Tải bản đầy đủ (.pdf) (45 trang)

Giáo trình-Luật tài chính 1-chương 2 pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (607.48 KB, 45 trang )

CHƯƠNG II
NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC VÀ LUẬT NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

I. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1. Khái niệm ngân sách nhà nước:
Ngân sách nhà nước là phạm trù kinh tế thuộc lĩnh vực tài chính.
Hiện tượng ngân sách ra đời và tồn tại từ rất lâu trong lịch sử, trên cơ sở
của nền kinh tế hàng hoá và sự hình thành, phát triển của nhà nước.
Các nhà khoa học về lịch sử và kinh tế đã chứng minh rằng chính
sản xuất và trao đổi hàng hóa đã dẫn tới sự ra đời tiền tệ. Sau 3 lần phân
công lao động xã hội đóng vai trò quan trọng trong sự phân hóa các giai
cấp trong xã hội, đặc biệt là phân công lao động xã hội lần thứ ba, kết
quả là sự ra đời của giai cấp thương nhân. Giai cấp thương nhân ra đời
dẫn đến các quan hệ trao đổi mua bán cũng phát triển mạnh mẽ, cùng
với nó là sự xuất hiện của tiền tệ.
Tiền tệ ra đời giữ vai trò là vật ngang giá chung, trung gian trong
việc trao đổi hàng hóa.
Cuối thời kỳ công xã nguyên thủy, khi mâu thuẩn giữa các giai cấp
đã không còn được dung hòa bởi tổ chức của thị tộc, nhà nước đã ra đời.
Nhà nước ra đời thúc đẩy mạnh mẽ việc sử dụng tiền tệ trong lưu thông
hàng hóa. Sự ra đời và tồn tại của Nhà nước làm nảy sinh nhu cầu chi
tiêu của Nhà nước. Điều đó đòi hỏi Nhà nước dùng quyền lưc chính trị
để tập trung một bộ phận của cải của xã hội cho mình, tham gia quá trình
phân phối của cải với tư cách chủ thể quyền lực chính trị. Trong các
hình thức được nhà nước sử dụng để tập trung của cải thì thuế là hình
thức được sử dụng sớm nhất và cũng có vai trò quan trọng nhất. Nhà
nước tham gia quá trình phân phối của cải xã hội hình thức giá trị để lập
và sử dụng quỹ tiền tệ của Nhà nước đã hình thành nên ngân sách Nhà
nước. Nói cách khác, sự ra đời của kiểu nhà nước đầu tiên trong lịch sử,
cùng với nó là hoạt động của nhà nước trong lĩnh vực phân phối và phân
phối lại của cải xã hội đã hình thành nên kho tài sản của nhà nứơc, phục


vụ cho nhu cầu chi tiêu của nhà nước chính là mồng mống ban đầu của
hiện tượng ngân sách nhà nước
Hiện tượng ngân sách nhà nước tồn tại và phát triển cùng với sự ra
đời và phát triển của các kiểu nhà nước trong lịch sử phát triển xã hội.
Tuy nhiên, thuật ngữ ngân sách nhà nước chỉ được bắt đầu sử dụng khi
các khoản thu chi của nhà nước được thể chế hoá bằng pháp luật, tức là,
có sự xác định, thừa nhận, công khai hoá bằng luật pháp đối với những
khoản thu chi của nhà nước sử dụng ngân sách nhà nước.
Về khái niệm ngân sách nhà nước, có nhiều định nghĩa khác nhau
về thuật ngữ này. Quan điểm thứ nhất cho rằng ngân sách nhà nước là
bản dự toán thu chi tài chính của nhà nước trong 1 khoản thời gian nhất
định. Có quan điểm lại cho rằng, ngân sách nhà nước chính là quỹ tiền tệ
của nhà nước. Thật ra, những định nghĩa về ngân sách nhà nước theo
những quan điểm khác nhau đều thể hiện sự khái quát hiện tượng ngân
sách nhà nước ở những phương diện khác nhau. Để có cách hiểu đầy đủ
về ngân sách nhà nước, chúng ta tìm hiểu khái niệm này từ 2 phương
diện:
Một là, do ngân sách là một phạm trù kinh tế, vậy nên, ngân sách
nhà nước sẽ được xem xét về mặt bản chất và cả về phương diện vật
chất.
Xét về mặt bản chất, ngân sách nhà nước thể hiện hệ thống các
quan hệ kinh tế được hình thành trong quá trình tạo lập, phân phối và sử
dụng các nguồn vốn tiền tệ phục vụ cho các chức năng, nhiệm vụ của bộ
máy nhà nước. Điều này xuất phát từ mối quan hệ chặt chẽ giữa ngân
sách nhà nước với nhà nước. Ngân sách nhà nước vốn được hình thành
từ việc nhà nước sử dụng quyền lực chính trị của mình để tham gia vào
hoạt động phân phối của cải trong xã hội vốn được tạo nên từ nhiều chủ
thể khác nhau cùng tồn tại trong xã hội. Do vậy ngân sách nhà nước thể
hiện mối quan hệ xã hội giữa nhà nước và các chủ thể khác nhau trong
quá trình phân phối của cải xã hội dưới hình thức giá trị.

Xét về phương diện vật chất, trên thực tế, ngân sách nhà nước tồn
tại dưới dạng vật chất là quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của nhà nước.
Quỹ tiền tệ này gắn liền với việc đảm bảo cho chức năng, nhiệm vụ của
tất cả các cơ quan chính quyền nhà nước các cấp. Đó là nguồn vốn, kinh
phí hay những khoản tiền cụ thể mà nhà nước tập trung được vào tay
mình sau khi tham gia vào quá trình phân phối của cải trong xã hội.
Hai là, xuất phát từ việc ngân sách vốn là một trong những phạm
trù pháp lý, trong điều kiện nhà nước pháp quyền, các khoản thu chi của
nhà nước được công khai và thể chế thành pháp luật nhằm tránh hiện
tượng lạm quyền. Ngân sách nhà nước trở thành phạm trù pháp lý. Điều
này được thể hiện thông qua việc hình dung ngân sách nhà nước là kế
hoạch tài chính cơ bản của nhà nước, là bảng dự toán toàn bộ các khoản
thu chi của nhà nước, được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định
để trở thành một đạo luật có giá trị pháp lý bắt buộc đối với tất cả các
chủ thể có liên quan. Chính vì vậy mà pháp luật thực định đưa ra định
nghĩa về ngân sách nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của nhà nước
trong dự toán được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và thực
hiện trong khoảng thời gian là một năm để đảm bảo chức năng, nhiệm
vụ của nhà nước.
2. Vai trò của ngân sách nhà nước:
Ngân sách nhà nước giữ vai trò là công cụ phân phối. Điều này
được thể hiện thông qua việc nhà nước huy động nguồn tài chính để đảm
bảo cho nhu cầu chi tiêu của nhà nước. Thông qua việc tiến hành cân đối
giữa các khoản thu và chi của nhà nước, nhà nước có thể hoạch định
chính sách trong điều tiết thu nhập, giải quyết tốt mối quan hệ giữa thu
và chi, giữa tích luỹ tiêu dùng, đầu tư phát triển, tiết kiệm.
Ngân sách nhà nước giữa vai tró điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Thông
qua việc điều hoà các nguồi tài chính giữa các vùng kinh tế, các ngành
kinh tế, thông qua việc hướng dẫn, kích thích hay hạn chế sản xuất, tiêu
dùng bằng các chính sách thuế, tài chính, ngân sách nhà nước có thể

điều tiết thu nhập của các chủ thể khác nhau trong xã hội, xử lý mối
quan hệ giữa tích luỹ, đầu tư và tiêu dùng, điều chỉnh giá cả, ổn định thị
trường, chống lạm phát.
Ngân sách nhà nước còn giữ vai trò là công cụ thực hiện chính
sách xã hội. Bằng chính sách thuế, nhà nước có thể thông qua hoạt động
ngân sách nhà nước để thực hiện ưu đã cho các đối tượng chính sách,
điều tiết thu nhập dân cư, hạn chế sự bất bình đẳng xã hội. Ngoài ra,
ngân sách nhà nước còn cung cấp phương tiện tài chính để nhà nước
thực hiện trợ cấp xã hội, phúc lợi công cộng.

II. KHÁI NIỆM LUẬT NGÂN SÁCH
1. Định nghĩa Luật Ngân sách:
Việc sử dụng ngân sách trong công cuộc xây dựng và phát triển
kinh tế xã hội đã hình thành hệ thống quan hệ kinh tế thuộc lĩnh vực ngân
sách bao gồm bao gồm những quan hệ phân phối liên quan đến nguồn
vốn tiền tệ của nhà nước. Do vậy, những quan hệ này cần phải được pháp
luật điều chỉnh để việc phát sinh, thay đổi chúng phù hợp với lợi ích của
nhà nước, xã hội. Nói cách khác, việc chuyển giao, sử dụng các nguồn
vốn tiền tệ phải tuân theo quy chế pháp lý nghiêm ngặt để đảm bảo yêu
cầu quản lý của nhà nước. Chính trong điều kiện đó đã hình thành nên
nhóm các quy phạm pháp luật chuyên ngành điều chỉnh các quan hệ phát
sinh trong lĩnh vực này: luật ngân sách. Luật Ngân sách là tập hợp các
quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh
vực tạo lập, phân phối và sử dụng các nguồn vốn tiền tệ thuộc về ngân
sách nhà nước.
Luật Ngân sách phân biệt với Luật Ngân sách nhà nước. Luật ngân
sách nhà nước chỉ là một bộ phận của pháp luật thực định về Luật Ngân
sách. Ngoài ra, luật ngân sách cũng phân biệt với thuật ngữ pháp luật
ngân sách nhà nước-một cụm từ khái quát về bộ phận pháp luật thực định
về ngân sách nhà nước, bao gồm Luật Ngân sách nhà nước và các quy

định pháp luật về ngân sách nhà nước khác.
2. Quan hệ pháp luật ngân sách:
Quan hệ pháp luật ngân sách là những quan hệ xã hội được hình
thành trong quá trình tập trung, phân phối, sử dụng, quản lý quỹ ngân
sách nhà nước được quy phạm pháp luật về ngân sách điều chỉnh.
Đặc điểm của quan hệ pháp luật ngân sách:
-Luôn có sự tham gia của ít nhất một bên là nhà nước hoặc cơ quan
đại diện của nhà nước trong tất cả các quan hệ pháp luật ngân sách.
-Các chủ thể tham gia quan hệ pháp luật ngân sách không phải do
tự ý xác lập một quan hệ pháp luật mà được pháp luật quy định trước, kể
cả quyền và nghĩa vụ của các bên cũng không phải theo thoả thuận mà sẽ
do pháp luật quy định, buộc các bên phải tuân theo.
-Việc tham gia vào quan hệ pháp luật ngân sách của các chủ thể
trước hết vì lợi ích kinh tế-xã hội của nhà nước.
Căn cứ vào tính chất, quan hệ pháp luật ngân sách được phân biệt
thành:
-Nhóm các quan hệ về phân cấp quản lý, điều hành ngân sách.
Nhóm quan hệ này hình thành trong lĩnh vực tổ chức hệ thống ngân sách,
phân định quyền hạn về ngân sách và phân phối nhiệm vụ thu chi ngân
sách giữa các cấp chính quyền nhà nước.
-Nhóm các quan hệ trong quá trình tạo lập, thông qua dự toán ngân
sách nhà nước giữa cơ quan chính quyền nhà nước các cấp cũng như tất
cả các chủ thể có liên quan đến việc sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà
nước.
-Nhóm các quan hệ về chấp hành ngân sách nhà nước. Nhóm các
quan hệ này hình thành trong quá trình thực hiện các khoản thu, chi ngân
sách nhà nước trên thực tiễn.
-Nhóm các quan hệ về quyết toán ngân sách nhà nước, bao gồm
những quan hệ trong quá trình lập quyết toán, phê chuẩn tổng quyết toán
ngân sách nhà nước và những quan hệ về kiểm tra, thanh tra, kiểm toán

ngân sách nhà nước.
3. Chế độ pháp lý về tổ chức hệ thống ngân sách:
Hệ thống ngân sách là một thể thống nhất được tạo thành từ các bộ
phận cấu thành nên ngân sách: các khâu ngân sách. Giữa các khâu trong
hệ thống ngân sách vừa độc lập, vừa có mối quan hệ qua lại lẫn nhau
trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thu, chi của mình.
Hệ thống ngân sách thường được tổ chức tương ứng với hệ thống
chính quyền nhà nước nhưng không nhất thiết mỗi cấp chính quyền là
một cấp ngân sách. Điều kiện cần và đủ để một cấp chính quyền trở thành
cấp ngân sách:
-Nhiệm vụ của cấp chính quyền tương đối toàn diện trên các lĩnh
vực phát triển về hành chính, xã hội kinh tế ở vùng lãnh thổ mà cấp chính
quyền đó quản lý.
-Tổng hợp các nguồn thu trên lãnh thổ mà cấp chính quyền đó
quản lý có khả năng giải quyết phần lớn nhu cầu chi tiêu của mình.
Hệ thống ngân sách ở Việt Nam:
-Từ sau Cách mạng tháng 8 đến trước 1967: Việt Nam chỉ tồn tại 1
ngân sách duy nhất được gọi chung là ngân sách nhà nước, ở đó không có
sự phân định thẩm quyền giữa các cấp chính quyền nhà nước trong quản
lý ngân sách nhà nước. Mỗ cấp chính quyền chỉ là một đơn vị dự toán của
ngân sách nhà nước. Mọi hoạt động huy động các nguồn tài chính đều
nhằm hình thành quỹ ngân sách nhà nước tập trung và mọi chi tiêu từ quỹ
tiền tệ này đều nhằm mục tiêu chung của cả nước là kháng chiến thắng
lợi.
-Từ 1967, khai sinh chế độ phân cấp quản lý ngân sách. Theo đó,
phân cấp quản lý ngân sách nhà nước là khái niệm hàm chỉ mô hình quản
lý ngân sách nhà nước mà trong đó Chính quyền trung ương phân giao
cho chính quyền địa phương thực hiện một số nghiệp vụ nhất định trong
hoạt động ngân sách nhà nước. Mô hình này được áp dụng ở những quốc
gia xem ngân sách nhà nước là duy nhất và thống nhất, cả nước chỉ có

một ngân sách do nhà nước quản lý. Trong quá trình hình thành và sử
dụng quỹ ngân sách nhà nước, chính quyền trung ương có thể giao cho
chính quyền địa phương thực thi một số nghiệp vụ thu chi cần thiết có
liên quan trực tiếp đến nhiệm vụ phát trỉên kinh tế xã hội của cấp chính
quyền trên địa bàn mà mình quản lý.
-Từ 1976 đến 1978, hệ thống ngân sách ở Việt Nam gồm 2 cấp:
ngân sách trung ương và ngân sách cấp tỉnh. Việc xác lập hệ thống ngân
sách gồm 2 cấp như vậy không khuyến khích các cấp chính quyền địa
phương phát huy tính chủ động sáng tạo trong việc khai thác và huy động
nguồn tài chính trên địa bàn để phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế xã hội
ở địa phương. Ngược lại, các cấp chính quyền địa phương cũng ỷ lại
trông chờ vào sự trợ giúp của cấp trên.
-1978: hệ thống ngân sách Việt Nam được phân định gồm ngân
sách trung ương và ngân sách địa phương, trong đó ngân sách địa phương
gồm hai cấp ngân sách cấp tỉnh và ngân sách cấp huyện. Mô hình này đã
phần nào khắc phục được nhược điểm của hệ thống ngân sách trước đây,
góp phần khuyến khích địa phương khai thác được tiềm năng và thế mạnh
trong việc huy động nguồn thu phát sinh trên địa bàn.
-1983: hệ thống ngân sách Việt Nam được xây dựng gồm 4 cấp
tương đương với 4 cấp chính quyền trong bộ máy nhà nước: Ngân sách
Trung ương, tỉnh, huyện, xã. Điều này đặt ra yêu cầu phải phân định
nguồn thu, nhiệm vụ chi cụ thể cho từng cấp ngân sách ở địa phương và
chính quyền các cấp ở địa phương cần được phân giao quyền hạn, trách
nhiệm cụ thể. Cơ chế phân phối nguồn thu, nhiệm vụ chi tới tận ngân
sách cấp huyện, xã vẫn được duy trì trong Luật Ngân sách nhà nước 1996
(sửa đổi bổ sung 1998).
-Luật Ngân sách nhà nước 2002 hệ thống ngân sách Việt Nam
đuợc thiết lập bao gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa phương.
Trong đó, ngân sách địa phương sẽ hàm chứa ngân sách cấp tỉnh, huyện,
xã. Tuy nhiên, cơ quan quyền lực cao nhất là Quốc hội chỉ phân giao

nguồn thu, nhiệm vụ chi cụ thể cho ngân sách trung ương và xác định
tổng khối lượng thu-chi cho ngân sách của từng địa phương. Trên cơ sở
đó, cơ quan quyền lực cao nhất của địa phương: Hội đồng nhân dân cấp
tỉnh sẽ được phân cấp thẩm quyền quyết định trong việc phân phối thu chi
giữa các cấp ngân sách ở địa phương. Rõ ràng, với hệ thống ngân sách
theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước 2002 việc phân cấp trong
quản lý ngân sách nhà nước đã được đẩy mạnh, tăng tính chủ động, linh
hoạt cho từng địa phương.
Nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và quản lý hệ thống ngân sách:
-Đảm bảo tính tập trung thống nhất của ngân sách nhà nước, dù có
phân chia các cấp ngân sách theo các cấp chính quyền nhà nước nhưng hệ
thống ngân sách vẫn là thống nhất từ trung ương đến địa phương.
-Đảm bảo tính chủ động, tự chịu trách nhiệm của mỗi cấp ngân
sách, có cơ chế phân cấp và quản lý phù hợp để phát huy được tính tự
chủ, kích thích khai thác nguồn thu của các cấp ngân sách địa phương,
đáp ứng nhu cầu chi tiêu của địa phương.
III. CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ PHÂN CẤP QUẢN LÝ NGÂN SÁCH
NHÀ NƯỚC:
1. Định nghĩa về phân cấp quản lý ngân sách nhà nước:
Phân cấp ngân sách Nhà nước là sự phân định trách nhiệm về
quyền hạn, nghĩa vụ và lợi ích của các cơ quan Nhà nước các cấp trong
tổ chức, điều hành, quản lý ngân sách Nhà nước. Thực chất của phân cấp
ngân sách là việc phân chia quyền hạn và xác định trách nhiệm của mỗi
cấp chính quyền nhà nước đối với ngân sách cấp mình và ngân sách nhà
nước nói chung. Phân cấp quản lý ngân sách sẽ giải quyết được mối
quan hệ giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương trong
việc xử lý các vấn đề về hoạt động của ngân sách nhà nước như quan hệ
về mặt chế độ, chính sách, quan hệ vật chất giữa nguồn thu, nhiệm vụ
chi, quan hệ về quy trình ngân sách.
Việc phân cấp quản lý ngân sách phải dựa trên những nguyên tắc

sau:
-Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước phải phù hợp với phân cấp
quản lý các mặt khác của đời sống xã hội và phù hợp với năng lực quản
lý của mỗi cấp chính quyền trên địa bàn.
-Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước phải đảm bảo vai trò chủ
đạo của ngân sách trung ương và vị trí độc lập, chủ động của ngân sách
địa phương.
-Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước phải tôn trọng nguyên tắc
công bằng.
Phân cấp ngân sách Nhà nước bao gồm nhiều nội dung nhằm giải
quyết các mục tiêu sau:
- Giải quyết mối quan hệ giữa các cấp chính quyền trong việc ban
hành các văn bản pháp luật liên quan tới Ngân sách Nhà nước.
- Giải quyết mối quan hệ vật chất trong quá trình phân giao nhiệm
vụ chi, phân phối nguồn thu và cân đối ngân sách Nhà nước.
- Giải quyết mối quan hệ trong quá trình thực hiện lập, chấp hành
và quyết toán ngân sách Nhà nước.
Xuất phát từ yêu cầu trên, phân cấp quản lý ngân sách nhà nước
được thể hiện trên 2 phương diện:
-Xác định nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước trong
quản lý, điều hành ngân sách, trong quá trình lập, chấp hành, quyết toán
ngân sách nhà nước.
-Phân phối nguồn thu, xác định nhiệm vụ chi giữa các cấp ngân
sách.
2. Nội dung của phân cấp quản lý ngân sách nhà nước:
2.1. Trách nhiệm quyền hạn của các cấp chính quyền trong việc phân
cấp quản lý ngân sách:
Liên quan lĩnh vực ngân sách nhà nước, có rất nhiều cơ quan nhà
nước có thẩm quyền được phân định về nhiệm vụ và quyền hạn gắn liền
với việc quản lý, thực hiện ngân sách nhà nước, cụ thể như: Quốc hội,

Ủy ban thường vụ Quốc hội, Ủy ban Kinh tế-Ngân sách thuộc Quốc hội,
Chính phủ, Chủ tịch nước, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch đầu tư, Ngân
hàng nhà nước Việt Nam…
2.1.1 Quốc hội:
Điều 84 Hiến pháp 1992 (sửa đổi bổ sung 2001) nêu rõ: “Quốc hội
quyết định chính sách tiền tệ quốc gia, quyết định dự toán ngân sách nhà
nước và phân bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách
nhà nước, quyết định sửa đổi bãi bỏ các thứ thuế”. Theo đó, nhiệm vụ,
quyền hạn của Quốc hội đối với Ngân sách Nhà nước được ghi nhận tại
Điều 15 Luật Ngân sách Nhà nước năm 2002, cụ thể:
- Ban hành và sửa đổi luật trong lĩnh vực ngân sách Nhà nước. Đây
là một trong những thẩm quyền quan trọng nhất của Quốc hội – cơ quan
duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp.
- Quyết định chính sách tài chính tiền tệ quốc gia nhằm góp phần
phát triển kinh tế, bảo đảm cân đối ngân sách các cấp.
- Quyết định dự toán ngân sách Nhà nước:
+Tổng số thu ngân sách nhà nước bao gồm thu nội địa, thu từ hoạt
động xuất khẩu, nhập khẩu, viện trợ không hoàn lại.
+Tổng số chi ngân sách nhà nước bao gồm chi ngân sách trung
ương chi tiết theo từng lĩnh vực chi đầu tư phát triển, chi thường xuyên,
chi trả nợ, chi viện trợ, chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính, tổng khối lượng
chi ngân sách địa phương
+Mức bội chi và nguồn bù đắp
-Quyết định phân bổ ngân sách trung ương. Trước đây, đối với
phương án phân bổ Ngân sách Nhà nước củaTrung ương, Quốc hội giao
cho Ủy ban thường vụ Quốc hội, nhưng hiện nay, theo Luật Ngân sách
nhà nước năm 2002, Quốc hội cũng giữ vai trò trong việc phân bổ ngân
sách nhà nước của trung ương. Nội dung cụ thể bao gồm:
+Tổng số và mức chi từng lĩnh vực
+Dự toán chi của từng bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính

phủ và các cơ quan khác ở trung ương theo từng lĩnh vực.
+Mức bổ sung từ ngân sách trung ương cho ngân sách địa phương
- Quyết định điều chỉnh dự toán Ngân sách Nhà nước trong những
trường hợp cần thiết.
-Quyết định các chương trình, công trình xây dựng quan trọng
mang tầm quốc gia, có ảnh hưởng to lớn đối với các mặt trong đời sống
kinh tế xã hội, được đầu tư vốn Ngân sách Nhà nước.
- Quốc hội thực hiện quyền giám sát các hoạt động trong lĩnh vực
Ngân sách Nhà nước.
-Phê chuẩn quyết toán Ngân sách Nhà nước.
-Bãi bỏ văn bản của Chủ tịch nước, UBTVQH, Thủ tướng Chính
phủ, TANDTC, VKSNDTC về lĩnh vực tài chính-ngân sách trái với
Hiến pháp, luật, Nghị quyết của Quốc hội các quyết định của Quốc hội,
Luật Ngân sách Nhà nước quy định: Ủy ban thường vụ Quốc hội, Ủy
ban kinh tế và ngân sách của Quốc hội, Hội đồng dân tộc của Quốc hội
cũng tham gia vào một số hoạt động có liên quan đến Ngân sách Nhà
nước và mang tính chất giám sát.
2.1.2 Nhiệm vụ, quyền hạn của ủy ban Thường vụ Quốc hội
-Ban hành văn bản pháp luật về lĩnh vực tài chính - ngân sách được
Quốc hội giao;
-Cho ý kiến về các dự án luật, các báo cáo và các dự án khác về
lĩnh vực tài chính - ngân sách do Chính phủ trình Quốc hội;
- Căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội về dự toán ngân sách nhà
nước và phân bổ ngân sách trung ương năm đầu của thời kỳ ổn định
ngân sách, quyết định tỷ lệ phần trăm (%) phân chia giữa ngân sách
trung ương và ngân sách từng địa phương đối với các khoản thu theo
quy định
- Ban hành Quy chế lập, thẩm tra, trình Quốc hội quyết định dự
toán ngân sách nhà nước, phương án phân bổ ngân sách trung ương và
phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước;

- Giám sát việc thi hành pháp luật về ngân sách, chính sách tài
chính, nghị quyết của Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về lĩnh
vực tài chính - ngân sách; đình chỉ việc thi hành các văn bản của Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ về lĩnh vực tài chính - ngân sách trái với Hiến
pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội và trình Quốc hội quyết định việc
hủy bỏ các văn bản đó; hủy bỏ các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ về lĩnh vực tài chính - ngân sách trái với pháp lệnh, nghị
quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội; bãi bỏ các nghị quyết của Hội
đồng nhân dân cấp tỉnh về lĩnh vực tài chính - ngân sách trái với Hiến
pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh và nghị quyết của Uỷ ban
Thường vụ Quốc hội.
2.1.3. Nhiệm vụ, quyền hạn của Uỷ ban kinh tế và ngân sách của
Quốc hội
1) Thẩm tra dự án luật, dự án pháp lệnh và các dự án khác về lĩnh
vực tài chính - ngân sách do Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội
giao;
2) Chủ trì thẩm tra dự toán ngân sách nhà nước, phương án phân
bổ ngân sách trung ương, các báo cáo về thực hiện ngân sách nhà nước
và quyết toán ngân sách nhà nước do Chính phủ trình Quốc hội;
3) Giám sát việc thực hiện luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp
lệnh, nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về lĩnh vực tài chính -
ngân sách; giám sát việc thực hiện ngân sách nhà nước và chính sách tài
chính;
4) Giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, văn bản
quy phạm pháp luật liên tịch giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
ở trung ương hoặc giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền với cơ quan
trung ương của tổ chức chính trị - xã hội về lĩnh vực tài chính - ngân
sách;
5) Kiến nghị các vấn đề về quản lý lĩnh vực tài chính - ngân sách.

2.1.4 Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban
khác của Quốc hội
1) Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, phối hợp với Uỷ
ban kinh tế và ngân sách của Quốc hội thẩm tra các dự án luật, pháp
lệnh, dự toán ngân sách nhà nước, phương án phân bổ ngân sách trung
ương và các dự án khác về lĩnh vực tài chính - ngân sách do Chính phủ
trình Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội;
2) Giám sát việc thực hiện pháp luật về lĩnh vực tài chính - ngân
sách và việc thực hiện nghị quyết của Quốc hội về lĩnh vực tài chính -
ngân sách trong lĩnh vực phụ trách;
3) Kiến nghị các vấn đề về tài chính - ngân sách trong lĩnh vực phụ
trách.
2.1.5 Nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước
1) Công bố luật, pháp lệnh về lĩnh vực tài chính - ngân sách;
2) Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn do Hiến pháp và pháp luật quy
định trong việc tiến hành đàm phán, ký kết điều ước quốc tế nhân danh
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với người đứng đầu Nhà
nước khác; trình Quốc hội phê chuẩn điều ước quốc tế đã trực tiếp ký;
quyết định phê chuẩn hoặc gia nhập điều ước quốc tế trừ trường hợp cần
trình Quốc hội quyết định về lĩnh vực tài chính - ngân sách;
3) Yêu cầu Chính phủ báo cáo về công tác tài chính - ngân sách
khi cần thiết.
2.1.6 Chính phủ:
Quyền hạn của Chính phủ liên quan tới ngân sách Nhà nước được
ghi nhận tại Điều 112 Hiến pháp 1992 và cụ thể hóa nội dung Luật Ngân
sách Nhà nước, cụ thể:
- Trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội các dự án luật và
pháp lệnh, ban hành các văn bản pháp quy liên quan đến Ngân sách Nhà
nước thuộc phạm vi thẩm quyền của mình.
- Lập và trình Quốc hội thông qua dự toán Ngân sách Nhà nước và

dự toán phân bố Ngân sách Nhà nước, dự toán điều chỉnh Ngân sách
Nhà nước trong trường hợp cần thiết, cũng như quyết tóan các công
trình xây dựng quan trọng mang tầm quốc gia đã được Quốc hội quyết
định đầu tư bằng vốn ngân sách.
- Căn cứ vào Nghị quyết của Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc
hội, Chính phủ giao nhiệm vụ thu, chi ngân sách Nhà nước cho từng bộ
nhiệm vụ thu, chi và mức bổ sung từ ngân sách Nhà nước Trung ương
cho từng địa phương, giao tỷ lệ phần trăm phân chia giữa ngân sách
trung ương và ngân sách địa phương đối với các khoản thu được phân
chia theo tỷ lệ giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương.
- Trước đây, Chính phủ còn được giao nhiệm vụ tổ chức và kiểm
tra việc thực hiện ngân sách Nhà nước, theo quy định của Luật Ngân
sách nhà nước năm 2002, nhiệm vụ này đã được phân cấp cho Bộ Tài
chính thực hiện.
- Thống nhất quản lý ngân sách nhà nước, bảo đảm sự phối hợp
chặt chẽ giữa cơ quan quản lý ngành và địa phương trong việc thực hiện
ngân sách nhà nước;
- Tổ chức và điều hành thực hiện ngân sách nhà nước được Quốc
hội quyết định, kiểm tra việc thực hiện ngân sách nhà nước, báo cáo
Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về tình hình thực hiện ngân sách
nhà nước, các dự án và công trình quan trọng quốc gia, các chương trình
phát triển kinh tế - xã hội, các dự án và công trình xây dựng cơ bản quan
trọng khác;
- Quyết định việc sử dụng dự phòng ngân sách; quy định việc sử
dụng quỹ dự trữ tài chính và các nguồn dự trữ tài chính khác của Nhà
nước theo quy định của Luật này;
- Quy định hoặc phân cấp cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền
quy định các định mức phân bổ và các chế độ, tiêu chuẩn, định mức chi
ngân sách nhà nước để làm căn cứ xây dựng, phân bổ và quản lý ngân
sách nhà nước thực hiện thống nhất trong cả nước; đối với những định

mức phân bổ và chế độ chi ngân sách quan trọng, phạm vi ảnh hưởng
rộng, liên quan đến việc thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội, quốc
phòng, an ninh của cả nước, báo cáo Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cho ý
kiến bằng văn bản trước khi ban hành;
- Kiểm tra nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh về dự toán
ngân sách, quyết toán ngân sách và các vấn đề khác thuộc lĩnh vực tài
chính - ngân sách; trường hợp nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp
tỉnh trái với quy định của Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội,
pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và các văn bản
của các cơ quan nhà nước cấp trên thì Thủ tướng Chính phủ đình chỉ
việc thực hiện và đề nghị Uỷ ban Thường vụ Quốc hội bãi bỏ;
- Lập và trình Quốc hội quyết toán ngân sách nhà nước, quyết toán
các dự án và công trình quan trọng quốc gia do Quốc hội quyết định;
- Ban hành quy chế xem xét, quyết định dự toán và phân bổ ngân
sách địa phương, phê chuẩn quyết toán ngân sách địa phương.
Ngoài ra, tham gia tổ chức và điều hành Ngân sách Nhà nước còn
có các cơ quan chức năng như Bộ tài chính, Bộ kế hoạch và đầu tư,
Ngân hàng Nhà nước…
2.1.7 Bộ Tài chính:
1) Chuẩn bị các dự án luật, pháp lệnh, các dự án khác về lĩnh vực
tài chính - ngân sách và xây dựng chiến lược kế hoạch vay nợ, trả nợ
trong nước và ngoài nước trình Chính phủ; ban hành các văn bản quy
phạm pháp luật về lĩnh vực tài chính - ngân sách theo thẩm quyền;
2) Chủ trì phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ, cơ quan khác ở trung ương, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh trong
việc xây dựng các định mức phân bổ và các chế độ, tiêu chuẩn, định
mức chi ngân sách nhà nước, chế độ kế toán, quyết toán, chế độ báo cáo,
công khai tài chính - ngân sách trình Chính phủ quy định hoặc quy định
theo phân cấp của Chính phủ để thi hành thống nhất trong cả nước;
3) Chủ trì phối hợp với các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc

Chính phủ, cơ quan khác ở trung ương, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh lập dự
toán ngân sách nhà nước và phương án phân bổ ngân sách trung ương;
tổ chức thực hiện ngân sách nhà nước; chóng nhất quản lý và chỉ đạo
công tác thu thuế, phí, lệ phí, các khoản thu khác của ngân sách nhà
nước, các nguồn viện trợ quốc tế' tổ chức thực hiện chi ngân sách nhà
nước theo đúng dự toán được giao; lập quyết toán ngân sách trung ương;
tổng hợp, lập quyết toán ngân sách nhà nước trình Chính phủ; tổ chức
quản lý, kiểm tra việc sử dụng tài sản của Nhà nước;
4) Kiểm tra các quy định về tài chính - ngân sách của các Bộ, cơ
quan ngang Bộ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân và Chủ tịch Uỷ
ban nhân dân cấp tỉnh; trường hợp quy định trong các văn bản đó trái
với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội và các văn bản của các cơ quan nhà nước
cấp trên, có quyền kiến nghị Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ
đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ đối với những quy định của Bộ, cơ
quan ngang Bộ; kiến nghị Thủ tướng Chính phủ đình chỉ việc thi hành
đối với những nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh; đình chỉ việc
thi hành hoặc kiến nghị Thủ tướng Chính phủ bãi bỏ đối với những quy
định của Uỷ ban nhân dân và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh;
5) Thống nhất quản lý nhà nước về vay và trả nợ của Chính phủ,
vay và trả nợ của quốc gia;
6) Thanh tra, kiểm tra tài chính - ngân sách, xử lý hoặc kiến nghị
cấp có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật đối với các vi
phạm về chế độ quản lý tài chính - ngân sách của các Bộ, cơ quan ngang
Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở trung ương, các địa
phương, các tổ chức kinh tế, đơn vị hành chính, đơn vị sự nghiệp và các
đối tượng khác có nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước và sử dụng ngân
sách nhà nước;
7) Quản lý quỹ ngân sách nhà nước, quỹ dự trữ nhà nước và các
quỹ khác của Nhà nước theo quy định của pháp luật.

2.1.8 Nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ Kế hoạch và Đầu tư
1) Trình Chính phủ dự án kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của
cả nước và các cân đối chủ yếu của nền kinh tế quốc dân, trong đó có
cân đối tài chính, tiền tệ, vốn đầu tư xây dựng cơ bản làm cơ sở cho việc
xây dựng kế hoạch tài chính - ngân sách;
2) Phối hợp với Bộ Tài chính lập dự toán ngân sách nhà nước. Lập
phương án phân bổ ngân sách trung ương trong lĩnh vực phụ trách theo
phân công của Chính phủ;
3) Phối hợp với Bộ Tài chính và các Bộ, ngành hữu quan kiểm tra,
đánh giá hiệu quả của vốn đầu tư các công trình xây dựng cơ bản.
2.1.9 Nhiệm vụ, quyền hạn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
1) Phối hợp với Bộ Tài chính xây dựng chiến lược, kế hoạch vay
nợ, trả nợ trong nước và ngoài nước, xây dựng và triển khai thực hiện
phương án vay để bù đắp bội chi ngân sách nhà nước;
2) Tạm ứng cho ngân sách nhà nước để xử lý thiếu hụt tạm thời
quỹ ngân sách nhà nước theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ.
2.1.9. Nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan
thuộc Chính phủ và cơ quan khác ở trung ương
1) Xây dựng dự toán ngân sách hàng năm của cơ quan mình;
2) Phối hợp với Bộ Tài chính trong quá trình lập dự toán ngân -
sách nhà nước, phương án phân bổ ngân sách trung ương, quyết toán
ngân sách thuộc ngành, lĩnh vực phụ trách;
3) Kiểm tra, theo dõi tình hình thực hiện ngân sách thuộc ngành,
lĩnh vực phụ trách;
4) Báo cáo tình hình thực hiện và kết quả sử dụng ngân sách thuộc
ngành, lĩnh vực phụ trách theo chế độ quy định;
5) Phối hợp với Bộ Tài chính trong việc xây dựng chế độ, tiêu
chuẩn, định mức chi ngân sách thuộc ngành, lĩnh vực phụ trách;
6) Quản lý, tổ chức thực hiện và quyết toán đối với ngân sách được
giao; bảo đảm sử dụng có hiệu quả tài sản của Nhà nước được giao.

2.1.10 Hội đồng nhân dân các cấp:
-Căn cứ vào nhiệm vụ thu chi ngân sách được cấp trên giao và tình
hình thực tế tại địa phương, Hội đồng nhân dân các cấp được quyết định:
+Dự toán ngân sách Nhà nước cấp mình và ngân sách nhà nước
trên địa bàn thuộc địa phương quản lý. Về nguyên tắc, cấp trên không
quyết định chi tiết ngân sách Nhà nước của cấp dưới. Tuy nhiên, quyết
định về ngân sách Nhà nước của Hội đồng nhân dân không thể trái với
định hướng chung, không trái với Nghị quyết của Quốc hội về ngân sách
Nhà nước.
+Phân bổ ngân sách Nhà nước (tổng số và mức chi từng lĩnh vực;
dự toán chi ngân sách của từng cơ quan, đơn vị thuộc cấp mình theo
từng lĩnh vực; Mức bổ sung cho ngân sách từng địa phương cấp dưới),
+Phê chuẩn, quyết toán ngân sách Nhà nước cấp mình.
-Quyết định chủ trương, biện pháp để triển khai thực hiện ngân
sách địa phương.
-Quyết định điều chỉnh dự toán ngân sách địa phương trong trường
hợp cần thiết.
-Giám sát việc thực hiện ngân sách đã được Hội đồng nhân dân
quyết định.
-Bãi bỏ những văn bản quy phạm pháp luật về tài chính-ngân sách
của UBND cùng cấp và Hội đồng nhân cấp dưới trực tiếp trái với Hiến
pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, Pháp lệnh, NGhị quyết của
UBTVQH và các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên.
-Đối với Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, ngoài các nhiệm vụ quyền
hạn nói trên, HĐND cấp tỉnh còn có nhiệm vụ:
+Quyết định việc phân cấp nguồn thu, nhiệm vụ chi cho từng cấp
ngân sách ở địa phương.
+Quyết định tỉ lệ phần trăm phân chia giữa ngân sách các cấp
chính quyền địa phương đối với phần ngân sách địa phương được hưởng
từ các khoản thu phân chia giữa các cấp ngân sách ở địa phương.

+Là cơ quan quyền lực ở địa phương, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
được quyền ban hành một số chế độ thu phí, lệ phí, phụ thu theo quy
định của Chính phủ. Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
được phép quyết định và thực hiện huy động vốn trong nước cho đầu tư
trong trường hợp cấp tỉnh có nhu cầu đầu tư xây dựng công trình kết cấu
hạ tầng mà vượt quá khả năng cân đối của địa phương. Với quyền hạn
này, cấp tỉnh sẽ có thể phát huy tiềm năng để bồi dưỡng và tăng nguồn
thu, chủ động bố trí chi tiêu hợp lý.
+Quyết định cụ thể một số định mức phân bổ ngân sách, chế độ,
tiêu chuẩn, định mức chi theo quy định của Chính phủ.
2.1.11 Ủy ban nhân dân các cấp:
1) Lập dự toán ngân sách địa phương, phương án phân bổ ngân
sách cấp mình theo các chỉ tiêu quy định; dự toán điều chỉnh ngân sách
địa phương trong trường hợp cần thiết, trình Hội đồng nhân dân cùng
cấp quyết định và báo cáo cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan tài
chính cấp trên trực tiếp;

2) Lập quyết toán ngân sách địa phương trình Hội đồng nhân dân
cùng cấp phê chuẩn và báo cáo cơ quan hành chính nhà nước, cơ quan
tài chính cấp trên trực tiếp;

3) Kiểm tra nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp dưới về tài
chính - ngân sách;

4) Căn cứ vào nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp, quyết
định giao nhiệm vụ thu, chi ngân sách cho từng cơ quan, đơn vị trực
thuộc; nhiệm vụ thu, chi, mức bổ sung cho ngân sách cấp dưới và tỷ lệ
phần trăm (%) phân chia giữa các cấp ngân sách ở địa phương đối với
các khoản thu phân chia; quy định nguyên tắc bố trí và chỉ đạo thực hiện
dự toán ngân sách đối với một số lĩnh vực chi được Hội đồng nhân dân

quyết định

5) Tổ chức thực hiện và kiểm tra việc thực hiện ngân sách đia
phương;

6) Phối hợp với các cơ quan nhà nước cấp trên trong việc quản lý
ngân sách nhà nước trên địa bàn;

7) Báo cáo về ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật;

8) Đối với Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh, ngoài các nhiệm vụ, quyền
hạn quy định tại các điểm trên, còn có nhiệm vụ lập và trình Hội đồng
nhân dân cùng cấp quyết định các vấn đề thuộc thẩm quyền quyết định
của Hội đồng nhân dân cùng cấp

9) Chỉ đạo cơ quan tài chính địa phương chủ trì phối hợp với các
cơ quan liên quan giúp Uỷ ban nhân dân thực hiện nhiệm vụ theo quy
định

2.1.12. Nhiệm vụ, quyền hạn của các đơn vị dự toán ngân sách

1) Tổ chức lập dự toán thu, chi ngân sách thuộc phạm vi quản lý,
thực hiện phân bổ dự toán ngân sách được cấp có thẩm quyền giao cho
các đơn vị trực thuộc và điều chỉnh phân bổ dự toán theo thẩm quyền;

2) Tổ chức thực hiện dự toán thu, chi ngân sách được giao; nộp
đầy đủ, đúng hạn các khoản phải nộp ngân sách theo quy định của pháp
luật; chi đúng chế độ, đúng mục đích, đúng đối tượng và tiết kiệm; quản
lý, sử dụng tài sản của Nhà nước đối với các đơn vị trực thuộc theo đúng
chế độ quy định;


3) Hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện thu, chi ngân sách đối với
các đơn vị trực thuộc;

4) Chấp hành đúng quy định của pháp luật về kế toán, thống kê;
báo cáo, quyết toán ngân sách và công khai ngân sách theo quy định của
pháp luật; duyệt quyết toán đối với các đơn vị dự toán cấp dưới;

5) Đối với các đơn vị dự toán là đơn vị sự nghiệp, ngoài nhiệm vụ,
quyền hạn quy định tại các điểm trên còn được chủ động sử dụng nguồn
thu sự nghiệp để phát triển và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động
theo quy định của Chính phủ.

2.1.13 Tổ chức, cá nhân

1) Nộp đầy đủ, đúng hạn các khoản thuế, phí, lệ phí và các khoản
phải nộp khác vào ngân sách theo quy định của pháp luật;

2) Trường hợp được Nhà nước trợ cấp, hỗ trợ vốn và kinh phí theo
dự toán được giao thì phải quản lý, sử dụng các khoản vốn và kinh phí
đó đúng mục đích, đúng chế độ, tiết kiệm, có hiệu quả và quyết toán với
cơ quan tài chính;

3) Chấp hành đúng quy định của pháp luật về kế toán, thống kê và
công khai ngân sách.

×