Tải bản đầy đủ (.doc) (74 trang)

thực trạng và triển vọng thu hút nguồn vốn oda của hàn quốc tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (521.29 KB, 74 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Sau hơn 20 năm Đổi mới, Việt Nam đã đạt được những thành tựu phát triển
kinh tế và tiến bộ xã hội vượt bậc, được dư luận trong nước và quốc tế thừa nhận
rộng rãi: Nền kinh tế tăng trưởng liên tục với tốc độ bình quân 7,5%/năm, mức đói
nghèo giảm từ trên 50% vào đầu những năm 90 xuống còn trên 10% vào năm 2008,
hội nhập quốc tế sâu rộng và toàn diện đánh dấu bằng việc Việt Nam trở thành
thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), được bầu là Ủy viên
không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, Việt Nam là thành viên
tích cực của ASEAN, APEC và nhiều Diễn đàn, tổ chức quốc tế khác, Những
thành tựu mà Việt Nam đạt được trong thời gian qua có phần đóng góp quan trọng
của hỗ trợ phát triển như một phần trong sự nghiệp phát triển của Việt Nam.
Hỗ trợ phát triển chính thức (Official Development Assistance - ODA) là các
khoản tài trợ chính thức, bao gồm viện trợ không hoàn lại và cho vay ưu đãi, do
chính phủ các nước, các tổ chức thuộc liên hiệp quốc, các tổ chức Kinh tế tài chính
quốc tế, các tổ chức phi chính phủ dành cho các nước đang và chậm phát triển cũng
như Chính phủ Việt Nam để hỗ trợ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội.
Gần 20 năm tiếp nhận nguồn vốn ODA kể từ khi Việt Nam chính thức nối lại
quan hệ với nhóm các nhà tài trợ quốc tế vào tháng 11 năm 1993. Nguồn vốn ODA
trong khoảng thời gian qua đã đóng góp không nhỏ vào công cuộc phát triển và xóa
đói giảm nghèo của Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam đang có quan hệ với 25 nhà tài
trợ ODA song phương, trong đó, Hàn Quốc là một trong những quốc gia lớn tài trợ
cho Việt Nam, đồng thời Việt Nam là quốc gia lớn nhất nhận tài trợ từ Hàn Quốc.
Vốn ODA từ Hàn Quốc đã đóng góp tích cực đối với nền kinh tế nước ta
theo đà phát triển quan hệ song phương giữa hai nước trong thực hiện công cuộc đổi
mới toàn diện đời sống kinh tế - xã hội của đất nước do Đảng Cộng sản Việt Nam
lãnh đạo. Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu phát triển như: tình hình chính trị,
xã hội ổn định, kinh tế tăng trưởng nhanh, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt,
vai trò và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế và khu vực không ngừng được
1
nâng cao. Tuy nhiên, hoạt động thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA nói chung và
với nguồn vốn của Hàn Quốc nói riêng vẫn còn nhiều vấn đề cần được quan tâm


giải quyết nhằm thu hiệu quả tốt hơn. Đó là việc chậm triển khai thực hiện, vấn đề
tốc độ giải ngân chậm, vấn đề giải phóng mặt bằng… Vậy, Chính phủ cần đề ra
những chính sách cụ thể để thu hút hiệu quả nguồn vốn này phục vụ tốt nhất cho sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Vì vậy em lựa chọn đề tài nghiên cứu luận văn tốt nghiệp là: “Thực trạng và
triển vọng thu hút nguồn vốn ODA của Hàn Quốc tại Việt Nam”.
Kết cấu luận văn gồm 03 chương:
Chương I: Tổng quan về nguồn vốn ODA
C
hương II: Thực trạng thu hút nguồn vốn ODA của Hàn Quốc tại Việt Nam
C
hương III: Một số giải pháp tăng cường thu hút vốn ODA Hàn Quốc tại Việt Nam.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở tìm hiểu tổng quan về nguồn vốn ODA nói chung và ODA Hàn
Quốc nói riêng, luận văn tập trung đi sâu vào phân tích thực trạng thu hút nguồn
vốn ODA của Hàn Quốc trong mối quan hệ song phương, hợp tác kinh tế giữa Việt
Nam và Hàn Quốc. Những khó khăn vướng mắc còn tồn tại, triển vọng thu hút có
hiệu quả nguốn vốn mang lại nhiều cơ hội cho phát triển kinh tế xã hội. Qua đó,
luận văn đưa ra một số giải pháp cho việc thu hút nguồn vốn ODA Hàn Quốc tại
Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng
Nghiên cứu thực trạng thu hút nguồn vốn ODA trên cơ sở phân tích mối quan
hệ hợp tác chiến lược Việt Nam – Hàn Quốc, tập trung vào phân tích và đánh giá
hoạt đông thu hút ODA Hàn Quốc tại Việt Nam trong những vừa qua và định hướng
thu hút cho những năm tiếp theo.
2
Phạm vi
Luận văn tập trung nghiên cứu, phân tích hoạt động thu hút nguồn vốn ODA
Hàn Quốc tại Việt Nam chủ yếu trong giai đoạn từ năm 1995 tới nay.

4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng kết hợp phương pháp so
sánh, phân tích tổng hợp.
Nguồn tư liệu được sử dụng trong bài chủ yếu được khai thác từ các báo cáo
số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các báo cáo hàng năm của EDCF, các Tạp chí
thương mại, niên giám thống kê, báo kinh tế Việt Nam, các nghiên cứu, và thông tin
từ mạng Internet.
3
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ NGUỒN VỐN ODA
1.1 Những vấn đề chung về ODA
1.1.1 Khái niệm và đặc điểm của ODA
1.1.1.1 Khái niệm về nguồn vốn ODA
Thuật ngữ ODA, viết tắt của cụm từ “Official Development Assistance”,
được hiểu là “Hỗ trợ phát triển chính thức” ra đời sau chiến tranh thế giới thứ II,
cùng với kế hoạch Marshall để giúp các nước Châu Âu phục hồi các ngành công
nghiệp bị chiến tranh tàn phá. Để tiếp nhận viện trợ của kế hoạch Marshall, các
nước châu Âu thành lập Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD). Ngày nay,
Tổ chức này không chỉ có thành viên là các nước châu Âu mà còn có Mỹ, Úc, Nhật
Bản, Hàn Quốc … Trong khuôn khổ hợp tác phát triển, các nước OECD lập ra
những uỷ ban chuyên môn, trong đó có uỷ ban viện trở phát triển (DAC) nhằm giúp
các nước phát triển.
Đến nay, thuật ngữ ODA được sử dụng khá phổ biến. Tùy theo từng cách
tiếp cận, có nhiều cách hiểu khác nhau về ODA:
Theo tổ chức hợp tác kinh tế và phát triển (OECD) thì “ Nguồn hỗ trợ phát
triển chính thức là những nguồn tài chính do các Chính phủ hoặc Tổ chức liên
chính phủ hoặc liên quốc gia viện trợ cho một quốc gia nhằm thúc đẩy sự phát triển
kinh tế và phúc lợi của quốc gia đó.”
1
Theo Ngân hàng thế giới thì “ Nguồn hỗ trợ phát triển chính thức là một bộ
phận của tài chính phát triển chính thức, trong đó các khoản vay cần đạt ít nhất

25% yếu tố cho không”
2
Còn ở Việt Nam, theo Nghị định số 131/2006/NĐ-CP ngày 09/11/2006 của
Chính phủ Việt Nam thay thế Nghị định 17/2001/NĐ-CP của Chính phủ, thì: “ Hỗ
trợ phát triển chính thức được hiểu là hoạt động hợp tác phát triển giữa Nhà nươc
hoặc Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với nhà tài trợ là chính
1
Theo website của OECD:


2
Báo cáo nghiên cứu chính sách của Ngân hàng Thế giới xuất bản tháng 6/1999
4
phủ nước ngoài, các tổ chức tài trợ song phương và các tổ chức liên quốc gia hoặc
liên chính phủ.”
3
Như vậy, nguồn vốn ODA là nguồn tài chính, các khoản viện trợ không hoàn
lại hoặc cho tín dụng ưu đãi do các cơ quan chính thức của một nước (thường là các
nước phát triển) hoặc một tổ chức quốc tế viện trợ cho các nước đang và chậm phát
triển nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế và phúc lợi xã hội của các nước này.
Vốn ODA phát sinh từ nhu cầu cần thiết của một quốc gia, địa phương, một
ngành, được tổ chức quốc tế hay nước bạn xem xét và cam kết tài trợ, thông qua
một hiệp định quốc tế được đại diện có thẩm quyền hai bên nhận và hỗ trợ vốn ký
kết. Hiệp định quốc tế này bị chi phối bởi Công pháp quốc tế.
1.1.1.2 Đặc điểm của nguồn vốn ODA
ODA là nguồn vốn hợp tác phát triển.
ODA là hình thức hợp tác phát triển của Chính phủ các nước phát triển, các
tổ chức quốc tế với các nước đang phát triển hoặc chậm phát triển thông qua các
khoản viện trợ không hoàn lại và/hoặc các khoản tín dụng với điều kiện ưu đãi.
Bên viện trợ thông qua các khoản cho vay ưu đãi/các khoản viện trợ không

hoàn lại sẽ cung cấp cho bên được viện trợ hàng hóa, khoa học – kỹ thuật, cung cấp
dịch vụ, trí tuệ… Ngược lại, bên nhận viện trợ thông qua nguồn vốn hỗ trợ sẽ bổ
sung nguồn vốn còn hạn chế của mình, sử dụng vào mục tiêu phát triển kinh tế- xã
hội, xây dựng cơ sở hạ tầng, xóa đói giảm nghèo… tạo điều kiện thúc đẩy phát triển
nền kinh tế quốc gia, từ đó nâng cao mức sống nhân dân.
Nhìn chung, các nước cung cấp vốn ODA đều có những chính sách và ưu
tiên riêng của mình, tập trung vào một số lĩnh vực mà họ quan tâm hay có khả năng
kỹ thuật và tư vấn (về công nghệ, kinh nghiệm quản lý). Đồng thời, đối tượng ưu
tiên của các nước cung cấp vốn ODA cũng có thể thay đổi theo từng giai đoạn cụ
thể.
3

5
ODA là nguồn vốn có nhiều ưu đãi.
Nhằm hỗ trợ cho các quốc gia đang phát triển hoặc chậm phát triển, ODA
mang tính ưu đãi hơn bất kỳ hình thức hỗ trợ nào khác. Nguồn vốn này thông
thường gồm một phần là viện trợ không hoàn lại hay còn gọi là “thành tố hỗ
trợ” phải đạt ít nhất 25% của khoản vay. “Thành tố hỗ trợ” được tính toán
trên công thức dựa vào các yếu tố như lãi suất viện trợ, thời gian vay và thời
gian ân hạn.
Tính chất ưu đãi của nguồn vốn này được thể hiện như sau:
+ Lãi suất thấp:
Các khoản vay ODA thường có mức lãi suất rất thấp, thậm chí không có lãi
suất. Lãi suất giao động từ 0,5% đến 5% /năm (trong khi lãi suất vay trên thị trường
tài chính quốc tế là trên 7% /năm và hàng năm phải thoả thuận lại lãi suất giữa hai
bên). Ví dụ như lãi suất các khoản vay ODA của Nhật Bản dao động từ 0,72-2,5%/
năm; của Ngân hàng Thế giới (WB) là 0%/năm nhưng phải trả phí dịch vụ là
0,75%/năm; lãi suất của Ngân hàng Phát triển Châu Á thường từ 1-1,5%/năm…
+ Thời gian ân hạn (chỉ trả lãi, chưa trả nợ gốc):
Đối với ODA vay thì thời gian đến khi phải trả vốn gốc đầu tiên tương đối

dài, tạo điều kiện thuận lợi cho nước nhận đầu tư có thể thu được lợi nhuận hay hiệu
quả từ dự án, thường là 10 năm đối với các khoản vay từ Nhật Bản và WB; và 8
năm đối với Ngân hàng Phát triển Châu Á.
+ Thời hạn vay dài:
Cùng với mức lãi suất tín dụng thấp, ODA còn vô cùng ưu đãi với thời gian
vay tương đối dài, các khoản vay của Nhật Bản thường có thời hạn là 30 năm; ADB
là 32 năm; WB là 40 năm
Nguồn vốn ODA thường đi kèm theo các điều kiện ràng buộc.
Tuỳ theo khối lượng vốn ODA và loại hình viện trợ mà vốn ODA có thể kèm
theo những điều kiện ràng buộc nhất định. Những điều kiện ràng buộc này có thể là
6
ràng buộc một phần và cũng có thể là ràng buộc toàn bộ về kinh tế, xã hội và thậm
chí cả ràng buộc về chính trị. Thông thường, các ràng buộc kèm theo thường là các
điều kiện về mua sắm, cung cấp thiết bị, hàng hoá và dịch vụ của nước tài trợ đối
với nước nhận tài trợ. Ví dụ, Bỉ, Đức và Đan Mạch yêu cầu khoảng 50% viện trợ
phải mua hàng hóa và dịch vụ của nước mình… Canada yêu cầu cao nhất, tới 65%.
Thụy Sĩ chỉ yêu cầu 1,7%, Hà Lan 2,2%, hai nước này được coi là những nước có
tỷ lệ ODA yêu cầu phải mua hàng hóa và dịch vụ của Nhà tài trợ thấp. Nhìn chung,
22% viện trợ của DAC phải được sử dụng để mua hàng hóa và dịch vụ của các quốc
gia viện trợ. Nguồn vốn ODA luôn chứa đựng cả tính ưu đãi cho nước tiếp nhận và
lợi ích của nước viện trợ.
Viện trợ luôn chứa đựng hai mục tiêu cùng tồn tại song song: thúc đẩy tăng
trường bền vững và giảm nghèo ở các nước đang phát triển và tăng cường vị thế
chính trị của các nước tài trợ. Viện trợ thường gắn với các điều kiện kinh tế, xét về
lâu dài, các nhà tài trợ sẽ có lợi về mặt an ninh, kinh tế, chính trị khi kinh tế các
nước nghèo tăng trưởng. Những nước cấp tài trợ đòi hỏi nước tiếp nhận phải thay
đổi chính sách phát triển cho phù hợp với lợi ích của bên tài trợ. Quan hệ hỗ trợ
phát triển phải đảm bảo tôn trọng toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiếp vào
công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi.
Nhìn chung, các quốc gia viện trợ ODA đều có chính sách riêng và những

quy định ràng buộc khác nhau đối với các nước nhận tài trợ. Mục tiêu trước hết là
mong muốn đạt được ảnh hưởng chính trị, vừa muốn thu lại lợi nhuận thông qua
việc bán hàng hóa dịch vụ cho nước tiếp nhận viện trợ.
Nguồn vốn ODA có khả năng gây nợ
Khi tiếp nhận và sử dụng nguồn vốn ODA do tính chất ưu đãi nên gánh nặng
nợ thường chưa xuất hiện. Một số nước do không sử dụng hiệu quả ODA có thể tạo
nên sự tăng trường nhất thời nhưng sau một thời gian lại lâm vào vòng nợ nần do
không có khả năng trả nợ. Lý do là vốn ODA không có khả năng đầu tư trực tiếp
cho sản xuất, nhất là cho xuất khẩu trong khi việc trả nợ lại dựa vào xuất khẩu thu
ngoại tệ. Do đó, các nước nhận ODA phải sử dụng sao cho có hiệu quả, phải phối
7
hợp với các nguồn vốn để tăng cường sức mạnh kinh tế và khả năng xuất khẩu,
tránh lâm vào tình trạng không có khả năng trả nợ.
1.1.2 Các hình thức viện trợ ODA
Hỗ trợ cán cân thanh toán
Hỗ trợ cán cân thanh toán thường được thực hiện thông qua các dạng:
- Chuyển giao tiền tệ trực tiếp nhận ODA
- Hỗ trợ nhập khẩu (viện trợ hàng hóa): Chính phủ nước nhận
Ngoại tệ hoặc hàng hoá chuyển vào trong nước thông qua hình thức hỗ trợ
cán cân thanh toán có thể được chuyển thành hỗ trợ ngân sách. Điều này xảy ra khi
hàng hoá nhập vào nhờ hình thức này được bán ra trên thị trường trong nước, và số
thu nhập bằng bản tệ được đưa vào ngân sách của Chính Phủ.
Tín dụng thương mại
Hình thức hỗ trợ bằng tín dụng thương mại là hình thức cho vay với các điều
khoản mềm như: lãi suất thấp, hạn trả dài Trên thực tế hình thức hỗ trợ tín dụng
thương mại là một dạng hỗ trợ có ràng buộc.
Viện trợ chương trình
Viện trợ chương trình là hình thức viện trợ trong đó các khoản ODA được
cung cấp để thực hiện một chương trình nhằm đạt được một hoặc nhiều mục tiêu
với một tập hợp các dự án thực hiện trong một thời gian xác định tại các địa điểm

cụ thể. Nước viện trợ và nước nhận viện trợ ký hiệp định cho một mục đích tổng
quát mà không cần xác định chính xác khoản viện trợ sẽ được sử dụng như thế nào.
Hỗ trợ dự án
Hỗ trợ dự án là hình thức chủ yếu của viện trợ chính thức. Hỗ trợ dự án
thường liên quan đến hỗ trợ cơ bản hoặc hỗ trợ kỹ thuật và trên thực tế thường có cả
8
hai yếu tố này: Hỗ trợ cơ bản thường chủ yếu về xây dựng như: đường xá, cầu cống,
trường học, bệnh viện, hệ thống viễn thông ….
Hỗ trợ theo dự án bao gồm hỗ trợ đầu tư và hỗ trợ kỹ thuật.
+ Dự án đầu tư: là dự án tạo mới, mở rộng hoặc cải tạo những cơ sở vậy chất
nhất định nhằm đạt được sự tăng trường về số lượng hoặc duy trì, cải tiến, nâng cao
chất lượng của sản phẩm hoặc dịch vụ trong khoảng thời gian xác định (thường
được cấp cho những dự án xây dựng đường xa, cầu cống, đê đập hoặc kết câu hạ
tầng…)
+ Dự án hỗ trợ kỹ thuật: là dự án tập trung chủ yếu vào việc cung cấp các
yếu tố kỹ thuật phần mềm, bao gồm các dự án phát triển năng lực thể chế, phát triển
nguồn nhân lực, chuyển giao công nghệ hoặc chuyển giao kiến thức, kinh nghiệm,
cung cấp các yếu tố đầu vào về kỹ thuật để chuẩn bị thực hiện các chương trình, dự
án đầu tư. Hỗ trợ kỹ thuật cấp cho nhiều trường hợp:
- Viện trợ tri thức gồm viện trợ cho hoạt động chuyển giao công nghệ, đào
tạo kỹ thuật hoặc phân tích về mặt quản lý, kinh tế, thương mại, thống kê,
các vấn đề về kỹ thuật…
- Viện trợ tăng cường cơ sở
- Lập kế hoạch cố vấn cho các chương trình
- Nghiên cứu trước khi đầu tư
- Hỗ trợ các lớp đào tạo tham quan, khảo sát ở nước ngoài: như cấp học
bổng đào tạo dài hạn hoặc thiết bị nghiên cứu.
1.1.3 Phân loại ODA
1.1.3.1 Theo phương thức hoàn trả
+ ODA không hoàn lại: Là hình thức cung cấp ODA mà bên nhận tài trợ

không phải hoàn lại cho bên tài trợ. Viện trợ không hoàn lại được sử dụng theo hình
thức Nhà nước cấp phát cho các nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Viện trợ không hoàn lại chiếm khoảng 25% trong tổng vốn ODA trên Thế giới.
Viện trợ không hoàn lại được thực hiện dưới dạng:
9
- Hỗ trợ kỹ thuật: thực hiện việc chuyển giao công nghệ hoặc tuyền đạt
những kinh nghiệm xử lý cho nước nhận tài trợ.
- Viện trợ nhân đạo bằng tiền mặt, hiện vật: ví dụ như lương thực, vải,
thuốc chữa bệnh, có khi là vật tư cho không.
+ ODA vay ưu đãi (hay còn gọi là tín dụng ưu đãi): Là khoản vay với các
điều kiện ưu đãi về lãi suất (lãi suất thấp hơn lãi suất thị trường), thời gian ân hạn và
thời gian trả nợ; hoặc không chịu lãi mà chỉ chịu chi phí dịch vụ (như với viện trợ
của Ngân hàng Thế giới), bảo đảm “yếu tố không hoàn lại” (còn gọi là “thành tố hỗ
trợ”) đạt ít nhất 35% đối với các khoản vay có ràng buộc và 25% đối với các khoản
vay không ràng buộc. Vay ưu đãi chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn vay
ODA trên Thế giới, là nguồn thu phụ thêm để bù đắp thâm hụt Ngân sách Nhà
Nước.
+ ODA vay hồn hợp: Bao gồm một phần ODA không hoàn lại hoặc các
khoản vay ưu đãi được cung cấp đồng thời với các khoản tín dụng thương mại theo
các điều kiện của tổ chức hợp tác kinh tế và phát triển mạnh hơn cả về đời sống
kinh tế xã hội. Hiện nay các nước cung cấp ODA có xu hướng giảm dần viện trợ
không hoàn lại và tăng hình thức tín dụng ưu đãi và ODA vay hỗn hợp.
1.1.3.2 Theo nguồn cung cấp
+ ODA song phương: là nguồn vốn ODA của Chính phủ một nước cung cấp
cho Chính phủ nước tiếp nhận (nước phát triển cho nước đang phát triển hoặc kém
phát triển) thông qua Hiệp định được ký kết giữa hai Chính phủ. Thông thường vốn
ODA song phương được tiến hành khi một số điều kiện ràng buộc của nước cung
cấp vốn ODA được thoả mãn. Trong tổng số vốn ODA ký kết, ODA song phương
chiếm tỷ trọng lớn có khi lên đến 80% lớn hơn nhiều so với tài trợ đa phương.
+ ODA đa phương: Là khoản ODA của các tổ chức tài chính quốc tế và khu

vực như: Ngân hàng thế giới (WB), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng phát triển
châu Á (ADB), các tổ chức phát triển của Liên hợp quốc (UNDP), Quỹ nhi đồng
Liên hợp quốc (UNICEFF), Tổ chức Nông lương Thế giới (FAO),…;Hoặc Liên
10
minh Châu Âu (EU), các tổ chức thuộc liên minh Châu Âu, và các tổ chức phi chính
phủ (NGOs)… cho các nước đang hoặc chậm phát triển. So với vốn ODA song
phương thì vốn ODA đa phương ít chịu ảnh hưởng bởi các áp lực thương mại,
nhưng đôi khi lại chịu những áp lực mạnh hơn về chính trị.
1.1.3.3 Căn cứ theo điều kiện
+ ODA không ràng buộc nước nhận: việc sử dụng nguồn tài trợ không bị
ràng buộc bởi nguồn sử dụng hay mục đích sử dụng.
+ ODA có ràng buộc nước nhận:
- Bởi nguồn sử dụng: Có nghĩa là việc mua sắm hàng hóa, trang thiết bị hay
dịch vụ bằng nguồn vốn ODA chỉ giới hạn cho một số công ty do nước tài
trợ sở hữu hoặc kiểm soát (đối với viện trợ song phương) hoặc các công ty
của các nước thành viên (đối với viện trợ đa phương).
- Bởi mục đích sử dụng: Chỉ được sử dụng cho một số lĩnh vực nhất định
hoặc một số dự án cụ thể.
1.2 Những nhân tố tác động đến hiệu quả thu hút vốn ODA
1.2.1 Nhân tố tác động đến ODA từ phía các nhà tài trợ
1.2.1.1 Chiến lược, chính sách cung cấp nguồn vốn ODA từ
phía nhà tài trợ
Trong từng thời kì, căn cứ vào mục tiêu chiến lược mà nhà tài trợ xác định
tập trung vào khu vực nào, quốc gia nào, theo phương thức nào. Nếu mục tiêu chiến
lược cung cấp ODA của nước tài trợ thay đổi thì nó sẽ ảnh hưởng đến quốc gia tiếp
nhận về cả cơ cấu nguồn vốn ODA và cơ chế chính sách quản lý. Ngoài ra, mỗi nhà
tài trợ đều có chính sách và thủ tục riêng đòi hỏi các quốc gia tiếp nhận viện trợ
phải tuân thủ khi thực hiện các chương trình, dự án sử dụng vốn ODA của họ. Vì
vậy, việc hiểu biết và thực hiện đúng các chủ trương hướng dẫn và quy định của
từng nhà tài trợ là điều vô cùng cần thiết đối với các quốc gia tiếp nhận viện trợ.

1.2.1.2 Tình hình kinh tế, chính trị nước tài trợ
11
Các chỉ tiêu kinh tế xã hội của nước tài trợ là yếu tố quan trọng có tác động
đến lượng vốn tài trợ, điều kiện tài trợ đối với nước nhận ODA. Các chỉ số như:
tăng trưởng kinh tế, tổng thu nhập quốc dân, lạm phát thất nghiệp hay những thay
đổi chính trị có tác động đến các hoạt động hỗ trợ phát triển cho các quốc gia khác.
Ngoài ra, nếu nước tài trợ có sự biến động bất thường về thể chế chính trị, những
thay đổi trong các chính sách, quy định, thủ tục giải ngân… cũng ảnh hưởng rất lớn
đến hiệu quả thực hiện dự án tại các quốc gia nhận viện trợ. Ví dụ như Hàn Quốc,
một vài năm gần đây, Hàn Quốc gặp khó khăn về kinh tế, tình hình làm phát tăng
cao, thu nhập quốc dân thiếu ổn định, các chỉ tiêu về an sinh xã hội giảm nhẹ, lập
tức người dân lên tiếng yêu cầu Chính Phủ giảm cung cấp vốn ODA để đảm bảo
ngân sách. Từ đó Chính phủ đã có những thay đổi phù hợp trong chính sách để đảm
bảo cho kinh tế - xã hội nước mình.
1.2.1.3 Môi trường quốc tế và sự phát triển mối quan hệ kinh
tế, chính trị giữa hai phía tài trợ và nhận tài trợ
Sau các cuộc khủng hoảng kinh tế và các cuộc xung đột vũ trang khu vực,
nhu cầu về nguồn vốn ODA của các nước có xu hướng tăng, trong khi đó tổng
lượng ODA Thế giới thời gian gần đây có chiều hướng suy giảm. Từ thực tế đó,
cuộc cạnh tranh quyết liệt giữa các nước đang phát triển đang diễn ra nhằm tranh
thủ nguồn vốn hỗ trợ. Vì vậy, để giữ vững và nâng cao được nguồn vốn ODA đòi
hỏi các quốc gia tiếp nhận viện trợ phải nâng cao trình độ, kinh nghiệm và năng lực
trong công tác quản lý và thực hiện các trương trình, dự án sử dụng nguồn vốn này.
ODA đồng thời cũng chịu ảnh hưởng bởi các quan hệ sẵn có của bên cấp
viện trợ cho nước nhận viện trợ bởi sự tương hợp về thể chế chính trị, bởi quan hệ
địa dư gần gũi. Bên cấp viện trợ và các nguồn vốn chính thức khác thường cấp viện
trợ cho những người bạn về chính trị và đồng minh quân sự mà không cấp cho
những đối tượng mà họ cho là kẻ thù. Đó là tính chất địa lý- chính trị được thể hiện
rất rõ trong viện trợ.
12

1.2.2 Nhân tố tác động đến thu hút ODA từ phía nhận tài trợ
1.2.2.1 Tình hình kinh tế chính trị, năng lực tài chính
Các nhà tài trợ thường cấp vốn cho các nước có mối quan hệ chính trị tốt và
sử dụng vốn ODA có hiệu quả. Thực tế đã chỉ ra rằng, quốc gia có thể chế chính trị
ổn định sẽ tạo điều kiện cho việc thu hút nguồn vốn ODA. Đồng thời, mức ổn định
kinh tế vĩ mô trong từng giai đoạn phát triển kinh tế, đặc biệt là chính sách tài
chính, thuế, mức độ mở cửa của nền kinh tế sẽ có những tác động trực tiếp đến
quá trình thu hút vốn ODA. Nếu các chính sách này ổn định trong thời gian dài và
hợp lý sẽ góp phần cho quản lý nguồn vốn ODA tốt và ngược lại, sẽ gây ảnh hưởng
đến việc quản lý nguồn vốn này. Ví dụ, với quốc gia ổn định kinh tế tốt, 1% GDP
viện trợ dẫn đến mức tăng trưởng bền vững tương đương với 0,5% GDP. Vì vậy, ổn
định về chính trị, kinh tế là một yếu tố đặc biệt quan trọng đê vận động và thu hút
ODA cho đất nước. Ngoài ra, trong những năm gần đây, Việt Nam luôn được đánh
giá là quốc gia sử dụng nguồn vốn ODA hiệu quả, tích cực trong công tác thu hút,
tạo điều kiện thuận lợi cho nước tài trợ. Điều này đã giúp Việt Nam thu hút ngày
càng tăng số vốn ODA ngay cả khi thế giới đang trong thời kỳ khủng hoảng.
Ngoài ra, nước nhận viện trợ cần phải có nguồn lực tương đối về tài chính vì
đối với các chương trình/dự án ODA, để tiếp nhận 1USD vốn ODA thì các quốc gia
tiếp nhận phải có ít nhất 15% vốn đảm bảo trong nước (khoảng 0,15 USD) làm vốn
đối ứng và một lượng vốn từ ngân sách cho công tác chuẩn bị các chương trình/dự
án cũng không nhỏ. Hơn nữa, nước tiếp nhận viện trợ cũng phải tính đến khả năng
trả nợ trong tương lai vì nguồn vốn ODA phải trả trong tương lai. Hết thời gian cho
vay, các nước này phải thanh toán cả vốn và lãi vay. Nếu không tự chủ được về tài
chính thì các nước tiếp nhận đầu tư rất dễ rơi vào tình trạng vỡ nợ công như Hy Lạp
vừa qua. Nước nhận đầu tư cần phải có nhận thức và định hướng rõ ràng về nguồn
vốn tài trợ để có những kế hoạch thu hút ODA hiệu quả hơn nữa.
1.2.2.2 Hoàn thiện quy trình và thủ tục của nước tiếp nhận viện
trợ
13
Nếu các quy định liên quan đến thủ tục, tổ chức, quản lý nguồn vốn ổn định

và phù hợp sẽ góp phần đẩy mạnh thu hút các nhà tài trợ. Ở những quốc gia có quy
trình và thủ tục thông thoáng, thuận lợi cho công tác thực hiện các chương trình, dự
án ODA thì ở nơi đó các chương trình, dự án ODA sẽ triển khai thuận lợi, đúng tiến
độ và phát huy hiệu quả tốt, qua đó sẽ làm tăng khả năng thu hút thêm nguồn vốn
này.
Trong thời gian qua, Chính phủ đã có những chương trình hành động như
việc sửa đổi một số quy trình, thủ tục, quy định để đảm bảo thủ tục trong nước hài
hòa với các quy định của nhà tài trợ thông qua Hội Thảo về Hài hòa thủ tục diễn ra
tại Hà Nội qua các năm. Tiếp tục cải thiện cái khâu trong bộ máy hành chính, minh
bạch giải ngân các dự án tài trợ, điển hình là hài hoà thủ tục về hệ thống và mẫu
biểu báo cáo, xây dựng mẫu nghiên cứu khả thi chung giữa Việt Nam và Nhóm 5
ngân hàng phát triển (Ngân hàng Thế giới - WB, Ngân hàng Phát triển châu Á -
ADB, Ngân hàng Hợp tác quốc tế Nhật Bản - JBIC, Ngân hàng Tái thiết Đức -
KFW và Cơ quan Phát triển Pháp - AFD).
1.2.2.3 Hệ thống quy phạm pháp luật
Môi trường đầu tư cần phải được hệ thống pháp luật và chính sách của Nhà
nước đảm bảo. Hệ thống pháp luật có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả thu hút ODA từ
các nhà tài trợ khi ta xem xét ở khía cạnh bảo hộ vốn đầu tư của Chính phủ đối với
một số dự án đầu tư từ ngân sách nhà nước, trong khi nhìn từ một góc độ nào đó thì
ODA gần như được coi là nguồn vốn đầu tư nhà nước.
Trước hết, để duy trì lòng tin đối với các nhà tài trợ nhằm duy trì các nguồn
cung cấp ODA đang khai thác chính phủ Việt Nam đã tạo ra một khung pháp lý cho
việc thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA thông qua việc ban hành các chính sách và
các văn bản pháp lý điều tiết ODA. Hệ thống pháp luật trước hết phải công bằng,
hợp lý và đảm bảo thực thi trong thực tiễn đối với mọi thành phần kinh tế. Tạo dựng
một nền kinh tế thị trường vứng mạnh, phát huy tác dụng của kinh tế thị trường
ngay trong dự án đầu tư ODA. Nhờ đó tạo được tâm lý an toàn cho các nhà tài trợ.
14
1.2.2.4 Nâng cao năng lực bộ máy, đội ngũ cán bộ làm công tác
chuyên trách về ODA

Một quy trình thủ tục hài hòa hóa với mặt bằng các nước trên thế giới phải đi
cùng với đội ngũ cán bộ có năng lực và hiểu biết về nguồn vốn ODA. Điều đó làm
cho quá trình tiếp nhận vốn được thông suốt, tạo cơ hội thu hút các nhà đầu tư tài
trợ cho các dự án ODA của Việt Nam. Các cán bộ cần phải có năng lực, kiến thức
về đàm phán, ký kết dự án, ngoại ngữ, kiến thức chuyên môn… Vì các hoạt động
liên quan đến nguồn vốn ODA đều phải tuân thủ các quy định, luật pháp Việt Nam
và các nhà tài trợ. Trước hết, cần phải tăng cường công tác cán bộ, đầu tư đào tạo để
nâng cao năng lực cho những cán bộ thuộc bộ phận liên quan đến việc xác định nhu
cầu đàm phán, ký kết các hiệp định với đối tác nước ngoài nhằm nâng cao hơn nữa
cả về số lượng và chất lượng của nguồn vốn thu hút được.
1.3 Tác động của ODA đối với nước nhận đầu tư
1.3.1 Tác động tích cực
+ Thứ nhất, nguồn vốn ODA mang lại nguồn lực cho đất nước thông qua
những tác động tích cực của nó đối với sự phát triển kinh tế - xã hội ở những nước
chậm và đang phát triển, đáp ứng những nhu cầu cấp bách về cân đối ngân sách và
cán cân xuất nhập khẩu của các nước nghèo.
Đối với những dự án phát triển hạ tầng cơ sở, ODA giúp nước nhận viện trợ
có điều kiện tốt hơn để xây dựng những công trình đòi hỏi vốn lớn, mức sinh lời
thấp như đường xa, cầu, cảng, sân bay nhưng lại là những dự án mang lại lợi ích
kinh tế - xã hội lớn, tạo nền móng cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng cho đầu tư lâu
dài, tạo ra sức hấp dẫn cho các nhà đầu tư quốc tế.
ODA đóng góp gián tiếp vào tăng trưởng GDP nước nhận đầu tư. Nguồn vốn
ODA trực tiếp giúp cải thiện điều kiện vệ sinh, y tế, cung cấp nước sạch, bảo vệ
môi trường, đồng thời góp phần tích cực trong việc phát triển nông nghiệp, xóa đói
15
giảm nghèo. Điều đó giúp giúp giảm sự mất cân bằng giữa tăng trường, giảm nguy
cơ tụt hậu.
+ Thứ hai, ODA là nguồn vốn quan trọng giúp các nước lâm vào tình trạng
khủng hoảng có thể phục hồi giá trị đồng nội tệ thông qua khoản hỗ trợ lớn của các
tổ chức tài chính quốc tế, như viện trợ khẩn cấp của IMF cho Mêxico 40 tỷ USD đã

cứu nước này thoát khỏi khủng hoảng nghiêm trọng vào năm 1994. Năm 1998 các
tổ chức tài chính quốc tế đã hỗ trợ giúp Thái Lan, Hàn Quốc vượt qua khủng hoảng
tài chính nặng nề. Ngoài ra, ODA còn là nguồn bổ sung ngoại tệ cho đất nước và bù
đắp cho cán cân thanh toán.
+ Thứ ba, các dự án ODA thường đòi hỏi áp dụng công nghệ tiên tiến, chất
lương cao, vì vậy thông qua vốn ODA, các nước nhận viện trợ nhập khẩu thiết bị từ
các nước phát triển, nước nhận viện trợ có cơ hội tiếp xúc, sử dụng những thiết bị
mới. Tiếp thu những thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại và phát triển nguồn
nhân lực.
+ Thứ tư, ODA giúp các nước nghèo cải cách hành chính và điều chỉnh cơ
cấu kinh tế. Các dự án Oda mà các nhà tài trợ dành cho Việt Nam thường ưu tiên
vào phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế kỹ thuật, phát triển nguồn nhân lực tạo điều kiện
thuận lợi cho việc phát triển cân đối giữa các ngành, các vùng khác nhau trong cả
nước. Bên cạnh đó các dự án còn giúp phía Việt Nam thực hiện cải cách hành chính
nâng cao hiệu quả hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước thông qua các
chương trình viện trợ dự án, làm cho cơ chế quản lý kinh tế ở những nước này tiếp
cận với những chuẩn mực chung quốc tế.
+ Thứ năm, lượng vốn ODA nhận được từ các tổ chức tài chính quốc tế càng
cao, càng chứng tỏ độ tin cậy của cộng đồng quốc tế đối với nước tiếp nhận viện trợ
càng lớn. Và thông qua bên cung cấp ODA, nước nhận viện trợ có thêm cơ hội
tham gia vào các tổ chức tài chính quốc tế, đạt được sự giúp đỡ lớn hơn về vốn từ
các tổ chức này. Nước viện trợ ODA đóng vai trò là chiếc cầu nối giữa nước cần
vốn với các tổ chức quốc tế.
16
+ Thứ sáu, ở các nước mới phát triển, tình trạng nợ tồn đọng do những khoản
vay từ trước đã tới thời hạn hoàn trả, nhưng chính phủ chưa có đủ khả năng chi trả
sẽ được ODA giúp đỡ, tạo điều kiện để các nước này có thể vay thêm vốn của các
tổ chức quốc tế, thực hiện việc thanh toán nợ đến hạn.
+ Thứ bảy, đối với người nghèo, thông qua chính phủ nước tiếp nhận, ODA
sẽ là những khoản tài trợ giúp cho họ thoát khỏi cảnh nghèo đói, ví dụ: những

chương trình viện trợ cho công cuộc xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam do các nhà tài
trợ quốc tế thực hiện đã tham gia vào giúp Việt Nam giảm tỷ lệ đói nghèo trong thời
gian vừa qua và được tổ chức Quốc tế đánh giá cao.
+ Thứ tám, ODA góp phần tăng khả năng thu hút FDI và tạo điều kiện mở
rộng đầu tư phát triển. Các nhà đầu tư nước ngoài khi quyết định bỏ vốn đầu tư vào
một nước, trước hết họ quan tâm tới khả năng sinh lợi của vốn đầu tư tại nước đó.
Do đó, một cơ sở hạ tầng yếu kém như hệ thống giao thông chưa hoàn chỉnh,
phương tiện thông tin liên lạc thiếu thốn và lạc hậu, hệ thống cung cấp năng lượng
không đủ cho nhu cầu sẽ làm nản lòng các nhà đầu tư vì những phí tổn mà họ phải
trả cho việc sử dụng các tiện nghi hạ tầng sẽ lên cao. Một hệ thống ngân hàng lạc
hậu cũng là lý do làm cho các nhà đầu tư e ngại, vì những chậm trễ, thiếu thốn trong
thanh toán và dịch vụ hỗ trợ đầu tư. Như vậy, việc sử dụng hiệu quả vốn ODA bổ
trợ rất lớn cho công cuộc thu hút vốn FDI.
Bên cạnh những lợi ích hiển nhiên to lớn của dòng vốn nước ngoài qua các
kênh thu hút khác nhau, như bổ sung vốn đầu tư và gia tăng nguồn động lực mới,
tích cực và mạnh mẽ hơn cho phát triển của đất nước, cải thiện cơ cấu và trình độ
phát triển kinh tế, công nghệ, thị trường, đội ngũ lao động và quản lý… vẫn còn tồn
tại nhiều điểm hạn chế, cần tỉnh táo nhận diện những tác động mặt trái của nguồn
vốn ưu đãi này để có các giải pháp thích ứng.
1.3.2 Mặt trái của ODA
17
+ Thứ nhất, nước tài trở đưa ra những ràng buộc về chính sách tài trợ: những
ràng buộc về chính trị như nước tài trợ muốn nước tiếp nhận đưa ra đường lối đối
nội, đối ngoại theo một hoạch định có sẵn. Những ràng buộc về kinh tế chính trị:
nước tài trợ đưa ra những ràng buộc tác động đến chính sách kinh tế xã hội của
nước tiếp nhận theo hướng mà nước tài trợ mong muốn như nước tiếp nhận phải
cam kết tự do hóa thị trường, cam kết đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà
nước, từng bước giảm độc quyền trong cung cấp điện, nước, hàng không, hoặc công
khai các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô (dự trữ ngoại tệ, nợ quốc gia ). Những ràng buộc về
kinh tế: ràng buộc đưa ra nhằm mang lại lợi ích cho nước tài trợ như nước tiếp nhận

sử dụng hàng hóa, thiết bị, dịch vụ, chuyên gia nước ngoài từ nước tài trợ.
+ Thứ hai, vay mượn ODA sẽ tăng nợ quốc gia. Bản chất ODA là khoản vay
có tính ưu đãi. Nếu chính phủ sử dụng tốt và đúng mục đích nguồn này sẽ đóng góp
rất lớn vào tiến trình phát triển, tạo hành lang môi trường cho khu vực kinh tế hoạt
động, giảm bất bình đẳng giữa các vùng từng bước tăng trường, giảm nghèo và
tăng kinh khả thi về khả năng hoàn trả nợ vay. Ngược lại, nếu chính phủ sử dụng
nguồn này sai mục đích, thất thoát và lãng phí sẽ là gánh nặng nợ cho thế hệ mai
sau. Theo kinh nghiệm của Ngân hàng Thế giới, giới hạn an toàn cho phép dư nợ
nước ngoài của quốc gia là dưới 60%GDP. Thập niên 90, IMF và WB cho rằng
nước đang phát triển được xem là nước nghèo mắc nợ cao (HIPCs) nếu thỏa mãn
hai điều kiện: NPV nợ/Xuất khẩu ≥ 150% và NPV nợ/thu ngân sách ≥ 250%.
Những năm gần đây, thực tế các khoản vay quốc gia được qui về giá trị hiện tại có
mức thấp hơn.
+ Thứ ba, nước tiếp nhận nguồn ODA bổ dung vào đầu tư qua các dự án đầu
tư công cộng nếu không hiệu quả sẽ gây tác động chèn lấn đầu tư tư nhân.
+ Thứ tư, nguồn ODA không ổn định và khó có thể dự báo được: do mức tài
trợ thường phụ thuộc vào cảm tính của nhà tài trợ mặc dù các nhà tài trợ có dựa trên
những tiêu chí nhất định để đưa ra cam kết tài trợ hàng năm. Do đó, nguồn ODA
18
chảy vào các nước nghèo và đang phát triển không đồng đều giữa các vùng trên thế
giới.
+ Thứ năm, thủ tục giải ngân phức tạp: mặc dù có những ưu đãi về lãi suất,
thời gian ân hạn nhưng trở ngại của việc huy động nguồn ODA là thủ tục giải ngân.
Thủ tục giải ngân giữa các nhà tài trợ có điểm khác nhau, trình tự các bước và trình
thực hiện dự án cũng khác nhau giữa nhà tài trợ với nước tiếp nhận viện trợ. Nếu
như một quốc gia nhận viện trợ với số lượng các nhà tài trợ quá nhiều sẽ dẫn dến
việc giải ngân chậm và phức tạp. Do vậy, trên thực tế, các bên cần ngồi lại với nhau
để hài hòa hóa thủ tục hoặc giảm bớt số lượng nhà tài trợ.
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG THU HÚT NGUỒN VỐN
ODA CỦA HÀN QUỐC TẠI VIỆT NAM

2.1 Tổng quan về nguồn vốn ODA tại Việt Nam năm 2011
2.1.1 Tình hình vận động, thu hút và sử dụng vốn ODA năm 2011
Bối cảnh quốc tế: Các quốc gia trên toàn thế giới vẫn đang phải đối mặt với
những khó khăn, thách thức của cuộc khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế.
Kinh tế và thương mại thế giới phục hồi chậm sau khủng hoảng và còn tiềm ẩn
19
nhiều bất ổn, khó lường. Biến động gia năng lượng và các nguồn nguyên liệu đầu
vào tiếp tục diễn biến phức tạp, gây ra nhiều khó khăn cho các nền kinh tế dựa
nhiều vào nhập khẩu như Việt Nam. Năm 2011 có thể coi là năm cuộc khủng hoảng
nợ công ở châu Âu và Mỹ hoành hành dữ dội, đe dọa tiến trình phục hồi của nền
kinh tế toàn cầu. Trên thực tế cuộc khủng hoảng nợ công dai dẳng đe dọa sự tồn tại
của đồng tiền chung châu Âu, khiến cho chính nhiều nước trong khối chao đảo, phải
đối mặt với nguy cơ phá sản nợ công và gần như chắc chắn sẽ rơi vào suy thoái
trong năm 2012.
Với nguồn vốn ODA, do một số quốc gia phát triển, đặc biệt các quốc gia
khu vực đồng Euro là nhà tìa trợ vốn ODA (Hy Lạp, Tây Ban Nha, ) nên nguồn
cung ODA trên thế giới từ các thành viên OECD-DAC đã có dấu hiệu giảm sút và
không đạt được chỉ tiêu cam kết như dự kiến trong khi nhu cầu về nguồn vốn ODA
lại rất lớn. Thực tế này đã tạo ra sự cạnh tranh gay gắt giữa các nước tiếp nhận viện
trợ. Mặt khác, chính sách của các nhà tài trợ ưu tiên nguồn vốn ưu đãi nhiều hơn
cho các nước kém phát triển, nên nguồn vốn ODA cung cấp cho các nước có thu
nhập trung bình như Việt Nam đã giảm đáng kể trong thời gian gần đây.
Bối cảnh khu vực: Năm 2011 kết thúc trong bối cảnh nền kinh tế châu Âu
được ví như đang trên bờ vực thẳm thì châu Á lại như ngọn hải đăng hy vọng trong
việc đối phó với khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay do các nước trong khu vực
này đã có kinh nghiệm đối phó với cuộc khủng hoảng tài chính năm 1998. Đây là
một yếu tố bên ngoài thuận lợi đ ối với Việt Nam. Trong báo cáo Triển vọng Phát
triển Châu Á 2011 công bố hồi tháng 9, Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) dự báo
khu vực Châu Á sẽ tăng trưởng khoảng 7,2%. Một số nước có mức tăng trưởng cao
và ấn tượng trong khu vực gồm: Trung Quốc (9,6%), Ấn Độ (8,2%), Đông Nam Á

(5,5%), Indonesia (6,4%)
4
, Đây là điều kiện để Việt Nam tận dụng tốt các cơ hội
để thu hút ODA, đặc biệt trong quan hệ hợp tác giữa các thành viên ASEAN và
giữa Việt Nam với các quốc gia khác trong khu vực.
4
Trong báo cáo Triển vọng Phát triển Châu Á công bố hồi tháng 9, Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB)
dự báo khu vực Châu Á sẽ tăng trưởng khoảng 7,2% trong năm 2011.
20
Bối cảnh trong nước: Năm 2011 là năm với nhiều thách thức lớn của kinh tế
Việt Nam với lạm phát tăng cao, tăng trưởng thấp, đầu tư trong nước giảm do thắt
chặt tiền tệ và đầu tư công giảm, đầu tư nước ngoài chững lại do tình hình kinh tế
thế giới có nhiều biến động. Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn như vậy tuy nhiên
kinh tế Việt Nam đã đạt được nhiều thành tích đáng khích lệ. Nhìn chung, nền kinh
tế phục hồi khá nhanh trong điều kiện kinh tế thế giới vẫn còn nhiều diễn biến phức
tạp; an sinh xã hội được đảm bảo, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện;
chính trị, xã hội tiếp tục ổn định, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế không
ngừng được nâng cao, kinh tế tiếp tục hội nhập sâu vào nền kinh tế khu vực và thế
giới. Tuy nhiên, trong 5 năm tới, nền kinh tế vẫn còn tiếp tục đối mặt với nhiều khó
khăn, thách thức do áp lực, những tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính
và suy giảm kinh tế toàn cầu của nền kinh tế thế giới, nó tác động không nhỏ đến
nền kinh tế trong nước. Việt Nam, cũng như các quốc gia khác, không tránh khỏi.
Tuy nhiên, Việt Nam đang đối phó tốt với cuộc suy thoái kinh tế toàn cầu và nền
kinh tế Việt Nam có khả năng trụ vững trong cơn bão suy thoái. Đó là cơ sở rất tốt
để Việt Nam tiếp tục nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của các nhà tài trợ trong tiến
trình phát triển của mình, đồng thời có ý nghĩa quan trọng đối với công tác vận
động, thu hút vốn ODA trong năm 2011.
Việt Nam được xếp hạng thứ 12 trong số các quốc gia có môi trường đầu tư
thuận lợi. Về quan hệ hợp tác phát triển, Việt Nam nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ
của cộng đồng tài trợ quốc tế. Hiện nay, tại Việt Nam đã được mở rộng rất nhiều và

hiện có 51 nhà tài trợ, bao gồm 28 nhà tài trợ song phương và 23 nhà tài trợ đa
phương có các chương trình ODA thường xuyên. Hầu hết các nhà tài trợ đều có
chiến lược hoặc chương trình hợp tác trung hạn về hợp tác phát triển Việt Nam.
Ngoài các nước là thành viên của Tổ chức OECD-DAC còn có các nhà tài trợ mới
nổi như Trung Quốc, Ấn độ, Hung-ga-ri, Séc, Ở Việt nam còn có khoảng 600 các
tổ chức phi Chính phủ quốc tế hoạt động với số tiền viện trợ hàng năm lên đến 200
triệu USD trong nhiều lĩnh vực khác nhau.
21
Tình hình ký kết các hiệp định quốc tế cụ thể về ODA: Việt Nam vẫn
nhận được sự trợ giúp của các đối tác phát triển dù hầu hết các nhà tài trợ lớn đều
đang gặp khó khăn, các nước châu Âu đang đối phó với khủng hoảng nợ công và
thâm hụt ngân sách lớn, Nhật Bản phải dồn sức khắc phục hậu quả động đất - sóng
thần, trong khi nền kinh tế Mỹ đang chao đảo. Các chương trình ODA mà Nhật
dành cho Việt Nam đã bị đình hoãn với giá trị gần 800 triệu USD. Nhưng Chính
phủ Nhật Bản vẫn quyết định giữ nguyên mức cam kết ODA cho Việt Nam. Thậm
chí là cao hơn là 1,9 tỷ USD trong năm nay. Với số tiền nói trên, Nhật Bản nhiều
khả năng sẽ tiếp tục là nhà tài trợ ODA song phương lớn nhất của Việt Nam trong
năm nay và tiến gần tới con số kỷ lục 2 tỷ USD mà nước này cam kết năm 2009.
Tại Hội nghị CG (hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ dành cho Việt Nam)
năm 2010, các nhà tài trợ đã hợp tác chặt chẽ với các Bộ, ngành và địa phương
trong việc xây dựng và phê duyệt dự án, ký kết các điều ước quốc tế cụ thể về ODA
với mức cam kết gần 7,905 tỷ USD cho năm 2011 nhằm giúp Việt Nam ổn định
kinh tế và phát triển vững mạnh. Tài trợ song phương từ 24 đối tác là 3,28 tỷ USD,
tài trợ từ 5 đối tác tổ chức gần 4,6 tỷ USD. Trong đó, Nhật Bản đứng đầu với số vốn
ODA cam kết là 1,76 tỷ USD. Tiếp đến là Hàn Quốc, Pháp, Đức (lần lượt là 412,8
triệu USD, 221 triệu USD, 199 triệu USD). Ngân hàng thế giới (WB) cam kết hỗ
trợ vốn ODA trên 2,6 tỷ USD, Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) là 1,5 tỷ USD.
Trong 6 tháng đầu năm, tổng vốn ODA ký kết thông qua các hiệp định từ mức hơn
1 tỷ USD, vọt lên trên 1,66 tỷ USD, tăng khoảng 20% so với cùng kỳ năm ngoái.
Về hoạt động thu hút vốn ODA, chỉ tính tổng 4 tháng đầu năm đã có 11 dự án được

ký kết với tổng giá trị 1.028,21 triệu USD (trong đó, vốn vay đạt 1.002,28 triệu
USD, viện trợ không hoàn lại đạt 25,93 triệu USD).
Nhìn chung, các dự án sử dụng vốn ODA đều được đầu tư đúng định hướng
nhằm phát triển hạ tầng cơ sở, tạo điều kiện sống, môi trường tốt hơn cho nhân dân.
Những chương trình, dự án có giá trị lớn được ký kết tập trung chủ yếu vào lĩnh vực
giao thông, cấp thoát nước, xử lý môi trường cho các địa bàn và phát triển xã hội.
22
Tổng giá trị ODA ký kết từ đầu năm đến ngày 17/11/2011 đạt 3.152 triệu USD (vốn
vay đạt 3.010 triệu USD và viện trợ không hoàn lại đạt 142 triệu USD)
Bảng 2.1: Tình hình ký kết hiệp định ODA theo ngành, lĩnh vực
(từ đầu năm đến ngày 17/11/2011)
Ngành, lĩnh vực
ODA ký kết
(triệu USD)
Cơ cấu
(%)
1. Giao thông vận tải, bưu chính viễn thông 574,78 18,23
2. Năng lượng và công nghiệp 419,33 13,30
3. Nông nghiệp phát triển nông thôn - Xóa đói
giảm nghèo
505,09 16,02
4. Cấp thoát nước và vệ sinh môi trường 476,40 15,11
5. Y tế, giáo dục và đào tạo, môi trường và
các ngành khác (bao gồm xây dựng thể chế,
quản lý đào tạo…)
1.177,28 37,34
Tổng 3.152,88 100%
Nguồn: Báo cáo tổng kết Vụ Kinh tế Đối ngoại 2011, Bộ Kế hoạch và đầu tư
Tổng số vốn ODA cam kết trong 5 tháng đầu năm thông qua các hiệp định từ
mức hơn 1 tỷ USD trong các công bố chính thức, vọt lên trên 1,66 tỷ USD, tăng

khoảng 20% so với cùng kỳ năm ngoái. Về hoạt động thu hút vốn ODA, chỉ tình
trong 4 tháng đầu năm đã có 11 dự án ODA được ký kết với tổng giá trị 1.028,21
triệu USD, gấp 2 lần so với cùng kỳ (vốn vay đạt 1.002,28 triệu USD, viện trợ
không hoàn lại đạt 25,93 triệu USD). Ví dụ như một số dự án lớn như dự án xây
dựng nhà máy điện Nghi Sơn II (trị giá 365,82 triệu USD), xây dựng cầu Nhật Tân
II (trị giá 304,25 triệu USD), dự án xây dựng cầu Vĩnh Thịnh trên quốc lộ 2C thuộc
vành đai V, thành phố Hà Nội (tổng mức đầu tư 137 triệu USD, do Hàn Quốc tài
trợ vốn), dự án xây dựng nhà ga hành khách T2 – Cảng hàng không quốc tế Nội Bài
(135,36 triệu USD vốn vay Nhật Bản), dự án cảng Lạch Huyện, dự án đường cao
23
tốc Hà Nội – Thái Nguyên (tổng mức đầu tư 8.104 tỷ đồng, do JICA Nhật Bản tài
trợ vốn)dự án xây đường bộ cao tốc Bắc Nam đoạn Đà Nẵng – Quảng Ngãi và đoạn
TP Hồ Chí Munh – Dầu Giây
Các dự án viện trợ không hoàn lại ký kết có giá trị lớn bao gồm: Dự án
“Chương trình bảo tồn rừng” do chính phủ Nhật Bản viện trợ, dự án tăng cường tính
cạnh tranh của ngành nông nghiệp Việt Nam sau khi gia nhập WTO (trị giá 3,2
triệu USD do cơ quan phát triển quốc tế Canada CIDA tài trợ), dự án hỗ trợ kỹ
thuật cho Ngân hàng Nhà nước “hoàn thiện khuôn khổ pháp lý và tăng cường năng
lực quản lý (trị giá 1 triệu Euro của Cơ quan phát triển Pháp AFD)
Cũng theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tổng giá trị vốn ODA được ký kết thông
qua các hiệp định cho đến cuối tháng 3/2011 ước đạt 1.013,6 triệu USD; trong đó
vốn vay đạt 987,7 triệu USD, viện trợ không hoàn lại đạt 25,9 triệu USD.
2.1.2 Tình hình giải ngân vốn ODA năm 2011
Mặc dù, mức cam kết ODA năm sau luôn cao hơn năm trước, song việc giải
ngân nguồn vốn trong năm 2011 chưa được như mong muốn. Đến tháng 12 năm
2011, số vốn giải ngân chạm con số 3,2 tỷ USD. Đáng chú ý là, trong khi tỷ lệ vốn
vay tăng từ 80% (1993- 2000) lên mức 81% (2001 - 2005) và đạt mức cao nhất 93%
(2006 - 2010) thì vốn viện trợ không hoàn lại giảm từ 20% và 19% xuống còn 7,1%
(2006 - 2010). Thực tế này đặt ra yêu cầu cho thời gian tới là phải sự dụng nguồn
vốn ODA một cách hiệu quả cao nhất, phải lựa chọn được mục tiêu và lĩnh vực ưu

tiên đầu tư, đồng thời phải có các chính sách, giải pháp về an toàn nợ nước ngoài.
Theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, giải ngân vốn ODA 4 tháng đầu năm 2011 đạt
khoảng 1 tỷ USD, bằng 36% kế hoạch năm, trong đó JICA đạt 494,7 triệu USD.
Kết thúc năm 2011, mức giải ngân vốn ODA cả năm đạt khoảng 3.650 triệu
USD (vốn vay: 3.450 triệu USD, viện trợ không hoàn lại: 200 triệu USD), trong đó
350 triệu USD là giải ngân nhanh. Đối với một số nhà tài trợ lớn, mức giải ngân
ODA năm 2011 như sau: WB (819 triệu USD), ADB (760 triệu USD), JICA (1.316
24
triệu USD), AFD (190 triệu USD), EU (58 triệu USD), Hàn Quốc (147 triệu USD),
Hà Lan (20 triệu USD) Như vậy, so với mức giải ngân theo các chương trình dự
án ODA năm 2012 đạt 2.941,5 triệu USD thì khối lượng ODA giải ngân năm 2011
sẽ cao hơn 7%. Lượng ODA giải ngân cũng có xu hướng tăng lên qua các năm. Tuy
nhiên, dựa vào biểu đồ 2.1 ta có thể thấy tỷ lệ giải ngân vốn ODA lại chưa tốt, tỷ lệ
giải ngân lại có xu hướng giảm xuống. Lượng vốn giải ngân 10 năm gần đây trung
bình chỉ bằng 53% vốn cam kết.
Biểu đồ 2.1: Tình hình giải ngân ODA giai đoạn 2005-2011
Nguồn: Báo cáo mục tiêu phát triển thiên niên kỷ 2011 – Chính phủ
Mặc dù các chỉ tiêu về cam kết, ký kết và giải ngân nguồn vốn ODA đều đạt
và vượt kế hoạch đề ra, nhưng tiến độ thực hiện và giải ngân nguồn vốn ODA vẫn
chưa đạt yêu cầu và đối với một số nhà tài trợ còn thấp hơn với mức bình quân của
25

×