trong trường hợp này các quy định của pháp luật về trách
nhiệm bồi thường của Nhà nước và pháp luật về tố tụng dân sự được áp dụng để giải
quyết yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Trường hợp trong vụ án hành chính có yêu cầu bồi thường thiệt hại mà chưa có điều
kiện để chứng minh thì Toà án có thể tách yêu cầu bồi thường thiệt hại để giải quyết sau
bằng một vụ án dân sự khác theo quy định của pháp luật.
Những vấn đề lí luận nêu trên là một số vấn đề cơ bản, quan trọng luật sư cần nắm
vững để bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng. Luật sư cần xác định
khách hàng của mình tham gia tố tụng với tư cách g
ì,
đối tượng khởi kiện là gì, yêu cầu
của khách hàng ra sao mới có thể xác định phương hướng bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của khách hàng nói chung và chuẩn bị bản luận cứ nói riêng cho phù hợp.
1.2. Một số vấn đề lí luận chung về kỹ năng của luật sư trong vụ án hành chính
1.2.1. Khái niệm kỹ năng
Kỹ năng được hiểu là khả năng vận dụng những kiến thức đ
ã t
hu nhận được trong
một l
ĩnh v
ực nào đó áp dụng vào thực tế.
1.2.2. Khái niệm kỹ năng của luật sư
Kỹ năng của luật sư là khả năng của luật sư trong việc vận dụng kiến thức và kinh
nghiệm vào hoạt động nghề nghiệp của luật sư.
1.2.3. Kỹ năng của luật sư trong vụ án hành chính
Kỹ năng của luật sư trong vụ án hành chính là khả năng của luật sư trong việc vận

dụng kiến thức và kinh nghiệm tham gia vào vụ án hành chính nhằm bảo vệ tốt nhất
quyền và lợi ích hợp pháp của khách hàng.
Kỹ năng của luật sư trong vụ án hành chính bao gồm nhiều kỹ năng khác nhau:
- Kỹ năng trao đổi, tiếp xúc với khách hàng;
Kiều Anh V
ũ
– Kỹ năng soạn thảo Bản luận cứ bảo vệ cho đương sự trong vụ án hành chính 7
- Kỹ năng đánh giá điều kiện khởi kiện, chuẩn bị hồ sơ khởi kiện vụ án hành chính;
- Kỹ năng thu thập, nghiên cứu, đánh giá và sử dụng chứng cứ;
- Kỹ năng nghiên cứu hồ sơ vụ án hành chính;
- Kỹ năng chuẩn bị bản luận cứ bảo vệ cho đương sự;
- Kỹ năng tham gia phiên t
òa sơ th
ẩm;
- Kỹ năng tham gia giai đoạn phúc thẩ, tái thẩm, giám đốc thẩm.
Trong chuyên đề này, tác giả nghiên cứu và trình bảy kỹ năng của luật sư trong việc
soạn thảo bản luận cứ bảo vệ cho đương sự trong vụ án hành chính.
Kiều Anh V
ũ
– Kỹ năng soạn thảo Bản luận cứ bảo vệ cho đương sự trong vụ án hành chính 8
CHƯƠNG 2:
KỸ NĂNG CỦA LUẬT SƯ SOẠN THẢO BẢN LUẬN CỨ BẢO VỆ
CHO ĐƯƠNG SỰ TRONG VỤ ÁN HÀNH CHÍNH
Bản luận cứ là văn bản thể hiện quan điểm của luật sư trong việc bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của thân chủ, bảo vệ công lý và pháp chế xã hội chủ ngh
ĩa.
Bản luận cứ là văn bản quan trọng nhất của luật sư trong hoạt động tham gia tố tụng,
nghiên cứu hồ sơ, nghiên cứu các văn bản pháp luật, thu thập, tìm kiếm chứng cứ để bảo
vệ tốt nhất cho quyền và lợi ích của thân chủ. Bản luận cứ là tiếng nói chính thức của luật
sư tại phiên tòa , thể hiện kiến thức pháp luật, kiến thức xã hội, khả năng tranh luận và

văn hóa ứng xử của luật sư.
Bản luận cứ còn là chỗ dựa vững chắc về pháp lý và tâm lý cho thân chủ, giúp cho
thân chủ tin tưởng hơn về sự công bằng của pháp luật, từ đó có hương tự bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của bản thân bên cạnh việc bảo vệ của luật sư, đồng thời là cơ sở giúp
thân chủ đánh giá đúng đắn các kết quả, kỹ năng mà luật sư đ
ã th
ực hiện.
Với tầm quan trọng như vậy, bản luận cứ cần được chuẩn bị, soạn thảo chu đáo,
chuẩn mực. Muốn vậy, luật sư cần được trang bị và nắm vững nhưng kỹ năng cơ bản
trong việc soạn thảo bản luận cứ bảo vệ cho thân chủ là đương sự trong vụ án hành chính.
Kỹ năng của luật sư trong việc soạn thảo bản luận cứ bảo vệ cho đương sự là một
trong những kỹ năng quan trọng nhất của luật sư trong việc tham gia tố tụng hành chính,
tham gia giải quyết vụ án hành chính. Kỹ năng này gồm những vấn đề cơ bản sau đây:
2.1. Chuẩn bị phương án bảo vệ cho đương sự
Trước khi soạn thảo bản luận cứ, trước hết luật sư cần chuẩn bị phương án bảp vệ
cho đương sự là thân chủ của mình (sau đây gọi là “đương sự thân chủ”). Luật sư cần
xác định được tư cách tham gia tố tụng của đương sự thân chủ, đối tượng khởi kiện và
yêu cầu của họ.
Nếu đương sự thân chủ của luật sư là người khởi kiện thì luật sư cần bảo vệ theo
hướng yêu cầu Tòa án tuyên hủy toàn bộ hoặc một phần Quyết định hành chính xâm hại
đến quyền lợi hợp pháp của thân chủ hoặc yêu cầu Tòa án buộc người bị kiện thực hiện
hoặc chấm dứt việc thực hiện hành vi trái pháp luật. Chẳng hạn đối với đối tượng khởi
kiện là Quyết định hành chính, luật sư cần chuẩn bị phương án bảo vệ theo hướng xác
định tính bất hợp pháp của Quyết định đó.
Nếu đương sự thân chủ của luật sư là người bị kiện thì h
ư
ớng bảo vệ của luật sư có
gần như đối lập hoàn toàn với yêu cầu của người khởi kiện, quan điểm của luật sư bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp cho người khởi kiện. Chẳng hạn, đối với đối tượng khởi kiện là
quyết định hành chính, luật sư sẽ bảo vệ theo hướng chứng minh tính đúng đắn, hợp pháp

của quyết định hành chính.
Kiều Anh V
ũ
– Kỹ năng soạn thảo Bản luận cứ bảo vệ cho đương sự trong vụ án hành chính 9
Trường hợp đương sự của luật sư là người có quyền và ngh
ĩa v
ụ liên quan thì tùy
tính chất vụ việc, luật sư có thể bảo vệ theo hướng giống như bảo vệ cho người khởi kiện
hoặc người bị kiện.
Trong quá trình chuẩn bị phương án bảo vệ cho đương sự thân chủ, luật sư phải tổng
hợp tất cả các tài liệu đ
ã thu th
ập được, bao gồm các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, các tài
liệu mới được bổ sung, kiểm tra tính phù hợp, mâu thuẫn giữa các chứng cứ có trong hồ
sơ, giữa các chứng cứ trong hồ sơ với tài liệu, đồ vật mà luật sư thu thập được. Từ đó, luật
sư sẽ có những đề xuất phù hợp hoặc sẽ xuất trình tại phiên tòa làm c
ơ s
ở bảo vệ cho thân
chủ.
Luật sư cần xác định các vấn đề mâu thuẫn, các điểm cần chứng minh trong vụ án
gắn liền với quyền lợi của khách hàng.
Một vụ án hành chính thường có rất nhiều tình tiết nhưu: thời gian, chủ thể,
nhưung luật sư cần biết phát hiện những tình tiết mâu thuẫn, mo0ọt số điểm cần chứng
minh và những điểm này có thể làm thay đổi cục diện vụ án theo hướngc ó lợi cho khách
khách hàng. Luật sư khi phát hiện các tình tiết nói trên phải đối chiếu quy định của pháp
luật để xác định rõ vấn đề.
Trong quá trình chuẩn bị phương án bảo vệ luật sư c
òn ph
ải xem xét một số vấn đề
về tố tụng, chẳng hạn như việc thụ lý, t

ư cách c
ủa các đương sư, việc giải quyết vụ án của
Tòa án có phù hợp quy định pháp luật hay không.
Trong quá trình chuẩn bị phương án bảo vệ cho đương sự thân chủ và chuẩn bị soạn
thảo bản luận cứ, luật sư c
òn ph
ải chuẩn bị tài liệu có liên quan phục vụ cho việc bảo vệ,
soạn thảo luận cứ, bao gồm: Văn bản quy pháp pháp luật (luật hình thức: Luật Tố tụng
hành chính và các văn bản hướng dẫn; luật nội dung: Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính,
Luật Đát đai, Luật quản lý thuế, – tùy thuộc vào tùng vụ án cụ thể mà chuẩn bị các văn
bản quy phạm pháp luật khác nhau cho phù hợp). Luật sư có thể chuẩn bị toàn văn văn
bản quy phạm pháp luật nhưng c
ũng có th
ể chỉ chuẩn cbị một số điều luật được trích dẫn
để tiện sử dụng, tra cứu. Ngoià ra, luật sư c
òn có th
ể chuẩn bị các tài liệu khác có liên
quan, chẳng hạn như các ti, bài đăng tải trên các phương tiện thông tin đại chúng,
2.2. Nội dung của bản luận cứ
Nôi dung của bản luận cứ là những nội dung làm sáng tỏ các vấn đề cần chứng minh
trong vụ án hành chính, chủ yếu là tính hợp pháp của quyết định hành chính, hành vi hành
chính là đối tượng khởi kiện.
Trong bản luận cứ, luật sư cần trình bày
đ
ể làm rõ các vấn đề sau đây:
- Quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính bị kiện đ
ã đư
ợc ban hành hoặc
thực hiện đúng thẩm quyền không?
Kiều Anh V

ũ
– Kỹ năng soạn thảo Bản luận cứ bảo vệ cho đương sự trong vụ án hành chính 10
- Quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính bị kiện đ
ã đư
ợc ban hành hoặc
thực hiện đúng tr
ình t
ự, thủ tục không?
- Quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính bị kiện đ
ã đư
ợc ban hành hoặc
thực hiện đúng thời hạn, thời hiệu không?
- Văn bản quy phạm pháp luật làm cơ sở áp dụng để ban hành quyết định hành
chính, thực hiện hành vi hành chính bị kiện có phù hợp không ?
- Văn bản quy phạm pháp luật làm cơ sở áp dụng để ban hành quyết định hành
chính, thực hiện hành vi hành chính bị kiện còn hiệu lực không?
- Văn bản quy phạm pháp luật làm cơ sở áp dụng để ban hành quyết định hành
chính, thực hiện hành vi hành chính bị kiện có trái với Văn bản quy phạm pháp luật cấp
trên không?
- Những tình tiết, sự kiện mà cấp thẩm quyền dựa vào đó để ban hành quyết định
hành chính, thực hiện hành vi hành chính bị kiện có chính xác, trung thực không?
- Có yêu cầu bồi thường thiệt hại không?
Nếu là luật sư bảo vệ quyền và lợi ích cho người khởi kiện, bản luận cứ của luật sư
sẽ trả lời phủ định cho các vấn đề nêu trên. Ngược lại, nếu là luật sư bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp cho người bị kiện, bản luận cứ của luật sư sẽ trả lời khẳng định cho các vấn
đề nêu trên. Tùy trường hợp cụ thể, luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có
quyền và ngh
ĩa v
ụ liên quan sẽ trình bản luận cứ gần giống như bản luận cứ của luật sư
bảo vệ quyền và lợi ích cho người khởi kiện hoặc luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp

pháp cho người bị kiện. Tuy nhiên, trong quá trình trình bày luận cứ tại phiên tòa, luật sư
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người có quyền và ngh
ĩa v
ụ liên quan cần tránh
trình bày những luận điểm mà cácluật sư khác đ
ã trình bày tr
ư
ớc đó.
2.3. Kỹ năng tr
ình bày b
ản luận cứ
Bản luận cứ phải cô đọng, súc tích, có bố cục và lập luận chặt chẽ; nội dung luận cứ
phải nêu bật được các chứng cứ, căn cứ có lợi cho thân chủ, đưa ra đề xuất có lý, có tình,
thuyết phục được người nghe.
Bản luận cứ thường được viết theo kết cấu 03 phần: Phần mở đầu, Phần nội dung,
Phần kết luận.
2.3.1. Phần mở đầu
Luật sư tr
ình bày l
ời chào với Hội đồng xét xử, đại diện Viện kiểm sát và Luật sư
đồng nghiệp. Chẳng hạn:
Kiều Anh V
ũ
– Kỹ năng soạn thảo Bản luận cứ bảo vệ cho đương sự trong vụ án hành chính 11
“ Kính thưa Hội đồng xét xử,
Thưa vị đại diện Viện kiểm sát và các luật sư đồng nghiệp,”
Nếu như không để ý, nhiều người thường trình bày lời chào (kính thưa) theo thứ tự
Hội đồng xét xử rồi đến Đại diện Viện Kiểm sát, rồi mới đến Luật sư đồng nghiệp, chẳng
hạn như tr
ình bày l

ời chào của Bản luận cứ như sau:
“ Kính thưa Hội đồng xét xử,
Thưa vị đại diện Viện kiểm sát,
Thưa các luật sư đồng nghiệp,”
Nếu trình bày Bản luận cứ theo cách thứ hai thì sẽ làm giảm vai trò của Luật sư,
trong khi giới luật sư đang đấu tranh đòi hỏi tư cách của luật sư là ngang hàng với đại
diện Viện Kiểm sát trong tố tụng, nhất là trong tố tụng hình sự và cả trong tố tụng hành
chính, tố tụng dân sự. Vì vậy, luật sư cần chú ý trình bày lời chào, lời mở đầu luận cứ
theo hướng nâng cao vai trò, vị trí của giới là luật sư là “thưa” đại diện viện kiểm sát và
luật sư đồng nghiệp chung một lần như tr
ình bày
ở cách thứ nhất nêu trên.
Sau khi trình bày lời chào, luật sư tự giới thiệu về bản thân, Văn ph
òng Lu
ật sư mà
mình tham gia,
Đoàn lu
ật sư nơi công tác; l
ý do tham gia phiên tòa. Ch
ẳng hạn như: “Tôi
là Kiều Anh V
ũ, l
à Lu
ật sư thuộc Văn ph
òng Lu
ật sư XYZ, Đoàn Luật sư TP. Hồ Chí
Minh. Theo yêu cầu của bà Hồ Thị Ngoan và được sự chấp thuận của Quý Tòa, tôi có mặt
tại Phiên tòa ngày hôm nay với tư cách là Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
Người khởi kiện là bà Hồ Thị Ngoan”.
2.3.2. Phần nội dung

Nội dung cần có của bản luận cứ là những nội dung được trình bày ở mục 2.2. nêu
trên. Tuy nhiên, khi trình bày trong bản luận cứ, luật sư cần bố trí các vấn đề, luận điểm
sao cho phù hợp.
Trước hết luật sư nêu tóm tắt diễn biến vụ án theo hương bảo vệ cho đương sự thân
chủ của luật sư nhưung vẫn đảm bảo tính khách quan, trung thực theo cách nhìn nhận,
đánh giá của luật sư đối với vụ án. Sau đó, luật sư tr
ìnhbày các quan
đi
ểm pháp lý, ý kiến
pháp lý, các luận điểm của luật sư để bảo vệ cho đương sự thân chủ. Có thể trình bày các
luận điểm theo thứ tự từ đơn giản đến phức tạp, từ dễ chứng minh đến khó chứng minh, từ
dễ bác bỏ đến khó bác bỏ, Luật sư cung cần xác định luận điểm nào là trọng tâm, mấu
chốt, có khả năng quyết định kết quả vụ án để tập trung trình bày, chứng minh một cách
thuyết phục, logic.
Khi viết các luận điểm trong luận cứ, luật sư cần phải có các luận chứng cụ thể, trích
dẫn bút lục, tài liệu, hồ sơ vụ án để làm sáng tỏ luận điểm của mình. Đặc biệt, luật sư cần
phải trích dẫn chính xác các quy định pháp luật chứng minh cho luận điểm của mình là
đúng. Việc trích dẫn và trình bày quy phạmpháp luật c
ũng có nhi
ều cách khác nhau. Luật
Kiều Anh V
ũ
– Kỹ năng soạn thảo Bản luận cứ bảo vệ cho đương sự trong vụ án hành chính 12
sư có thể trình bày theo cách quy nạp hoặc diễn dịch, chẳng hạn “theo quy định tại
Điều thì ”. Quy định pháp luật có thể được trình bày toàn bộ ngay trong luận điểm của
luật sư hoặc c
ũng có th
ể trích dẫn “địa chỉ” của quy định đó (điều, khoản, điểm ) và trình
bày chi tiết nội dung quy định tại phần “footnote” (chú giải) của Bản luận cứ.
Bản luận cứ của luật sư phải được chuẩn bị kỹ càng, chu đáo. Tuy nhiên, Bản luận

cứ của luật sư là văn bản có tính “động”, tính thời sự. Luật sư không đọc lại toàn bộ bản
luận cứ đ
ã chu
ẩn bị tại phiên tòa mà phải cập nhật các nội dung, tình tiết mới xảy ra tại
phiên tòa. Vì vậy, luật sư c
ũng c
ần lưu
ý, sau m
ỗi luận điểm luật sư nên chừa các khoảng
trống để sửa chữa, bổ sung ngay tại phiên tòa sau khi xét hỏi hoặc khi tranh luận.
2.3.3. Phần kết luận
Luật sư tóm tắt những điểm chính đ
ã trình bày,
đưa ra các đ
ề xuất và việc áp dụng
pháp luật để giải quyết vụ án. Cụ thể, luật sư cần đề nghị Tòa á/ Hội đồng xét xử chấp
nhận yêu cầu của đương sự thân chủ.
Chẳng hạn: Nếu luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người khởi kiện thì
đ

nghị Hội đồng xét xử tuyên hủy toàn bộ hoặc một phần quyết định hành chính bị kiện.
Nếu là luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị kiện thì
đ
ề nghị Hội đồng
xét xử tuyên giữ nguyên quyết định hành chính bị kiện,
Ví dụ: “Từ những phân tích nêu trên, có cơ sở để kết luận rằng Quyết định xử phạt
vi phạm hành chính số 34 ngày của là hoàn toàn không phù hợp với quy định của pháp
luật.
Vì vậy, chúng tôi đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm b khoản 2 Điều 163 Luật Tố
tụng hành chính tuyên hủy toàn bộ Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 34 ngày

của ”.
2.3.4. Một số vấn đề khác cần lưu
ý khi s
oạn thảo Bản luận cứ
Để soạn thảo tốt Bản luận cứ, ngoài việc luật sư am hiểu pháp luật, chuẩn bị kỹ
trước khi viết, xác định nội dung, phương án bảo vệ, luật sư c
òn ph
ải có những kỹ năng
bổ trợ như kỹ năng soạn thảo văn bản, kỹ năng tin học văn ph
òng. Trong th
ời đại ngày
nay luật sư cần đánh máy bản luận cứ, sử dụng phần mềm tin học văn ph
òng (Microsoft
Word) một cách thành thạo để định dạng, trình bày bản luận cứ cho đẹp, cân đối, hài hòa.
Ngoià ra, luật sư c
òn ph
ải sử dụng ngôn ngữ tiếng Việt đúng (chính tả, ngữ pháp),
chuẩn xác, trong sáng. Trong quá trình soạn thảo luận cứ, luật sư cần lựa chọn từ ngữ, cân
nhắc thật kỹ cách dùngtừ để sử dụng nhữngtừ ngữ thật “đắt”, cógiá trị thuyết phục cao.
Kiều Anh V
ũ
– Kỹ năng soạn thảo Bản luận cứ bảo vệ cho đương sự trong vụ án hành chính 13
CHƯƠNG 3:
SOẠN THẢO BẢN LUẬN CỨ TRONG MỘT SỐ TÌNH HUỐNG CỤ THỂ
3.1. Soạn thảo Bản luận cứ trong vụ án hành chính: khiếu kiện Quyết định xử
phạt vi phạm hành chính về thuế trong l
ĩnh v
ực hải quan
3.1.1. Tóm tắt diễn biến vụ án
Ngày 4 tháng 7 năm 2007, Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu y tế Việt Nam

(VIMEDIMEX VN – “CTCP XNK YT VN”) đ
ã ký h
ợp đồng ủy thác số 01/VM-
BVTH/07 với Bệnh viện đa khoa Tỉnh Thanh Hóa về việc ủy thác nhập khẩu lô hàng thiết
bị y tế cho Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thanh Hóa. Nội dung của hợp đồng quy định nghĩa vụ
của các bên gồm:
- Bệnh viện đa khoa tỉnh Thanh Hóa có ngh
ĩa v
ụ cung cấp cho CTCP XNK YT VN
đầy đủ giấy tờ liên quan để CTCP XNK YT VN đi giao nhận hàng và chịu trách
nhiệm pháp lý về những giấy tờ trên.
- CTCP XNK YT VN tiến hành đầy đủ mọi thủ tục về xuất nhập khẩu để hoàn thành
việc giao nhận hàng hóa cho Bệnh viện đa khoa tỉnh Thanh Hóa.
CTCP XNK YT VN đ
ã ti
ến hành các thủ tục nhập khẩu hàng.
Ngày 13/11/2007, nhận thấy lô hàng mà CTCP XNK YT VN đ
ã th
ực hiện việc nhập
khẩu không thuộc diện đối tượng được miễn thuế VAT, Chi cục Kiểm tra sau thông quan
Thanh Hóa (“KTSTQ”) đ
ã ban hành 05 Quy
ết định truy thu thuế Giá trị gia tăng đối với
CTCP XNK YT VN (gồm Quyết định số 852/QĐ-CHQTH truy thu 39.390.000 đồng thuế
Giá trị gia tăng đối với hàng nhập khẩu tại tờ khai số 24/NK-ĐTTN-CTH ngày
06/7/2007; Quyết định số 853/QĐ-CHQTH truy thu 245.195.000 đồng thuế Giá trị gia
tăng đối với hàng nhập khẩu tại tờ khai số 25/NK-ĐTTN-CTH ngày 06/7/2007; Quyết
định số 854/QĐ-CHQTH truy thu 39.993.000 đồng thuế Giá trị gia tăng đối với hàng
nhập khẩu tại tờ khai số 26/NK-ĐTTN-CTH ngày 19/7/2007; Quyết định số 855/QĐ-
CHQTH truy thu 89.016.000 đồng thuế Giá trị gia tăng đối với hàng nhập khẩu tại tờ khai

số 28/NK-ĐTTN-CTH ngày 14/8/2007; Quyết định số 856/QĐ-CHQTH truy thu
2.708.861.000 đồng thuế Giá trị gia tăng đối với hàng nhập khẩu tại tờ khai số 32/NK-
ĐTTN-CTH ngày 23/8/2007). Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thanh Hóa đ
ã n
ộp các khoản thuế
bị truy thu này.
Ngày 20/3/2008, Chi cục trưởng Chi cục KTSTQ ban hành Quyết định xử phạt số
34/QĐ-KTSTQ (“QĐ 34”) xử phạt vi phạm hành chính về hải quan trong l
ĩnh v
ực thuế
đối vớí CTCP XNK YT VN với hình thức xử phạt chính là phạt tiền 10% số tiền thuế còn
thiếu, tổng số tiền 312.246.000 VNĐ v
ì đã có hành vi v
i phạm hành chính “không khai
thuế GTGT trong khi làm thủ tục nhập khẩu hàng hóa dẫn đến thiếu số thuế GTGT phải
nộp” (không có hình thức xử phạt bổ sung).
Kiều Anh V
ũ
– Kỹ năng soạn thảo Bản luận cứ bảo vệ cho đương sự trong vụ án hành chính 14
Ngày 28/5/2008, CTCP XNK YT VN đ
ã g
ửi Đơn khiếu nại (lần 1) số 2805A-
08/VIME-TTB tới Cục Hải Quan, UBND tỉnh Thanh Hóa, Bệnh viện đa khoa tỉnh Thanh
Hóa để khiếu nại về việc xử phạt vi phạm hành chính đối với lô hàng thiết bị y tế từ
nguồn tín dụng ưu đ
ãi v
ốn ODA Phần Lan. Ngày 05/6/2008, CTCP XNK YT VN tiếp tục
có Đơn khiếu nại số 0506A-08/VIME-TTB gửi đến Cục Hải quan Thanh Hóa, UBND
tỉnh Thanh Hóa.
Ngày 04/7/2008, đ

ã có Quy
ết định giải quyết khiếu nại Quyết định xử phạt vi phạm
hành chính trong l
ĩnh v
ực hải quan số 01/QĐ-KTSTQ giải quyết giữ nguyên Quyết định
xử phạt số 34/QĐ-KTSTQ ngày 20/3/2008.
Ngày 08/7/2008, CTCP XNK YT VN tiếp tục có đơn khiếu nại số 0807/VN-KN
(lần 2) gửi tới Cục trưởng cục Hải quan Thanh Hóa.
Ngày 21/8/2008, Chi cục trưởng Chi cục KTSTQ ban hành Công văn số
134/HQTH-KTSTQ đính chính Quyết định số 134/HQTH-KTSTQ: đính chính căn cứ
pháp lý từ “Căn cứ Điều 4 Nghị định số 97/2007/NĐ-CP ngày 06/7/2007” thành “Căn cứ
khoản 4 Điều 9 Nghị định số 97/2007/NĐ-CP ngày 07/6/2007”; đính chính M
ã s
ố thuế
của CTCP XNK YT VN từ “0100108307” thành “0100108367”.
Ngày 11/9/2008, Cục trưởng cục hải quan Thanh Hóa ra quyết định số 462/QĐ-
HQTH về việc giải quyết khiếu nại Quyết định xử phạt trong l
ĩnh v
ực thuế, Quyết định
giữ nguyên nội dung văn bản số 134/HQTH-KTSTQ ngày 21/8/2008 của Chi cục trưởng
Chi cục KTSTQ, giữ nguyên nội dung của Quyết định xử phạt số 34/QĐ-KTSTQ ngày
20/3/2008 của Chi cục trưởng Chi cục KTSTQ.
Ngày 1/10/2008, CTCP XNK YT VN đ
ã làm
Đơn kh
ởi kiện gửi tới TAND Tỉnh
Thanh Hóa do bà Nguyễn Thị Tô Lịch ký đ
ơn, yêu c
ầu Tòa án giải quyết những vấn đề
sau:

1/ Yêu cầu hủy Quyết định xử phạt số 34/QĐ-KTSTQ ngày 20/3/2008, Quyết định
giải quyết khiếu nại lần 1 số 01/QĐ-KTSTQ ngày 04/07/2008 của Chi cục trưởng Chi cục
kiểm tra sau thông quan – Cục Hải quan Thanh Hóa, Quyết định giải quyết khiếu nại lần
2 số 426/QĐ-HQTH ngày 11/9/2008 của Cục trưởng Cục Hải quan Thanh Hóa.
2/ Yêu cầu Cục Hải quan Thanh Hóa trả lại số tiền mà công ty đ
ã n
ộp phạt và lãi
suất theo quy định của Ngân hàng.
3/ Yêu cầu Cục Hải quan Thanh Hóa bồi thường thiệt hại do chi phí thuê luật sư tư
vấn, chi phí đi lại để giải quyết vụ việc.
4/ Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời : Yêu cầu Cục hải quan Thanh Hóa chưa
đưa vụ việc lên hệ thống quản lý rủi ro để Công ty chưa bị xếp vào loại doanh nghiệp vi
phạm và không được hưởng quyền ân hạn về thuế theo quy định của pháp luật hải quan.
Kiều Anh V
ũ
– Kỹ năng soạn thảo Bản luận cứ bảo vệ cho đương sự trong vụ án hành chính 15
Ngày 20/10/2008 Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa ra Thông báo thụ lý vụ án số
01/2008/TB-THAT.
Ngày 13/02/2009, TAND tỉnh Thanh Hóa ra quyết định đưa vụ án ra xét xử số
01/HCST-HĐXX đối với vụ án.
3.1.2. Bản luận cứ bảo vệ cho người khởi kiện
Kính thưa HĐXX,
Thưa vị đại diện Viện kiểm sát và các vị Luật sư đồng nghiệp,
Tôi là Kiều Anh V
ũ, là Lu
ật sư thuộc Văn ph
òng Lu
ật sư _____________, Đoàn
Luật sư TP. Hồ Chí Minh. Theo yêu cầu của CTCP XNK YT VN và được sự chấp thuận
của Quý Tòa, tôi có mặt tại Phiên tòa ngày hôm nay với tư cách là Luật sư bảo vệ quyền

và lợi ích hợp pháp cho Người khởi kiện là CTCP XNK YT VN.
1. Tóm tắt diễn biến vụ án
Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án và Phiên tòa ngày hôm nay, tôi xin nêu lại một số nét
chính về diễn biến vụ án như sau:
Ngày 4 tháng 7 năm 2007, Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu y tế Việt Nam
(VIMEDIMEX VN – “CTCP XNK YT VN”) đ
ã ký h
ợp đồng ủy thác số 01/VM-
BVTH/07 với Bệnh viện đa khoa Tỉnh Thanh Hóa về việc ủy thác nhập khẩu lô hàng thiết
bị y tế cho Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thanh Hóa. CTCP XNK YT VN đ
ã ti
ến hành các thủ
tục nhập khẩu lô hàng.
Ngày 13/11/2007, nhận thấy lô hàng mà CTCP XNK YT VN đ
ã th
ực hiện việc nhập
khẩu không thuộc diện đối tượng được miễn thuế VAT, Chi cục Kiểm tra sau thông quan
Thanh Hóa (“KTSTQ”) đ
ã ban hành 05 Quy
ết định truy thu thuế Giá trị gia tăng đối với
CTCP XNK YT VN (gồm Quyết định số 852/QĐ-CHQTH truy thu 39.390.000 đồng thuế
Giá trị gia tăng đối với hàng nhập khẩu tại tờ khai số 24/NK-ĐTTN-CTH ngày
06/7/2007; Quyết định số 853/QĐ-CHQTH truy thu 245.195.000 đồng thuế Giá trị gia
tăng đối với hàng nhập khẩu tại tờ khai số 25/NK-ĐTTN-CTH ngày 06/7/2007; Quyết
định số 854/QĐ-CHQTH truy thu 39.993.000 đồng thuế Giá trị gia tăng đối với hàng
nhập khẩu tại tờ khai số 26/NK-ĐTTN-CTH ngày 19/7/2007; Quyết định số 855/QĐ-
CHQTH truy thu 89.016.000 đồng thuế Giá trị gia tăng đối với hàng nhập khẩu tại tờ khai
số 28/NK-ĐTTN-CTH ngày 14/8/2007; Quyết định số 856/QĐ-CHQTH truy thu
2.708.861.000 đồng thuế Giá trị gia tăng đối với hàng nhập khẩu tại tờ khai số 32/NK-
ĐTTN-CTH ngày 23/8/2007). Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thanh Hóa đ

ã n
ộp các khoản thuế
bị truy thu này.
Ngày 20/3/2008, Chi cục trưởng Chi cục KTSTQ ban hành Quyết định xử phạt số
34/QĐ-KTSTQ (“QĐ 34”) xử phạt vi phạm hành chính về hải quan trong l
ĩnh v
ực thuế
Kiều Anh V
ũ
– Kỹ năng soạn thảo Bản luận cứ bảo vệ cho đương sự trong vụ án hành chính 16
đối vớí CTCP XNK YT VN với hình thức xử phạt chính là phạt tiền 10% số tiền thuế còn
thiếu, tổng số tiền 312.246.000 VNĐ v
ì đã có hành vi vi ph
ạm hành chính “không khai
thuế GTGT trong khi làm thủ tục nhập khẩu hàng hóa dẫn đến thiếu số thuế GTGT phải
nộp” (không có hình thức xử phạt bổ sung).
Ngày 28/5/2008, CTCP XNK YT VN đ
ã g
ửi Đơn khiếu nại (lần 1) số 2805A-
08/VIME-TTB tới Cục Hải Quan, UBND tỉnh Thanh Hóa, Bệnh viện đa khoa tỉnh Thanh
Hóa để khiếu nại về việc xử phạt vi phạm hành chính đối với lô hàng thiết bị y tế từ
nguồn tín dụng ưu đ
ãi v
ốn ODA Phần Lan. Ngày 05/6/2008, CTCP XNK YT VN tiếp tục
có Đơn khiếu nại số 0506A-08/VIME-TTB gửi đến Cục Hải quan Thanh Hóa, UBND
tỉnh Thanh Hóa.
Ngày 04/7/2008, đ
ã có Quy
ết định giải quyết khiếu nại Quyết định xử phạt vi phạm
hành chính trong l

ĩnh v
ực hải quan số 01/QĐ-KTSTQ giải quyết giữ nguyên Quyết định
xử phạt số 34/QĐ-KTSTQ ngày 20/3/2008.
Ngày 08/7/2008, CTCP XNK YT VN tiếp tục có đơn khiếu nại số 0807/VN-KN
(lần 2) gửi tới Cục trưởng cục Hải quan Thanh Hóa.
Ngày 21/8/2008, Chi cục trưởng Chi cục KTSTQ ban hành Công văn số
134/HQTH-KTSTQ đính chính Quyết định số 134/HQTH-KTSTQ: đính chính căn cứ
pháp lý từ “Căn cứ Điều 4 Nghị định số 97/2007/NĐ-CP ngày 06/7/2007” thành “Căn cứ
khoản 4 Điều 9 Nghị định số 97/2007/NĐ-CP ngày 07/6/2007”; đính chính M
ã s
ố thuế
của CTCP XNK YT VN từ “0100108307” thành “0100108367”.
Ngày 11/9/2008, Cục trưởng cục hải quan Thanh Hóa ra quyết định số 462/QĐ-
HQTH về việc giải quyết khiếu nại Quyết định xử phạt trong l
ĩnh v
ực thuế, Quyết định
giữ nguyên nội dung văn bản số 134/HQTH-KTSTQ ngày 21/8/2008 của Chi cục trưởng
Chi cục KTSTQ, giữ nguyên nội dung của Quyết định xử phạt số 34/QĐ-KTSTQ ngày
20/3/2008 của Chi cục trưởng Chi cục KTSTQ.
Ngày 1/10/2008, CTCP XNK YT VN đ
ã làm
Đơn kh
ởi kiện gửi tới TAND Tỉnh
Thanh Hóa. Vụ án được thụ lý theo Thông báo số 01/2008/TB-THAT ngày 20/10/2008
Tòa án nhân dân tỉnh Thanh Hóa.
Ngày 13/02/2009, TAND tỉnh Thanh Hóa ra quyết định đưa vụ án ra xét xử số
01/HCST-HĐXX đối với vụ án.
2. Quan điểm pháp lý
Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án và Phiên tòa ngày hôm nay, tôi xin trình bày các quan
điểm pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của CTCP XNK YT VN như sau:

Thứ nhất, đối tượng nộp thuế không phải là CTCP XNK YT VN. Theo quy định tại
Điều 3 Luật Thuế GTGT, đối tượng nộp thuế là người nhập khẩu hàng hóa chịu thuế.
Kiều Anh V
ũ
– Kỹ năng soạn thảo Bản luận cứ bảo vệ cho đương sự trong vụ án hành chính 17
Trong trường hợp này CTCP XNK YT VN không phải là người nhập khẩu mà chỉ “nhận
ủy thác nhập khẩu” cho Bệnh viện Đa khoa Thanh Hóa. Thực tế, Bệnh viện Đa khoa
Thanh Hóa c
ũng đã tr
ực tiếp nộp số tiền thuế bị truy thu. Do đó, CTCP XNK YT VN
không chịu trách nhiệm kê khai thuế c
ũng như n
ộp phạt vi phạm về thuế.
Thứ hai, CTCP XNK YT VN hoàn toàn không có lỗi đối với hành vi “không khai
thuế GTGT trong khi làm thủ tục nhập khẩu hàng hóa dẫn đến thiếu số thuế GTGT phải
nộp”. CTCP XNK YT VN không phải không khai thuế mà là đ
ã khai thu
ế theo đúng quy
định và tuân thủ theo hướng dẫn của cán bộ Cục hải quan Thanh Hóa. Trước khi tiến hành
các thủ tục nhập khẩu lô hàng, vì đây là lô hàng sử dụng nguồn vốn ODA và lần đầu khai
báo nhập khẩu tại Cục hải quan Thanh Hóa nên CTCP XNK YT VN và Bệnh viện Đa
khoa Thanh Hóa đ
ã r
ất thận trọng. Bệnh viện Đa khoa Thanh Hóa đ
ã có công v
ăn s

101/BV-KH ngày 01/5/2007 đề nghị Cục hải quan Thanh Hóa hướng dẫn kê khai thuế và
đ
ã làm vi

ệc nhiều lần với Cục, Chi cụ hải quan Thanh Hóa trước khi hàng về. Bệnh viện
đa khoa Thanh Hóa và CTCP XNK YT VN đ
ã
đư
ợc công chức Hải quan Thanh Hóa
hướng dẫn là hàng hóa thuộc hàng miễn thuế, đ
òng th
ời Hải quan Thanh Hóa c
ũng xác
nhận là hàng miễn thuế nhập khẩu và thuế VAT (có but ghi của cán bộ Hải quan trên tờ
khai hàng hóa nhập khẩu: “Hàng miễn thuế theo TT 113/2005/TT-BTC ngày 15/12/2005”
và “Căn cứ TT 32/2007/TT-BTC ngày 09/4/2007 hàng không chịu thuế GTGT”. Như vậy,
CTCP XNK YT VN hoàn toàn không có lỗi và c
ũng không có h
ành vi
“không khai thuế
GTGT trong khi làm thủ tục nhập khẩu hàng hóa dẫn đến thiếu số thuế GTGT phải nộp”
mà CTCP XNK YT VN đ
ã khai thuê theo h
ư
ớng dẫn của cán bộ hải quan. Theo khoản 1
Điều 6 Luật Quản lý thuế, người nộp thuế “được hướng dẫn thực hiện việc nộp thuế; cung
cấp thông tin, tài liệu để thực hiện ngh
ĩa v
ụ, quyền lợi về thuế”. Khoản 2 Điều 8 Luật
Quản lý thuế c
ũng quy đ
ịnh trách nhiệm của cơ quan quản lý thuế là “hướng dẫn pháp
luật về thuế; công khai các thủ tục về thuế”; khoản 2 Điều 27 Luật Hải quan c
ũng quy

định trách nhiệm của Công chức hải quan là “hướng dẫn người khai hải quan khi có yêu
cầu”. Như vậy, việc kê khai thuế và nộp thuế của CTCP XNK YT VN và Bệnh viện Đa
Khoa Thanh Hóa là đúng quy định và không có lỗi trong việc dẫn đến thiếu số thuế
GTGT phải nộp.
Thứ ba, căn cứ pháp lý đ
ư
ợc áp dụng trong Quyết định 34 là không đúng. Cụ thể,
trong Quyết định 34, Chi cục trưởng Chi cục KTSTQ áp dụng “Điều 4 Nghị định
97/2007/NĐ-CP ngày 06/7/2007”. Thực tế không có Nghị định nào mang số hiệu
97/2007/NĐ-CP được ban hành vào ngày 06/7/2007. Điều 4 Nghị định 97/2007/NĐ-CP
ngày 07/6/2007 của Chính phủ quy định việc xử lý vi phạm hành chính và cưỡng chế thi
hành Quyết định hành chính trong l
ĩnh v
ực hải quan quy định về “các tình tiết tăng nặng”,
không phải là cơ sở pháp lý để quyết định mức xử phạt 10% số tiền thuế còn thiếu.
Thứ tư, Quyết định 34 ghi không đúng m
ã s
ố thuế của CTCP XNK YT VN.
Mặc dù ngày 21/8/2008, Chi cục trưởng Chi cục KTSTQ ban hành Công văn số
134/HQTH-KTSTQ đính chính Quyết định số 134/HQTH-KTSTQ về căn cxứ pháp lý và
Mã số thuế được ghi trong Quyết định 34 nhưng việc đính chính này là không phù hợp.
Kiều Anh V
ũ
– Kỹ năng soạn thảo Bản luận cứ bảo vệ cho đương sự trong vụ án hành chính 18
Chi cục trưởng Chi cục KTSTQ dã dùng một Công văn để đính chính một Quyết định xử
phạt vi phạm hành chính là hoàn toàn khiên cưỡng, không phù hợp với nội dung, tính chất
của các loại văn bản này theo quy định về công tác văn thư, thể thức văn bản hành chính
NHà nước. Công văn này lại được ban hành sau khi đ
ã có khi
ếu nại của CTCP XNK YT

VN và Quyết định giải quyết khiếu nại của Chi cục trưởng KTSTQ, ban hành sau Quyết
định 34 hơn 160 ngày là càng không phù hợp.
Thứ năm, mức xử phạt theo Quyết định 34 là không đúng quy định pháp luật. Theo
05 Quyết định truy thu thuế số 852/QĐ-CHQTH, 853/QĐ-CHQTH, 854/QĐ-CHQTH,
855/QĐ-CHQTH, 856/QĐ-CHQTH ngày 13/11/2007 của Chi cục KTSTQ, tổng só tiền
thuế bị truy thu là 3.122.4550.000 đồng. Theo Quyết định 34, Chi cục trưởng KTSTQ
quyết định mức phạt đối với CTCP XNK YT VN là 10% số tiền thuế bị thiếu nhưng mức
phạt lại được ghi là 312.246.000 đồng. Việc tính toán như vậy là hoàn toàn không chính
xác.
Thứ sáu, thẩm quyền xử phạt của Chi cục trưởng Chi cục KTSTQ là không đúng với
quy định của pháp luật. Theo Quyết định 34, Chi cục trưởng Chi cục KTSTQ đ
ã quy
ết
định xử phạt đối với CTCP XNK YT VN là 312.246.000 đồng. Tuy nhiên, theo quy định
tại điểm d khoản 2 Điều 14 PLXLVPHC 2002-2007, đối với hành vi vi phạm hành chính
trong l
ĩnh v
ực thuế, mức phạt tối đa là không quá 100.000.000 đồng. Căn cứ điểm b
khoản 2 Điều 34 PLXLVPHC 2002-2007, điểm b khoản 2 Điều 328 Nghị định 97/2007,
thẩm quyền xử phạt của Chi cục trưởng Chi cục KTSTQ là tối đa đến 10.000.000 đồng.
Do đó, Chi cục trưởng Chi cục KTSTQ Thanh Hóa quyết định xử phạt 312.246.000 đồng
đối với CTCP XNK YT VN là hoàn toàn sai về thẩm quyền.
Như vậy, Quyết định số 34 của Chi cục trưởng Chi cục KTSTQ Thanh Hóa là xử
phạt không đúng đối tượng, áp dụng pháp luật không đúng và sai về thẩm quyền.
Về yêu cầu bồi thường thiệt hại của CTCP XNK YT VN:
Căn cứ điểm b khoản 1 Mục I Thông tư 49/2008, Cơ quan quản lý thuế có trách
nhiệm bồi thường cho người nộp thuế, người khai hải trong trường hợp cán bộ, công chức
thuế, hải quan có hành vi sau xử lý và ra quyết định xử phạt hành chính thuế sai quy định
của pháp luật về thuế. Do đó, yêu cầu bồi thường thiệt hại của là có cơ sở.
Từ những phân tích nêu trên, tôi kính đề nghị Hội đồng xét xử:

- Hủy toàn bộ Quyết định số 34 ngày 20/3/2008 của Chi cục trưởng Chi cục KTSTQ
Thanh Hóa;
- Yêu cầu Cục Hải quan Thanh Hóa trả lại số tiền phạt mà CTCP XNK YT đ
ã n
ộp;
- Chấp nhận yêu cầu bồi thường thiệt hại của;
Kiều Anh V
ũ
– Kỹ năng soạn thảo Bản luận cứ bảo vệ cho đương sự trong vụ án hành chính 19
- Chấp nhận yêu cầu của CTCP XNK YT yêu cầu Cục Hải quan Thanh Hóa không
đưa vụ việc lên hệ thống quản lý rủi ro.
Trên đây là quan điểm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của CTCP XNK YT VN.
Kính mong Hội đồng xét xử quan tâm xem xét để có phán quyết công minh.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
Trân trọng,
Luật sư Kiều Anh V
ũ.
3.2. Soạn thảo Bản luận cứ trong vụ án hành chính: Khiếu kiện Quyết định
hành chính trong l
ĩnh v
ực đất đai
3.2.1. Tóm tắt diễn biến vụ án
Năm 1981, ông Hồ Văn Bê và bà Lê Thị Khuê đi kinh tế mới làm việc tại nông
trường quốc doanh An Hạ thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thành phố H.
Năm 1982, Nông trường An Hạ có cấp cho Ông Bê và bà Khuê một lô đất thổ cư với diện
tích 600m
2
nằm trên tỉnh lộ 10. Diện tích đất hiện nay là 239m
2
, diện tích xấy dựng là

67,6m
2
, thuộc một phần thửa số 136 tờ bản đồ số 5, số 5B31, ấp 5, xã Phạm Văn Hai,
huyện Bình Chánh.
Ông Bê và bà Khuê đ
ã xây nhà và
đăng ký h
ộ khẩu thường trú tại địa chỉ trên. Hộ
khẩu thường trú gồm hai ông bà và con là Hồ Thị Ngoan.
Năm 1986, trên đường về quê là Huyện Mỏ Cày, tinh B, ông Bê và Khuê bị tai nạn
giao thông, ông Bê mất, còn bà Khuê bị thương nặng. Vì hoàn cảnh khó khăn, bà Ngoan
phải xin chuyển công tác (lúc đó bà Ngoan là giáo viên trường phổ thông cơ sở Hạ An) về
quê cùng các anh chị em lo chăm sóc bà Khuê. Bà Khuê đ
ã giao c
ăn nhà 5B31,
Ấp 5, xã
Phạm Văn Hai, huyện Bình Chánh cho ng
ư
ời con cả là Hồ Văn Ngộ trông coi quản lý và
xin tạm vắng cho bà Khuê và bà Ngoan.
Năm 1989, ông Ngộ về quê thông báo về việc Nhà nước có yêu cầu kê khai nhà đất.
bà Khuê đ
ã yêu c
ầu ông Ngộ làm lại hộ khẩu, nhà đất chuyển sang cho bà Khuê đứng tên
kèm theo giấy chứng tử của ông Bê vì lúc tr
ư
ớc, ông Bê – chồng bà Khuê đứng tên chủ
hộ.
Ngày 01/7/1989, nông trường quốc doanh An Hạ đ
ã c

ấp Giấy chứng nhận số 94/CN
cho Ông Ngộ chứng nhận ông Hồ Văn Ngộ là chủ hộ căn nhà số 8 dãy T40 lô 7 (nay là
nhà số 5B31, ấp 5, xã Phạm Văn Hai, huyện Bình Chánh, thành phố H).
Ngày 01/08/1999, Ông Hồ Văn Ngộ đ
ã ti
ến hành kê khai đăng k
ý nhà và đ
ất nêu
trên.
Kiều Anh V
ũ
– Kỹ năng soạn thảo Bản luận cứ bảo vệ cho đương sự trong vụ án hành chính 20
Đến năm 2002, bà Khuê phát hiện ông Ngộ đ
ã g
ạt bỏ tên bà và bà Ngoan ra khỏi hộ
khẩu và thay vào đó các thành viên trong gia đ
ình ông Ng
ộ và do ông Ngộ đứng tên. Bà
Khuê không đồng ý, vì thế xảy ra tranh chấp và có nhờ chính quyền địa phương can thiệp
nhưng chưa được giải quyết.
Ngày 17/03/2003 các con của Ông Ngộ là Hồ Văn Tặng, Hồ Thị Thuý Vân, Hồ Thị
Mỹ Lệ đ
ã làm gi
ấy uỷ quyền cho Ông Hồ Tấn Lực (anh em ruột) được đứng tên chủ sở
hữu nhà đất nói trên.
Ngày 16/05/2003, Ông Hồ Văn Ngộ chết.
Trong tháng 5/2003, bà Hồ Thị Ngoan có Đơn yêu cầu xin xác nhận chủ quyền nhà
đất gửi “Chính quyền ấp 5 xã Phạm Văn Hai, huyện Bình Chánh, TP. H”.
Ngày 01/08/2003, Bà Lê Thi Khuê đ
ã làm t

ờ di chúc uỷ quyền cho Bà Hồ Thị
Ngoan được toàn quyền sử dụng nhà và đất nói trên.
Ngày 06/2/2006, Bà Lê Thị Khuê có Đơn yêu cầy gửi UBND xã Phạm Văn Hai
huyện Bình Chánh và Chính quyền cơ sở ấp 5, xã Phạm Văn Hai; yêu cầu xem xét cấp
giấy chủ quyền nhà, đất cho bà Hồ Thị Ngoan.
Ngày 22/02/2006, Ông Hồ Tấn Lực đ
ã làm
đơn đ
ề nghị cấp GCN quyền sử dụng
nhà và quyền sử dụng đất gửi UBND huyện Bình Chánh. (
Đơn này đư
ợc UBNX xã Phạm
Văn Hai xác nhận không có tranh chấp).
Ngày 02/4/2006, bà Khuê mất.
Ngày 30/4/2006, Bà Hồ Thị Ngoan tiếp tục có Đơn yêu cầu gửi UBND xã Phạm
Văn Hai và Chính quyền cơ sở ấp 5, xã Phạm Văn Hai yêu cầu cấp Giấy chủ quyền nhà,
đất.
Ngày 19/5/2006, UBND huyện Bình Chánh
đ
ã ban hành Quy
ết định số 643/QĐ-UB
về việc cấp giấy chứng nhận QSH nhà và QSD đất ở cho ông Hồ Tấn Lực đối với căn nhà
và đất trên.
Ngày 28/7/2006, Bà Hồ Thị Ngoan đ
ã làm
đơn khi
ếu nại Quyết định số 643/QĐ-UB
của UBND Huyện Bình Chánh, Thành phố H.
Ngày 21/02/2007, UBND Huyện Bình Chánh
đ

ã ban hành quy
ết định số 638/QĐ-
UB giải quyết khiếu nại của bà Ngoan, bác đơn khiếu nại của bà Ngoan, giữ nguyên
Quyết định số 643/QĐ-UB ngày 19/5/2006 của UBND huyện Bình Chánh, Thành phố H.
Ngày 05/3/2007, Bà Hồ Thị Ngoan đ
ã làm Đơn kh
ởi kiện Quyết định số 643/QĐ-
UB ngày 19/5/2006 và Quyết định số 638/QĐ-UB ngày 21/02/2007.
Kiều Anh V
ũ
– Kỹ năng soạn thảo Bản luận cứ bảo vệ cho đương sự trong vụ án hành chính 21
Ngày 08/6/2007, Toà án nhân dân Huyện Bình Chánh, Thành phố H đ
ã ban hành
Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/QĐXX.
3.2.2. Bản luận cứ bảo vệ cho người khởi kiện Hồ Thị Ngoan
Kính thưa HĐXX,
Thưa vị đại diện Viện kiểm sát và các Luật sư đồng nghiệp,
Tôi là Kiều Anh V
ũ, là Lu
ật sư thuộc Văn ph
òng Lu
ật sư Lê Nguyễn, Đoàn Luật
sư TP. Hồ Chí Minh. Theo yêu cầu của bà Hồ Thị Ngoan và được sự chấp thuận của Quý
Tòa, tôi có mặt tại Phiên tòa ngày hôm nay với tư cách là Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp cho Người khởi kiện là bà Hồ Thị Ngoan.
1. Tóm tắt diễn biến vụ án
Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án và diễn biến phiên tòa ngày hôm nay, tôi xin nêu lại
một số nét chính về diễn biến vụ án như sau:
Năm 1981, ông Hồ Văn Bê và bà Lê Thị Khuê đi kinh tế mới làm việc tại nông
trường quốc doanh An Hạ thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn thành phố H.

Năm 1982, Nông trường An Hạ có cấp cho Ông Bê và bà Khuê một lô đất thổ cư với diện
tích 600m
2
nằm trên tỉnh lộ 10. Diện tích đất hiện nay là 239m
2
, diện tích xấy dựng là
67,6m
2
, thuộc một phần thửa số 136 tờ bản đồ số 5, số 5B31, ấp 5, xã Phạm Văn Hai,
huyện Bình Chánh.
Ông Bê và bà Khuê đ
ã xâ
y nhà và đăng k
ý h
ộ khẩu thường trú tại địa chỉ trên. Hộ
khẩu thường trú gồm hai ông bà và con là Hồ Thị Ngoan.
Năm 1986, trên đường về quê là Huyện Mỏ Cày, tinh B, ông Bê và Khuê bị tai nạn
giao thông, ông Bê mất, còn bà Khuê bị thương nặng. Vì hoàn cảnh khó khăn, bà Ngoan
phải xin chuyển công tác (lúc đó bà Ngoan là giáo viên trường phổ thông cơ sở Hạ An) về
quê cùng các anh chị em lo chăm sóc bà Khuê. Bà Khuê đ
ã giao c
ăn nhà 5B31,
Ấp 5, xã
Phạm Văn Hai, huyện Bình Chánh cho ng
ư
ời con cả là Hồ Văn Ngộ trông coi quản lý và
xin tạm vắng cho bà Khuê và bà Ngoan.
Năm 1989, ông Ngộ về quê thông báo về việc Nhà nước có yêu cầu kê khai nhà đất.
bà Khuê đ
ã yêu c

ầu ông Ngộ làm lại hộ khẩu, nhà đất chuyển sang cho bà Khuê đứng tên
kèm theo giấy chứng tử của ông Bê vì lúc tr
ư
ớc, ông Bê – chồng bà Khuê đứng tên chủ
hộ.
Ngày 01/7/1989, nông trường quốc doanh An Hạ đ
ã c
ấp Giấy chứng nhận số 94/CN
cho Ông Ngộ chứng nhận ông Hồ Văn Ngộ là chủ hộ căn nhà số 8 dãy T40 lô 7 (nay là
nhà số 5B31, ấp 5, xã Phạm Văn Hai, huyện Bình Chánh, thành phố H).
Kiều Anh V
ũ
– Kỹ năng soạn thảo Bản luận cứ bảo vệ cho đương sự trong vụ án hành chính 22
Ngày 01/08/1999, Ông Hồ Văn Ngộ đ
ã ti
ến hành kê khai đăng k
ý nhà và đ
ất nêu
trên.
Đến năm 2002, bà Khuê phát hiện ông Ngộ đ
ã g
ạt bỏ tên bà và bà Ngoan ra khỏi hộ
khẩu và thay vào đó các thành viên trong gia đ
ình ông Ng
ộ và do ông Ngộ đứng tên. Bà
Khuê không đồng ý, vì thế xảy ra tranh chấp và có nhờ chính quyền địa phương can thiệp
nhưng chưa được giải quyết.
Ngày 17/03/2003 các con của Ông Ngộ là Hồ Văn Tặng, Hồ Thị Thuý Vân, Hồ Thị
Mỹ Lệ đ
ã làm gi

ấy uỷ quyền cho Ông Hồ Tấn Lực (anh em ruột) được đứng tên chủ sở
hữu nhà đất nói trên.
Ngày 16/05/2003, Ông Hồ Văn Ngộ chết.
Trong tháng 5/2003, bà Hồ Thị Ngoan có Đơn yêu cầu xin xác nhận chủ quyền nhà
đất gửi “Chính quyền ấp 5 xã Phạm Văn Hai, huyện Bình Chánh, TP. H”.
Ngày 01/08/2003, Bà Lê Thi Khuê đ
ã làm t
ờ di chúc uỷ quyền cho Bà Hồ Thị
Ngoan được toàn quyền sử dụng nhà và đất nói trên.
Ngày 06/2/2006, Bà Lê Thị Khuê có Đơn yêu cầy gửi UBND xã Phạm Văn Hai
huyện Bình Chánh và Chính quyền cơ sở ấp 5, xã Phạm Văn Hai; yêu cầu xem xét cấp
giấy chủ quyền nhà, đất cho bà Hồ Thị Ngoan.
Ngày 22/02/2006, Ông Hồ Tấn Lực đ
ã làm
đơn đ
ề nghị cấp GCN quyền sử dụng
nhà và quyền sử dụng đất gửi UBND huyện Bình Chánh. (
Đơn này đư
ợc UBNX xã Phạm
Văn Hai xác nhận không có tranh chấp ngày 25/3/2006).
Ngày 02/4/2006, bà Khuê mất.
Ngày 30/4/2006, Bà Hồ Thị Ngoan tiếp tục có Đơn yêu cầu gửi UBND xã Phạm
Văn Hai và Chính quyền cơ sở ấp 5, xã Phạm Văn Hai yêu cầu cấp Giấy chủ quyền nhà,
đất.
Ngày 19/5/2006, UBND huyện Bình Chánh
đ
ã ban hành Quy
ết định số 643/QĐ-UB
về việc cấp giấy chứng nhận QSH nhà và QSD đất ở cho ông Hồ Tấn Lực đối với căn nhà
và đất trên.

Ngày 28/7/2006, Bà Hồ Thị Ngoan đ
ã làm
đơn khi
ếu nại Quyết định số 643/QĐ-UB
của UBND Huyện Bình Chánh, Thành phố H.
Ngày 21/02/2007, UBND Huyện Bình Chánh đ
ã ban hành quy
ết định số 638/QĐ-
UB giải quyết khiếu nại của bà Ngoan, bác đơn khiếu nại của bà Ngoan, giữ nguyên
Quyết định số 643/QĐ-UB ngày 19/5/2006 của UBND huyện Bình Chánh, Thành phố H.
Kiều Anh V
ũ
– Kỹ năng soạn thảo Bản luận cứ bảo vệ cho đương sự trong vụ án hành chính 23
Ngày 05/3/2007, Bà Hồ Thị Ngoan đ
ã làm Đơn kh
ởi kiện Quyết định số 643/QĐ-
UB ngày 19/5/2006 và Quyết định số 638/QĐ-UB ngày 21/02/2007.
Ngày 08/6/2007, Toà án nhân dân Huyện Bình Chánh, Thành phố H đ
ã ban hành
Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 05/QĐXX. Ngày hôm nay, vụ án được đưa ra xét xử sơ
thẩm.
2. Quan điểm pháp lý
Qua nghiên cứu hồ sơ vụ án và diễn biến phiên tòa ngày hôm nay, tôi xin trình bày
các quan điểm pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho Người khởi kiện là bà Hồ
Thị Ngoan như sau:
2.1. Về thủ tục tố tụng
Đối tượng khởi kiện trong vụ án này là Quyết định hành chính số 643/QĐ-UB ngày
19/05/2006 của UBND huyện Bình Chánh về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu
nhà ở và quyền sử dụng đất ở cho ông Hồ Tấn Lực. Việc khiếu kiện này là đúng thẩm
quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh căn cứ vào khoản 17 Điều 11

Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án hành chính
5
. Người khởi kiện là bà Hồ Thị Ngoan
đ
ã th
ực hiện giai đoạn “tiền tố tụng” theo quy định tại khoản 2 Điều 2 PL TTGQCVAHC
6
qua việc khiếu nại lần đầu đến Chủ tịch UBND huyện Bình Chánh và đ
ã nh
ận được quyết
định giải quyết khiếu nại số 638/QĐ-UB ngày 21/02/2007. Do không đồng ý với quyết
định giải quyết này nên bà Ngoan đ
ã kh
ởi kiện vụ án hành chính với yêu cầu huỷ bỏ
Quyết định 643/QĐ-UB ngày 19/05/2006 của UBND Huyện Bình Chánh và hủy bỏ Giấy
chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở của ông Hồ Tấn Lực. Việc khiếu
kiện này là còn trong thời hiệu khởi kiện nên hòan toàn
đúng tr
ình t
ự thủ tục.
2.2. Về nội dung
Các yêu cầu của Người khởi kiện là hoàn toàn có cơ sở, bởi vì:
Thứ nhất, Quyết định số 643/QĐ-UB ngày 19/5/2006 của UBND huyện Bình Chánh
về việc cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà và quyền sử dụng đất ở cho ông Hồ Tấn
5
Khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai trong trường hợp giao đất, cho thuê đất,
thu hồi đất, trưng dụng đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất; bồi thường, hỗ trợ, giải phóng mặt bằng, tái định
cư; cấp hoặc thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; gia hạn thời hạn sử dụng đất
6
Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện để Toà án giải quyết vụ án hành chính về khiếu kiện quy định tại

khoản 17 Điều 11 của Pháp lệnh này trong các trường hợp sau đây:
a) Đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai do Chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện, quận,
thị xã, thành phố thuộc tỉnh giải quyết khiếu nại lần đầu, nhưng người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải
quyết đó và không tiếp tục khiếu nại đến Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương;
Kiều Anh V
ũ
– Kỹ năng soạn thảo Bản luận cứ bảo vệ cho đương sự trong vụ án hành chính 24
Lực tại ấp 5 xã Phạm Văn Hai (“Quyết định 643”) được ban hành không đúng thẩm
quyền và sai về thể thức văn bản.
Theo khoản 2 Điều 52 Luật Đất đai, khoản 2 Điều 4 Nghị định 95, cơ quan có thẩm
quyền cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở và nhà ở cho hộ gia đ
ình, cá nhân là
UBND cấp huyện
7
. Như vậy, nếu như hộ gia đ
ình ôg H
ồ Tấn Lực đủ điều kiện để được
cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và đất ở thì C
ơ quan có th
ẩm quyền cấp phải là
UBND huyện Bình Chánh. Nh
ưng Quy
ết định số 643 (BL 45) lại do Chủ tịch UBND
huyện Bình Chánh ban hành. Quyết định này ghi rõ: “Quyết định của Chủ tịch UBND
huyện Bình Chánh”. Hơn nữa, Quyết định lại do Phó Chủ tịch Lê Minh Huệ ký thay Chủ
tịch UBND huyện Bình Chánh; trong Giấy Chứng nhận Quyền sở hữu nhà ở và quyền sử
dụng đất ở c
ũng do Phó Ch
ủ tịch ký. Việc ký và ban hành v
ăn b

ản như vậy là không phù
hợp với quy định của Luật Tổ chức HĐND và UBND 2003; trái với quy định về thể thức
và kỹ thuật trình bày v
ăn b
ản theo quy định tại Thông tư liên tịch 05/2005/TTLT.
Ngoài ra, căn cứ ban hành Quyết định 643 c
ũng ch
ưa đ
ầy đủ. Tại thời điểm UBND
huyện Bình Chánh ban hành Quyết định số 643, UBND TP. H đ
ã có Quy
ết định số
04/2003/QĐ-UB ngày 06/01/2003 về về việc ban hành “Quy định về trình tự, thủ tục cấp
Giấy chứng nhận quyến ở hữu nhà và quyền sử dụng đất tại Thành phố H. Thế nhưng
trong phần việc dẫn các căn cứ pháp lý ban hành Quyết định số 643, UBND huyện Bình
Chánh không viễn dẫn Quyết định này là chưa đầy đủ.
Thứ hai Quyết định số 643/QĐ-UB ngày 19/5/2006 của UBND huyện Bình Chánh
vi phạm điều kiện về cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Theo quy định tại Điều 50 Luật Đất đai năm 2003, Điều 48 Nghị định
181/2004/NĐ-CP thì một trong những điều kiện để được cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho hộ gia đ
ình, cá nhân là “
đ
ất không có tranh chấp” và “được UBND xã
phường, thị trấn xác nhận không có tranh chấp”. Theo quy định tại khoản 26 Điều 4 Luật
Đất đai, “tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền và ngh
ĩa v
ụ của người sử dụng đất
giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai”.
Căn cứ vào hồ sơ và diễn biến vụ án, từ tháng 05/2003 – 02/2006, bà Ngoan, bà

Khuê đ
ã liên t
ục có Đơn gửi đến UBND xã Phạm Văn Hai và Chính quyền cơ sở ấp 5 xã
Phạm Văn Hai yêu cầu xem xét cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà đất cho bà Hồ
Thị Ngoan (Trong tháng 5/2003, bà Hồ Thị Ngoan có Đơn yêu cầu xin xác nhận chủ
quyền nhà đất gửi “Chính quyền ấp 5 xã Phạm Văn Hai, huyện Bình Chánh, TP. H”.
Ngày 06/2/2006, Bà Lê Thị Khuê có Đơn yêu cầy gửi UBND xã Phạm Văn Hai huyện
Bình Chánh và Chính quyền cơ sở ấp 5, xã Phạm Văn Hai; yêu cầu xem xét cấp giấy chủ
quyền nhà, đất cho bà Hồ Thị Ngoan).
7
Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ gia đ
ình,
cá nhân, cộng đồng dân cư, người Việt Nam định cư ở nước ngoài mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở

×