Tải bản đầy đủ (.doc) (44 trang)

Tổng hợp về bí quyết ngủ ngon pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (252.33 KB, 44 trang )

GIẤC NGỦ DÀI NGẮN
Khi ta ngủ, nhịp tim đều đặn, huyết áp trở lại bình thường, hơi thở hài hoà và sâu.
Khi ấy hoocmon chiều cao được tiết ra - là yếu tố cho cơ thể trẻ em và thanh thiếu
niên phát triển và làm mô tế bào được đổi mới ở cả thiếu niên, tráng niên và cao niên.
Khi ngủ, đôi mắt được nghỉ ngơi; bóng tối là yếu tố cần thiết để biến đổi vitamin A
thành retinol cần thiết duy trì cho thị lực. Khi ngủ ôxi tiếp cận các mô tế bào tốt hơn
nên giấc ngủ ngon ban đêm sẽ giúp cho làn da mịn màng và hồng hào.
Sinh ra không ai giống ai. Thời gian dành cho giấc ngủ cũng khác nhau. Thông
thường trẻ sơ sinh ngủ tới 20giờ mỗi ngày; các vị thành niên cần từ 8 đến 10 giờ ngủ
mỗi ngày; còn ngoài 20 tuồi chỉ ngủ mỗi ngày từ 6 đến 8 tiếng. Tuổi càng cao nhu cầu
ngủ càng giảm: trung niên thì 5 đến 7 giờ; người nghỉ hưu thường chỉ ngủ mỗi ngày 4
đến 5 giờ (tương đương với khi trẻ của Napolêon).
Thời khắc năng lực trí tuệ cao nhất của người ta trong một ngày cũng không giống
nhau. Nhóm người "Cú Mèo" hoạt động linh hoạt nhất vào buổi tối và ban đêm.
Nhưng đó lại là lúc nhóm người "Chiền Chiện" rã rời; nên tốt nhất là ngủ sớm và dậy
sớm để làm bù. Nhóm "Cú Mèo" là người hướng ngoại, để bộc lộ tình cảm ra ngoài.
Nhóm người "Chiền Chiện" lại hướng nội, cất dấu cảm xúc vào tâm khảm. Thiên
hướng làm việc khuya hay dậy sớm đã được "lập trình" sẵn trong mỗi cá thể. Vì vậy
không nên nỗ lực cưỡng lại, mà hãy cố gắng thích nghi và tự thu xếp thời gian thích
hợp cho giấc ngủ của mình.
LÀM GÌ KHI MẤT NGỦ
Thiếu ngủ dẫn đến giảm thiểu miễn dịch và tăng khả năng nhiễm bệnh, dễ dẫn đến
hội chứng thiếu máu tim và nhồi máu cơ tim, "bốc hoả" thần kinh và trầm uất. Trên
một nửa số người tai nạn giao thông xảy ra là "tác phẩm" của những người lái xe thiếu
ngủ. Mất ngủ không chỉ biểu hiện qua khó ngủ, mà còn ở giấc ngủ chập chờn hoặc
thức giấc quá sớm. Nguyên nhân mất ngủ có thể do trục trặc về sức khoẻ (thấp khớp,
tiểu đường hay cường tuyến giáp ). Tuy nhiên ba phần tư lại do yếu tố tâm lý - tình
cảm. Ngược lại mất ngủ thường dẫn đến tim đập nhan, huyết áp tăng, tăng trầm uất và
rối loạn tâm lý. Một nửa ca tử vong do nhồi máu xảy ra ở người mất ngủ.
Tình trạng mất ngủ cần được điều trị và có thể chữa trị. Thi thoảng thuốc ngủ đã phát
huy tác dụng tích cực (tốt nhất là loại nguồn gốc thảo dược). Song để tránh nghiện,


không nên dùng quá một tháng, hoặc 6 tuần là cùng. Tốt nhất là hoạt động thể dục thể
thao hàng ngày đều đặn để luôn ngủ ngon.
Khoa học đã tổng kết: để ngủ ngon nhất thiết phải làm việc từ lúc thức buổi sáng.
Cơ thể chúng ta vốn thích hài hoà và ổn định. Cần luôn luôn thức dậy vào giờ nhất
định, ăn uống vào giờ nhất định.
Hoạt động thể thao và dạo bộ là rất tốt cho ngủ ngon. Nhưng nên kết thúc trước
khi đi ngủ 3 giờ, kể cả bữa ăn chính buổi tối. Nhưng nếu thấy đói không thể ngủ được
thì trước khi đi ngủ có thể ăn thật nhẹ hoặc uống cốc nước ấm pha đường hay hoà mật
ong.
VÀI BÍ QUYẾT ĐỂ NGỦ ĐƯỢC
Về ăn: Hai loại vitamin giúp ngủ tốt là B6 và B12 (có trong thịt, cá, đậu, chuối, ngũ
cốc). Bữa ăn chiều nên ăn nhẹ, thức ăn dễ tiêu, ít đạm, tránh ăn quá no. Không nên ăn
cá rán, xúc xích; tránh cả các chất kích thích chứa trong rau quả như cafein trong
khoai tây, ngô, chanh, cam. Còn rau đay, mồng tơi, lá vông, ngó sen, chuối, cà chua,
lạc, mận thì đều giầu hợp chất triptofani (cũng có trong sữa, mật ong) là nguyên
liệu giúp cơ thể tạo ra hoocmon ngủ (nhất là hạt sen, long nhãn).
Về uống: Chiều tối không nên uống trà, cà phê, cocacola và nên chia tay với rượu. Dù
một, hai ly rượu thuốc buổi tối có thể giúp một số người dễ ngủ hơn, nhưng chính
rượu cũng làm tình trạng mất ngủ thêm trầm trọng. Còn uống nhiều rượu thì chắc
chắn chỉ làm rối loạn giấc ngủ. Mật ong có tác dụng xoa dịu thần kinh nên tốt nhất là
uống hai thìa mật ong hoà trong 200 ml nước ấm hoặc sữa nóng để tránh bị làm giảm
lượng glucoza trong máu lúc nửa đêm, là nguyên nhân gây tỉnh giấc đối với nhiều
người cao tuổi.
Về hoạt động: Trước khi lên giường hãy tạo không khí tĩnh lặng, cả nội tâm lẫn môi
trường. Nếu gặp chuyện bực mình nên giãi bày hết với người thân hay bạn thân. Nên
tắm nước ấm, nghe nhạc êm đềm hoặc đọc một vài trang sách vui vẻ. Có thể "vẩy tay"
Đạt ma dịch cân kinh độ 10 phút. Hoặc tối tối đi bách bộ một lúc nếu ban ngày ít vận
động.
Đã đặt lưng xuống giường ngoài nghỉ ngơi, tuyệt đối không ăn uống hay làm việc
hoặc nghĩ đến bất cứ hoạt động thể lực nào - trừ "chuyện ấy" với "bạn đời". Theo giáo

sư Jouvet thì đây là bài thuốc đơn giản và ít tốn kém nhất để khắc phục mất ngủ: vuốt
ve, âu yếm rồi "yêu nhau" - làm dịu thần kinh và có tác dụng thư giãn cơ bắp. Thân
thể "no nê" hưng phấn sẽ trở nên biếng nhác, chỉ muốn ngủ !
CÁCH CHỮA MẤT NGỦ
Ngâm chân:
Trước khi đi ngủ ngâm chân vào nước thật nóng để kéo máu xuống chân. Ngâm đến
đầu gối càng tốt. Xong lau khô chân và đi nằm, ủ hai chân thật ấm, có thể dùng túi
chườm nóng nếu cần. Chú ý: Người mắc chứng giãn tĩnh mạch không được làm việc
này.
Thuốc chữa mất ngủ:
+ Dùng hạt sen (30g) và long nhãn (20g) sắc nước uống và ăn cả bã. Hay đơn giản là
hạt sen nấu chè, hoặc hạt sen nấu cháo đường cũng tốt.
+ Dùng tâm sen (10g) nấu với 100 ml nước, để sôi 10 - 15 phút rồi gạn lấy nước
uống 1 lần trước khi đi ngủ. Có thể thêm mật ong, đường cho dễ uống.
+ Dùng lá sim bánh tẻ (20g) rửa sạch sắc với 3 bát nước, còn một bát. UỐng trước
khi đi ngủ. Thêm đường cho dễ uống.
+ Dùng là vông lem tươi (100 - 200g) luộc hay nấu canh ăn hàng ngày vào bữa tối.
Hoặc lá vông lem phới tái (10g) thái nhỏ, sắc uống với 3 bát nước lấy một bát uống
trước khi đi ngủ.
+ Bài thuốc của Hải Thượng Lãn Ông: Sắc long nhãn (50g) với nước. Thái nhỏ cao
Ban Long (40g) cho vào hoà tan. Để nguội cho đông lại, thái thành miếng mỏng.
Ngày uống 20 g chia làm 2 lần trước khi đi ngủ và sáng sớm lúc ngủ dậy. Rất tốt cho
người mới ốm dậy, sinh mất ngủ và cơ thể còn ốm yếu.
Tắm hơi:
Một liệu pháp chữa mất ngủ rất hiệu quả, nhưng nếu dùng thường xuyên thì chu kỳ
ngủ bị rút ngắn, giấc ngủ sâu bị kéo dài thái quá.
Tạo giấc ngủ tự nhiên:
1. Nằm thoải mái, chân tay duỗi, toàn thân thả lỏng. Từ từ nhắm mắt lại.
2. Sau khi nhắm mắt từ từ nắm chặt bàn tay phải khoảng 5 phút rồi lại từ từ buông
lỏng về trạng thái ban đầu. Rồi làm với bàn tay trái cũng y như thế.

3. Tiếp, từ từ gồng các cơ bên phải khoảng 5 phút rồi lại từ từ buông lỏng. Lại làm
với bên chân trái.
4. Động tác cuối cùng là từ từ lên gân, gồng cơ mặt khoảng 5 phút rồi lại từ từ buông
lỏng.
Tập trung hoà nhịp với việc lên gân rồi buông lỏng có cảm giác như quả bóng bị
bơm căng và xì hơi ra. Sau đó ta sẽ thấy hoàn toàn thư thái và khó có thể mở mắt ra
và đi vào giấc ngủ hết sức tự nhiên.
[Theo The Health]
NẰM NGỦ THẾ NÀO
Nên nằm quay đầu về phương bắc để ngủ sâu hơn vì áp lực lên động mạch sẽ giảm
tối đa. Hướng đông cũng được. Hướng tây gây buồn chán. Hướng nam gây căng
thẳng (kết quả nghiên cứu Đại học Berkeley - USA).
Ngủ trong bóng tối ngon giấc hơn. Không ngủ cạnh đèn. Ánh sáng làm tinh thần
bất an. Ngủ ngày thì nên kéo rèm che ánh sáng. Không ngủ há miệng (để tránh gió
lùa phổi bị nhiễm lạnh). Không ngủ nơi gió lùa, không ngủ cạnh bếp lò. Bình thường
thì nên nằm nghiêng, hơi co gối cho tinh khí không phát tán, khi dậy sẽ sảng khoái vì
khí huyết lưu thông.
Khi khó thở (viêm phổi, hen ) nên nằm cao đầu, hai tay vươn cao.
Bị huyết áp tăng: Nên nằm ngửa, gối cao chứng 12 cm. Quá cao hay quá thấp đều
gây khó chịu. Chân nên gác cao cho máu dồn lên đầu tốt hơn, để ngủ nhanh hơn, sâu
hơn và tránh "thiểu năng tuần hoàn não".
Đau dạ dày: Nên nằm nghiêng trái, đừng nghiêng phải vì dịch vị từ dạ dày chảy ra
thực quản, kéo dài sẽ làm dạ dày quặn đau.
Bệnh gan: Kể cả sơ gan cổ chướng: nên nằm nghiêng trái sẽ có lợi cho khôi phục sức
khoẻ.
Giữ sắc đẹp: Nằm ngửa thì tốt hơn.
Nữ có bầu: Không nên nằm ngửa, nên nằm nghiêng về bên trái. Ngay sau khi đẻ thì
nên nằm sấp để máu độc trong người chảy ra hết.
Bệnh tim mạch: Nên nằm nghiêng phải để giảm nhẹ lực đè lên tim. Nếu tim đã yếu
nên nửa nằm nửa ngồi. Không nằm sấp hay nghiêng trái.

Tắc động mạch não: Nằm ngửa là tốt nhất. Nằm nghiêng máu khó lưu thông, đặc biệt
là ở cổ lưu chuyển rất chậm dễ sinh tắc động mạch não.
Thối tai có mủ: Nên kiên trì nằm nghiêng về phía tai đau để bài tiết mủ, rút ngắn thời
gian chữa trị.
NGỦ NGÀY RẤT CẦN CHO NGƯỜI CAO TUỔI
(Kết quả nghiên cứu của các bác sĩ Thuỵ Điển, Hoa Kỳ, Hy Lạp).
Với bất cứ ai sẽ rất lợi nếu ban ngày có được mươi phút nghỉ ngơi, thư giãn. Với
người cao tuổi, lại càng cần có giấc ngủ ngày để bù ngủ đêm chưa đủ, do thói quen
dạy sớm, hay vì già mà ngủ không sâu hoặc dễ thức giấc vì tiếng động, dù nhỏ.
Nhưng không nên ngủ trưa quá dài, chỉ độ một giờ là cùng. Cũng không nên ngủ
ngồi hay ngủ vắt tay lên trán vì như thế không thư giãn được toàn thân.
UỐNG BAO NHIÊU NƯỚC ?
Hẳn các bác và các bạn đều đã từng được khuyên "uống nước ít nhất 2 lít rưỡi
nước" mỗi ngày. Gần đây lại có những thông tin khác hẳn.
Uống thừa nước sẽ làm giảm sinh lực, làm "bần huyết" (máu bị loãng), làm giảm
suất "dưỡng chất" nuôi tế bào. Làm hạ nhiệt trong người, làm người thêm mệt mỏi, vì
buộc phải tốn thêm công đẩy lượng nước thừa đã hoà trong máu đi khắp cơ thể.
Vì vậy chỉ nên uống vừa đủ theo nhu cầu. Lao động chân tay nhiều, trời oi bức, hay
do yêu cẩu riêng của bệnh tật nào đó, thì cần uống nhiều.
Người ít hoạt động mà uổng nhiều thì chỉ có hại, sẽ uể oải, lười nhác, ngại việc, mỏi
lưng, khỏ ngủ, mất ngủ. Máu thừa nước thì hồng cầu dễ bị huỷ hoại, bạch cầu kém
sức đề kháng.
Tuyệt đối không uống tiếp khác, uống "xã giao", uống cho sướng miệng, uống theo
thói quen. Vì "trà ngon thì tức bụng, vợ trẻ thì đau lưng mà". Uống sao cho nam giới
khoẻ mạnh thì ban ngày đi tiểu không quá 3 lần, nữ giới không quá 2 lần. Chỉ tiêu này
hơi khó, nhưng nếu quá là đã có biểu hiện bệnh lý rồi đấy.
Theo "Bí ẩn và Bí quyết sự sống đời người"
của Vũ Trọng Hùng - Ngô Hy. Nxb VHDT,H,2000
"ĂN ĐƯỢC LÀ TIÊN"
Theo tổng hợp của Mai Khanh ở Tri Thức Trẻ

SỐ tết Đinh Hợi - 2007 và theo tài liệu viện dinh dưỡng Bộ y tế
Đối với sức khoẻ và tuổi thọ, RÈN LUYỆN THÂN THỂ và ĂN UỐNG quan trọng
hơn THUỐC THANG. Chữa bệnh bằng ăn uống (ẨM THỰC TRỊ LIỆU) tốt hơn
dùng thuốc hoá dược (hoá trị, xạ trị). Mười thứ thuốc thì đến chín thứ độc, có bệnh thì
mới phải dùng thuốc (suy cho cùng là bất đắc dĩ). Và đã dùng thì phải dùng đúng liều
lượng, giờ giấc, cách thức và theo hướng dẫn của thầy thuốc.
1. NÊN ĂN TẠP: để mạnh khoẻ sống lâu đúng với tiềm năng mà tạo hoá sinh ra
(khoảng 45 ngàn ngày, tức là 125 năm), ta cần ăn tới gần chín chục chất khác nhau
(gồm gần 6 chục vi lượng khoáng, gần hai chục loại vitamin và gần chục loại axit
amin nữa). Vì vậy mỗi ngày nên ăn khoảng mươi, mười lăm loại thực phẩm khác
nhau.
2. NÊN ĂN CHẬM, NHAI THẬT KỸ: Mỗi miếng nhai 30 lân, mỗi bữa ăn 3 phút -
để tận dụng hết các vi lượng có trong thức ăn: bảo vệ não, giảm béo, làm đẹp da,
phòng được ung thư.
3. NÊN ĂN THỰC PHẨM GỐC: Không có nghĩa là tuyệt đối không ăn thực phẩm đã
chế biến chút ít, mà chỉ để cho bộ máy tiêu hoá của ta tránh được các bệnh thực phẩm
thời nay.
4. NÊN ĂN SỚM: Bữa sáng là một bữa chính và ăn sớm để "khai quan trí lực". Bữa
tối ăn nhẹ hơn và ăn sớm để xa giờ đi ngủ, sẽ không bị béo bệu; đêm đến dạ dày và trí
óc đều được nghỉ ngơi.
5. NÊN ĂN NHẠT: Bớt muối (tối đa 10g muối/người/ngày). Bớt mỡ (nên thay bằng
dầu thảo mộc). Bớt đường (dưới 500g đường/người/tháng). Nhưng quả chín thì ăn thả
cửa (có thể bão hoà).
6. NÊN ĂN "ÂM ẤM":ăn quá nóng sẽ không tốt cho tiêu hoá. Để nguội một chút sẽ
trường thọ đó.
7. NÊN ĂN TƯƠI: Làm tươi, ăn tươi, để tận dụng các chất dinh dưỡng trong thực
phẩm, không ăn đồ ăn thừa.
8. NÊN ĂN CÂN ĐỐI: ăn chất béo có mức độ, ăn ít mỡ, mà nên ăn dẩu và lạc vừng.
Ăn chất đạm ở mức vừa phải. Ăn ít đạm nguồn gốc động vật (thịt, trứng, sữa) mà ăn
nhiều cá hơn 3 bữa mỗi tuần. Tăng các món chế biến từ đậu tương (tức đậu nành).

9. TĂNG CƯỜNG ĂN CHẤT XƠ: ăn nhiều rau, củ, quả để vừa có nhiều vitamin và
các vi lượng khoáng, vừa có nhiều chất xơ để quét nhanh ra khỏi hệ tiêu hoá các độc
tố và cholesterol thừa.
10. NÊN ĂN SẠCH: Không bụi bặm, không bị ô nhiễm, không mang vi trùng, vi
khuẩn, mầm bệnh vào người.
11. NÊN ĂN SỐNG: Những thực phẩm nào có thể ăn sống thì nên ăn sống. Nhưng
không ăn "gỏi" , ăn "tái quá nhiều, nhất là với thực phẩm không được tươi.
12. NÊN ĂN THEO CỮ: ăn uống điều độ (không no dồn đói góp), đúng giờ phù hợp
với đồng hồ sinh học của cơ thể.
13. NÊN CHIA NHỎ BỮA ĂN: Sang thế kỷ 21 này, người ta sẽ ăn ngày năm đến sáu
bữa. Ngoài ba bữa chính còn có ba bữa nhỏ lúc 10 giờ, 16 giờ và 20 giờ sẽ có tác
dụng rất tốt. Nó khác với ăn vặt là không có giờ giấc, định lượng, thường tác hại cho
bữa chính.
14. NÊN UỐNG NƯỚC VỪA ĐỦ: Uống theo yêu cẩu từng thể trạng, nếp hoạt động
(chân tay, trí óc, nhiều hay ít), thời tiết (nóng hay lạnh) mà uống nhiều hay ít. Không
uống xã giao, uống tiếp khách, uống theo khoái khẩu. Nên uống xa các bữa ăn. Uống
nhiều nước không phải bao giờ cũng tốt.
15. NÊN UỐNG TRÀ XANH: uống chè tươi để phòng tránh được ung thư, tránh
được đứt mạch não, trị sâu răng và làm chắc răng
*
* Sáu loại đồ uống bảo vệ sức khoẻ là: Trà xanh, vang đỏ, sữa đậu nành, sữa chua,
canh xương, canh nấm.
BỮA ĂN SÁNG RẤT QUAN TRỌNG
ăn sáng giúp ta không gầy đi, không béo lên. Vì khi thức dậy ta đã nhịn 10 đến 12
giờ rồi và đã tốn ít nhất 600 calo cho giấc ngủ và mơ, cho tim đập và máu lưu thông.
[Ngủ tốn 1 calo mỗi phút và nằm mơ tốn 1,5 calo mỗi phút].
Nên chọn món mình thích để ăn ngon miệng và bớt cồn cào lúc gần trưa.
Khi ăn nên vui vẻ, tránh buồn tẻ, nhàm chán. không nên vừa ăn vừa xem tivi.
ăn sáng lý tưởng là có các sản phẩm từ sữa (như sữa chua; phomat; sữa tươi) để có
prôtein, calci, vitamin A; B

2
; D; một ít chất bột (xôi, bánh mỳ,, bánh giò ) để có ít
gluxit, các vitamin nhóm B và các khoáng vi lượng, một ít hoa quả để có vitamin C và
muối khoáng.
Cũng nên thường xuyên thay đổi thực đơn bữa sáng.
BỮA TỐI VỚI BỆNH TẬT VÀ SỨC KHOẺ
Theo tạp chí Bác sỹ gia đình 5 - 2006
Tối ăn nhiều mỡ và prôtein thì dễ béo phì, vì ban đêm chỉ nằm ngủ sẽ thừa năng
lượng. Mặt khác cholesterol dư do cơ thể chuyển hoá không hết sẽ bám vào thành
động mạch sinh ra xơ vữa động mạch và bệnh mạch vành.
Tối ăn nhiều làm tăng lượng đường huyết, kích thích tạo ra insulin, và làm cho
insulin suy thoái sớm, dẫn đến bệnh tiểu đường.
Tối ăn nhiều làm tuyến tuỵ phải làm việc nặng và tăng áp lực bên trong gây tắc
nghẽn ống tuyến tuỵ.
Ăn tối xong đi nằm ngay, làm kéo dài thời gian làm việc của dạ dày, thức ăn ở lại
lâu, khiến dịch vị tiết ra nhiều, gây hưng phấn tế bào thành dạ dày gây viêm loét Rồi
chất thải nằm lâu trong ruột già sinh ra các chất độc hại như amine acidase, amonia
indole một mặt gây kích thích thành ruột, một mặt các chất độc hại hấp thụ vào máu
làm tăng gánh nặng cho gan, thận, lâu ngày dễ sinh ra các ung thư đường ruột.
Tối ăn quá no, hệ tiêu hoá sẽ kích thích thần kinh thực vật, gây hưng phấn theo
phản xạ với vỏ đại não, khiến cho các tế bào tương ứng bị kích hoạt, tạo ra các cơn ác
mộng.
Qua đó ta thấy ăn tối liên quan tới một số bệnh. Vì thế bữa ăn tối nên ăn thanh đạm,
ăn ít, ăn sớm, ăn xong nên đi dạo không nên đi ngủ ngay. Làm được như vậy giảm
được tỷ lệ phát bệnh, lợi cho sức khoẻ và kéo dài tuổi thọ.
PHẠM VĂN TRUNG
NHỮNG ĐIỀU CHÚ Ý KHI ĂN HẢI SẢN
Theo tạp chí sức khoẻ Trung quốc qua Tri Thức Trẻ số tết Đinh Hợi 2007
A. Chọn mua hải sản:
Khi mua hải sản cần dùng cả mắt, cả tay, cả mũi. Trước hết nhìn kỹ xem mắt cá phải

trong suốt, không đục, thân cá phải sáng bóng thì mới là cá tươi. Vỏ tôm phải gắn liền
với thân tôm, thân tôm phải toàn vẹn, sáng bóng. Cá da trơn thì da cũng phải sáng
trong, tự nhiên.
Dùng tay ấn vào thịt tôm cá đều phải chắc, còn đủ tính đàn hồi, chỗ ngón tay ấn vào
không bị lõm, trên mặt thịt thì không chảy dịch, chứng tỏ còn tươi. Ngửi thì thấy mùi
tay tự nhiên của hải sản; nếu có mùi tanh hôi của thịt đang phân hoá thì không nên
mua.
B. Ăn hải sản phải thật vệ sinh:
Lượng mỡ không no có trong cá biển sẽ làm giảm gây tắc động mạch, giảm nguy cơ
mắc các bệnh tim mạch, bệnh tăng huyết áp, hay đứt mạch máu não gây xuất huyết
não (gọi sai là trúng phong) ở người già.
Nhiều người thích ăn sống hải sản: các món gỏi. Cần chú ý là hải sản thường mang
nhiều vi khuẩn nhiễm bệnh. Trước khi ăn nên để hải sản trong môi trường đông lạnh
1,2 giờ đồng hồ rồi ngâm trong nước muối nhạt để diệt khuẩn.
Khi nấu hải sản cần theo dõi chặt chẽ thời gian. Không nên đun lâu quá, không
những khó ăn mà còn làm bớt mất chất đạm, giảm giá trị dinh dưỡng. Cần lưu ý: cá
sống mới giết, không nên nấu ngay, mà nên để 15 phút cho thịt mềm bớt hãy nấu.
Như vậy chất đạm sẽ phân thành "NH
2
" và "-COOH", dễ hấp thụ và có vị thơm ngon,
hợp khẩu vị.
Các loại ngao, ốc, hến trước khi nấu phải rửa thật sạch để loại bỏ các tạp chất. Cần
nấu chín ở nhiệt độ cao trong thời gian ngắn để diệt kỹ vi khuẩn. Hải sản thuộc loại
thực phẩm có tính lạnh, cần nấu với gừng, giấm, cùng các loại gia vị. Gừng có tính
nóng, sẽ trung hoà bớt tính lạnh của hải sản, có tác dụng tốt với cơ thể không hợp đồ
lạnh. Còn giấm có tính sát trùng rất tốt, những vi khuẩn có hại trên hải sản sẽ bị loại
bỏ hết.
C. Mấy điều kiêng kỵ:
Khi ăn hải sản không nên uống bia vì dễ dẫn đến cao huyết niệu,thống phong (gout),
viêm khớp và suy thận. Hải sản cũng không hợp các loại hoa quả chứa nhiều tanin

"C
78
H
53
O
48
" như hồng, nho, nên phải ăn cách nhau khoảng 2 giờ vì tanin sẽ phá huỷ
đạm trong hải sản, làm giảm giá trị dinh dưỡng của hải sản.
Trong dầu cá có nhiều Arsen (As) khi ở hoá trị V thì không độc, nhưng nếu kết hợp
với nhiều lượng vitamin C chuyển thành As hoá trị III (tức thạch tín) thì rất độc. Vì
vậy phải ăn cá trước hay sau 2 giờ mới được uống vitamin C; nhưng có thể ăn với một
lượng rau xanh nhất định (< 500mg). Khi ăn hải sản tốt nhất là tránh ăn với thực
phẩm mang tính lạnh như rau muống, dưa chuột Vừa ăn hải sản xong, không nên ăn
kem, uống nước đá; có thể ăn chút ít nhưng tốt nhất cũng không nên ăn.
D. Ăn nhiều hải sản dễ sinh bệnh:
Hải sản vốn giàu dinh dưỡng nhưng không nên ăn nhiều. ăn nhiều hải sản dễ tổn
thương tỳ vị, dẫn đến các bệnh đường ruột; đau bụng; trướng bụng, dị ứng, nôn, tiết
tả Khi đó nên uống thuốc trị bệnh ngay; nếu nặng sẽ bị trúng độc.
Các loại ngao, ốc có hàm lượng chất ngưng kết rất cao, nên với những người đã có
triệu chứng máu nhiễm mỡ thì nên ăn ít hoặc không ăn. Còn những người đã đau dạ
dày hay có cơ địa dị ứng với hải sản thì cũng nên ăn hải sản một cách có khoa học.
Tuy không nên ăn nhiều hải sản nhưng nên ăn hải sản ít nhất mỗi tuần một lần.
Vì: Cá - đặc biệt cá biển rất giàu mỡ không no N-3 có tác dụng làm mỡ trong máu
giảm, trong khi đó DHA sau khi kết hợp với các chất ngưng kết có thể bảo vệ các
thành mạch máu khỏi đứt, tránh được các bệnh tim mạch và chảy máu não.
Cá biển còn có nhiều đạm, vitamin và các khoáng vi lượng rất cần cho cơ thể. Nếu có
điều kiện nên ăn cá biển hàng ngày, không thì ăn ít nhất tuần một lần.
E. Những người nên ăn ít hải sản:
Vì hải sản ngày càng có hàm lượng thuỷ ngân nhiều hơn, nên phụ nữ có bầu và
đang cho con bú không nên ăn quá bồn lần mỗi tuần (mỗi lần chừng 10g) để tránh ảnh

hưởng tới hệ thần kinh của trẻ sau này (thường đén 7 tuổi thậm chí 14 tuổi mới xuất
hiện ảnh hưởng). Những người bị bệnh gút (thống phong), viêm khớp, huyết niệu
cũng nên ăn ít; vì ăn nhiều hải sản làm bệnh trầm trọng hơn và dễ kết bệnh sỏi đường
niệu.
Mai Khanh
NGƯỜI XƯA ĐÃ TỔNG KẾT
Trích tiểu sử của Phùng Mộng Long (1574 - 1646) tác giả Đông Chu Liệt Quốc
7 HIỆN TƯỢNG KHÁC THƯỜNG Ở NGƯỜI CAO TUỔI
Không ngủ đêm mà ngủ ngày
Không yêu con mà yên cháu
Không nhớ việc mới mà nhớ chuyện xưa
Nhìn gần không rõ mà nhìn rõ ở xa (viễn thị)
Khóc không nước mắt mà cười ra nước mắt
Xưa tóc xanh mà nay tóc bạc
Bị đánh không thấy đau mà không bị đánh lại thấy đau
7 HIỆN TƯỢNG KHÁC NGƯỜI Ở NHÀ QUYỀN QUÝ
Đêm để ngủ thì bày tiệc tùng, sáng đáng dạy thì cứ ngủ khì
Đầu óc cần nghỉ ngơi thì suy tính mãi; thân thể cần vận động thì cứ nằm ì
Không ốm đau thì sính dùng thuốc; lúc có bệnh lại không chịu uống thuốc
Việc người thì tranh lấy mà làm; mà việc mình thì chả chịu làm
Gọi ai thì bắt buộc phải đến; được mời thì chả chịu đi
Mua hàng rởm không sợ đắt; mà sắm đồ quý thì lại tiếc tiền
7 HIỆN TƯỢNG KHÁC THƯỜNG Ở PHỤ NỮ
Không yêu con trưởng mà yêu con thứ
Không thích con trai mà thích con gái
Không tin người mà tin ma quỷ
Tiếc món tiền nhỏ mà chẳng tiếc món tiền lớn
Điều kiêng kị nhất mà miệng cứ tuôn hoài (khi chửi)
Mong được làm mẹ chồng mà lại sợ người ta bảo là già
Khi là mẹ chồng cứ lắp lại việc mà khi là con dâu không muốn mẹ chồng làm.

VỚI SỨC KHOẺ
THÁI ĐỘ SỐNG QUAN TRỌNG HƠN
LUYỆN TẬP VÀ ĂN UỐNG
1. Luôn trầm tĩnh trong mọi sinh hoạt: Nói năng; đi đứng; ăn uống và cả trong suy
nghĩ. Ngay cả khi bất ngờ rơi vào tình thế khó chịu, cũng bình tĩnh giải quyết, tránh
nôn nóng, lo lắng, trăn trở, bứt rứt.
2. Cần biết cách thích nghi, tích cực tự điều chỉnh trước mọi thay đổi. Không thụ động
và cần tỉnh táo biết phục thiện, biết chấp nhận khách quan không theo ý muốn của ta.
3. Nên cởi mở thổ lộ, tâm sự với bạn bè, chia sẻ cùng người thân khi buồn bực, đau
khổ, khó chịu Nói ra sẽ lấy lại được cân bằng, tĩnh trí. Chớ để cảm xúc bị dồn nén
kéo dài dễ đau đầu mỏi lưng, nhức khớp. Cũng không nên nói nhiều, nói đi, nói lại trở
thành oán thán, phàn nàn, bất mãn, bi quan tự gây thêm bực bội, căng thẳng - hại
cho sức khoẻ.
4. Cần có công việc thiết thực hàng ngày, phù hợp khả năng và sức khoẻ. Sẵn sàng
bận rộn với việc tốt, điều lành; gánh vác trách nhiệm góp phần tích cực, thắt chặt hữu
hảo với xung quanh. Vẫn dành say mê, cuốn hút cho sở thích lành mạnh của mình.
5. Tránh cô đơn, trầm lặng, uể oải. Dù là việc bình thường quen thuộc cũng luôn luôn
cố gắng làm tốt hơn lên. Nếu có bạn cùng làm thì hưng phấn càng gia tăng.
6. Cần giảm thiểu lo lắng, ưu phiền. Tránh các chuyện xa xôi, chê trách, bất bình
những chuyện không đâu.
Suy cho cùng đây cũng là nhân cách, là bản lĩnh để sống khoẻ, sống có ích.
17 TÁC DỤNG CỦA CHUỔI
Theo Manbuhay 12-2006 qua Tri Thức Trẻ số tết Đinh Hợi 2007.
1. Thêm năng lượng cho cơ thể: Trong chuối có tới ba loại đường: sucroza;
fructoza; glucoza. Chỉ cần ăn 2 quả chuối là đủ năng lượng cho có thể làm việc 90
phút. Chuối là thực phẩm đầu bảng cho vận động viên điền kinh thế giới hiện nay.
2. Tăng minh mẫn cho trí não: Trong chuối có nhiều kali, rất có ích cho bộ não,
tăng trí nhớ và minh mẫn cho lao động trí óc.
3. Chữa trầm cảm: Trong chuối có trytophan sẽ chuyển hoá thành serôtonin giúp
thoải mái và dễ chịu.

4. Trị thiếu máu: Trong chuối có nhiều hàm lượng sắt nên kích thích cơ thể sản
sinh nhiều huyết cẩu tố (hêmoglobin).
5. Giảm huyết áp tăng: Hàm lượng kali trong chuối cao mà hàm lượng muối lại
thấp nên ăn chuối đều đặn giúp cơ thể giảm rủi ro của bệnh huyết áp tăng.
6. Giúp nhuận tràng: Chuối có nhiều chất xơ nên rất tốt trong hồi lưu tiêu hoá,
tránh được táo bón, không cần uống thuốc nhuận tràng.
7. Giã rượu: kinh nghiệm dân gian, chữa khó chịu sau khi uống nhiều rượu bằng
nước chuối ép, hay chuối nghiền nhừ trộn mật ong thì sẽ phục hồi lượng đường
trong máu và không cảm thấy khó chịu nữa.
8. Giảm ợ chua: Trong chuối có hợp chất kháng axit nên có tác dụng giảm thiểu ợ
chua (heartburn), nếu mắc chứng này nên ăn ngày 1 -2 quả chuối.
9. Giảm thiểu triệu chứng PMS: PMS (PreMenstrual Syndrome) là bệnh phụ nữ
sau khi mãn kinh, thường biểu hiện: tăng cân, người nóng bừng, bồn chồn
Chuối có nhiều vitamin B6 nên ăn chuối đều sẽ giúp giảm thiểu các triệu chứng
của bệnh PMS này.
10. Ngừa nôn nghén: ăn chuối đều giữa các bữa cơm chính có tác dụng làm giảm
được chứng nôn nghén.
11. Tránh đột quỵ: ăn chuối thường xuyên giảm được 40% nguy cơ đột quỵ.
12. Chữa rối loạn tiêu hoá: Chuối là thực phẩm dễ tiêu, trung hoà được lượng axit
dư trong dạ dày, nên chữa được rối loạn tiêu hoá và tạo ra một lớp lót bảo vệ bên
trong thành dạ dày, phòng chống các u xơ.
13. Điều tiết nước trong cơ thể: Kali là vi lượng chính của chuối, có tác dụng giảm
nhịp tim, tăng cường oxi lên não và điều tiết cân bằng nước của cơ thể.
14. Giúp dễ bỏ thuốc lá: Trong chuối có nhiều vitamin B6 và B12, kali và magie
những chất giúp ta dễ dàng đoạn tuyệt được cám dỗ của nicotin.
15. Điều chỉnh thân nhiệt: ăn chuối rất tốt với phụ nữ có bầu, giúp giảm thân nhiệt.
Phụ nữ có bầu Thái Lan rất chịu khó ăn chuối, tin là con sinh ra sẽ mát tính, và dễ
nuôi.
16. Bôi chỗ muỗi đốt: Dùng mặt trong vỏ chuối sát vào chỗ muỗi đốt để chống sưng
và ngứa rất hiệu quả.

17. Chữa mụn cóc: Lấy một miếng nhỏ vỏ chuối đắp lên mụn cóc, chú ý vỏ trơn
vàng quay ra ngoài. Dùng băng y học dán bên ngoài. Làm nhiều lần sẽ hiệu quả.
LỜI KHUYÊN DÀNH CHO NGƯỜI CAO HUYẾT ÁP
Theo BỆNH HỌC BÁCH KHOA THƯ
* Nên bớt lượng muối, ăn ít hơn bình thường.
* Người béo cần hạn chế ăn để giảm cân
* Không nên uống bia, uống rượu, cần bỏ hút thuốc lá, vì nicotin trong thuốc lá làm
co mạch ngoại biên.
* Tránh bị căng thẳng.
* Đảm bảo cho giấc ngủ vì khi ngủ huyết áp được hạ thấp.
Theo Lancet - từ KIẾN THỨC GIA ĐÌNH số 159
Theo y học hiện đại huyết áp tăng là chứng bệnh không thể chữa dứt và nên phòng
ngừa sự phát tác của nó. Thật ra huyết áp tăng là biểu hiện của một bệnh nào đó, mà
nhiều khi chẳng dễ tìm ra bệnh gốc (bổ sung của biên tập). Nhưng dù tìm ra bệnh gốc
hay chưa vẫn cần tuân thủ:
1. Không nên lạm dụng thuốc giảm huyết áp. Bất đắc dĩ mới dùng thuốc giảm
huyết áp. Mà nên thường xuyên ngồi hay nằm với hai chân duỗi thẳng.
2. Cần có một thời gian biểu hàng ngày để làm việc và nghỉ ngơi hợp lý, cân đối.
3. Mỗi ngày cần ngủ ít nhất 5 đến 7 giờ. Khi nghỉ ngơi nên tranh thủ ngả lưng để
cho máu lưu thông đều.
4. Sáng dậy, trước khi rời khỏi giường, tập ngồi lên nằm xuống với hai chân duỗi
thẳng chừng 10 lần. Nên tập thong thả, nhịp nhàng, không tập những động tác
nặng.
5. Sau đó, khi bụng còn đói nên uống chừng nửa lít nước tinh khiết để trong tủ
lạnh, rồi mới ăn điểm tâm hay làm gì. Chính nửa lít nước này làm cho máu lưu
thông tốt hơn.
6. Giữa buổi làm việc nên có những khoảng nghỉ ngơi 15 đến 20 phút. Nên ngả
lưng duỗi thẳng hai chân. Nếu phải ngồi làm việc một chỗ quá lâu, mên tranh
thủ đứng dạy, đi tản bộ 5 - 10 phút mỗi ngảy 2 lần.
7. Sau một ngày làm việc căng thẳng, nên tranh thủ nằm nghỉ trước khi ăn uống

hay vui chơi, giải trí.
8. Không nên ăn đứng. Nên ngồi đàng hoàng, ăn xong dù bận gấp cũng tranh thủ
nằm nghỉ hay ngồi duỗi thẳng hai chân 15 hay 30 phút rồi mới làm việc tiếp.
Chỉ làm việc thư thả, ung dung; không nên hối hả căng thẳng.
9. Đi tản bộ buổi sáng hoặc buổi tối là cần thiết. Nhưng sau đó cần ngồi duỗi
thẳng hai chân hoặc nằm nghỉ 15 - 30 phút.
10. Trưa dù bận đến đâu cũng nên nằm ngủ độ nửa giờ. Giấc ngủ trưa sẽ giúp cho
huyết áp ổn định. Khi đi ngủ, nên gác chân lên cao cho máu dồn về đầu để ngủ
được nhanh hơn và sâu hơn.
TRỊ HUYẾT ÁP TĂNG BẰNG
TỎI VÀ ĐẬU TRẮNG
Nguyên liệu: 100 gam tỏi ta + đậu trắng (loại đậu màu trắng hạt to hơn đậu đen một
chút) + 2 lít nước.
Chế biến và dùng: Tỏi bóc vỏ, đậu vo sạch, cho cả vào 2 lít nước, ninh nhừ cho đến
khi còn 1/8 lượng ban đầu (tức là còn 250 ml) thì chắt lấy nước uống, uống hết một
lần; có thể ăn luôn cả hạt đậu.
Mỗi tháng làm một lần thật đều.
MÓN ĂN
CHUỐI TIÊU, LẠC NHÂN, DƯA CHUỘT, RAU CẦN
Chữa trị huyết áp tăng
CHUỐI TIÊU: Đầu những năm 1980, các chuyên gia y học Anh - Mỹ tình cờ phát
hiện ra ưu việt của chuối tiêu, chứa nhiều loại vitamin, có lượng đường thiên nhiên rất
tốt, có hàm lượng natri rất thấp, không chứa cholesterol, nên ăn chuối tiêu sẽ không
gây béo, và vì có nhiều ion Kali nên có khả năng làm giảm huyết áp. Người mắc
chứng huyết áp tăng nên ăn nhiều chuối tiêu.
LẠC NHÂN: còn nguyên vỏ lụa màu đỏ ngâm ngập trong giấm một tuần là được.
Mỗi tối, trước khi đi ngủ nhai nát từ 3 đến 5 hạt rồi nuốt. Hai tuần là một liệu trình.
Thường chỉ một liệu trình là hiệu quả. Nếu dùng trong một thời gian dài cũng không
gây ra tác dụng phụ.
DƯA CHUỘT: tươi, 100g rửa sạch, thái lát sắc với nước uống, ngày một lần vào

buổi sáng, liên tục trong một tuần rồi dừng 3 ngày.
RAU CẦN: một bó chừng 250 gam, rửa sạch, nhúng vào nước sôi khoảng hai phút
(nhúng tái) cắt nhỏ, giã nát, vắt lấy nước cốt, mỗi lần uống một cốc nhỏ, ngảy uống
hai lần, có tác dụng hạ huyết áp.
Hoàng V ăn Lễ
LỜI KHUYÊN DÀNH CHO NGƯỜI TIỂU ĐƯỜNG
Theo "PHARMACY GUIDE" cẩm nang dược khoa
- Cố gắng giảm cân nặng nếu quá cân.
- Thể dục thường xuyên để giúp insulin làm việc tốt và giảm đường huyết. Thể
dục tốt cũng giúp giảm cân. Nên ăn nhẹ trước buổi tập để tránh bị hạ đường
huyết quá do tập luyện.
- Cố giữ vệ sinh cá nhân tốt. Luôn tự kiểm tra xem có vết thương hoặc nhiễm
trùng nào chưa lành hay không ?
- Theo dõi thường xuyên đường huyết và đường niệu thường quy.
- Giảm lượng thức ăn giàu glucid. Không ăn kẹo, socola, không uống nước ngọt,
ăn ít cơm và chất bột. Dùng các loại đường dành riêng cho người bệnh tiểu
đường.
- Tránh thức ăn giàu chất béo, giàu cholesterol và các chế phẩm từ sữa có hàm
lượng lipid cao, lòng đỏ trứng, bơ
CÂN NẶNG HỢP LÝ
Có ba cách xác định cân nặng hợp lý
a, Cách tính của WHO (Tổ chức y tế thế giới):
Kg nặng hợp lý = 20 ~ 23 * bình phương chiều cao (mét).
b, Cách tính đơn giản:
Kg nặng hợp lý = 90% của [chiều cao (cm) - 100]
c, Cách tính đơn giản nhất:
Kg nặng hợp lý = chiều cao (cm) - 105
Cụ thể:
Chiều cao (mét) Cân nặng hợp lý (Kg)
Theo cách a Theo b Theo c

1m45 42 kg đến 48 kg4 40kg5 40kg
1m50 45 đến 51,8 45 45
1m55 48,5 đến 55,3 49,5 50
1m60 51,2 đến 58,9 54 55
16m65 54,5 đến 62,6 58,5 60
1m70 57,8 đến 68,5 63 65
1m75 61,2 đến 70,4 67,5 70
Số 20 - 23 được gọi là chỉ số khối lượng cơ thể - thứ nguyên là kg/m
2
- nhỏ hơn 20
là người gầy ốm, lớn hơn 23 là người béo bệu.
LỜI KHUYÊN CHO NGƯỜI BÉO BỆU
Theo PHARMACY GUIDE cẩm nang dược khoa
- Để giảm cân phải có động cơ đúng và có quyết tâm cao: ăn uống thật khoa học
và kiên nhẫn tập thể dục hàng ngày.
- Về tâm lý: không nên quá lo lắng. Khi lo lắng thường thiếu tự tin, tự làm khổ
mình và dễ ăn vặt trở lại - chắc chắn sẽ thất bại. Cũng cần tránh bị căng thẳng.
Stress dễ tạo thèm ngọt. Hãy cố giải toả bằng cách khác, đừng dùng cách ăn
uống.
- Ngủ đủ và điều độ.
- Bỏ rượu, bia, thuốc lá.
- Tăng cường vận động thân thể
- Cần kiểm soát chặt chẽ chế độ ăn uống:
+ ăn thật ít chất béo và của ngọt như bơ, kem, mứt, socola, đường. Bỏ hết mỡ,
không ăn da gia cầm.
+ Giảm các chất giầu đạm như: lòng đỏ trứng, thịt bò, thịt heo. Nên sử dụng các sản
phẩm từ sữa đã loại chất béo như: sữa chua; sữa không kem.
+ ăn nhiều rau quả, măng, cà, Nên dùng ngũ cốc dưới dạng nguyên chất.
+ nên thay chiên, rán bằng luộc, hấp. Dùng dầu thực vật thay mỡ khi xào, nấu.
+ Uống nhiều nước.

+ Không ăn tối quá muộn trước khi đi ngủ.
+ Nên ăn sáng đầy đủ.
Trong bài nói chuyện "Bí quyết mạnh khoẻ và sống lâu" Giáo sư Tổ chức Y tế thế
giới WTO Tề Quốc Lực khuyên ta nên thường xuyên ăn bí đỏ (còn gọi là bí ngô, bí ử)
và mướp đắng (khổ qua). Mướp đắng ăn hơi đắng nhưng giúp tiết ra insulin để tránh
được bệnh tiểu đường. Gần đây, báo " Người Hà Nội cuối tuần" số 31 có hai tin đáng
lưu ý:
ĂN MƯỚP ĐẮNG - GIẢM BÉO BỆU
Đài Truyền hình Trung ương Trung Quốc đưa tin có một bộ phận nhân dân Trung
Quốc dù ăn nhiều thế nào cũng không bị béo bệu, thân thể vẫn thon thả, làn da láng
mịn săn chắc. Các bác sĩ của chương trình Sức khỏe và đời sống của Đài đã tìm ra bí
quyết: Mỗi ngày họ đều ăn vài ba quả mướp đắng. Một người kể, trước đây cô cân
nặng tới 87 kg. Lại còn bị huyết áp cao, tiểu đường, máu nhiễm mỡ, xơ cứng động
mạch. Nhưng chỉ sau một năm kiên trì ăn mướp đắng đều hàng ngày trọng lượng cơ
thể giảm xuống còn 48 kg và các bệnh kể trên cũng biến hết.
ĂN KIÊNG - TỆ HẠI
Nhiều phụ nữ đã phải trả giá quá đắt cho việc ăn kiêng giảm cân. Sau một tháng
nhịn ăn khổ sở, giảm lượng các bữa chính các số đo chẳng giảm được là bao, nhưng
da sạm, tóc gãy rụng, khả năng miễn dịch kém đi nên dễ bị cảm cúm, stress không
biết bao giờ mới khắc phục được. Đặc biệt với phụ nữ ở tuổi trung niên, việc ăn kiêng
kéo dài còn đe doạ đẩy nhanh nguy cơ loãng xương, hạ đường huyết, tăng trầm cảm.
CÁCH UỐNG RƯỢU ĐỀ PHÒNG NGỪA BỆNH TIM MẠCH
Uống trà xanh giúp phòng ngừa bệnh ung thư, trị sâu răng, diệt khuẩn, làm chắc
răng và tăng độ bền của huyết quản (ngừa được xuất huyết não do đứt huyết quản, còn
gọi là tai biến mạch não.
Uống vang đỏ có tác dụng chống lão suy, hạ huyết áp, giảm mỡ máu. Không uống
được vang đỏ thì ăn nho đỏ đều đặn, thường xuyên cũng tốt, nhưng nhớ ăn cả vỏ. Các
chất có ích đều nằm ở lớp vỏ.
Gần đây đài BBC đưa tin: Các nhà khoa học của Viện Y Tế Cộng Đồng Đan Mạch
sau khi nghiên cứu 5 vạn người ở độ tuổi 50 đến 60 đã đi đến kết luận:

Với đàn ông, so với nhóm rất ít uống rượu thì nhóm uống rượu mỗi ngày một lần
giảm nguy cơ mắc các bệnh tim mạch tới gần 50%; những người một tuần mới uống
một lần thì chỉ giảm được 7%.
Với phụ nữ chỉ cần uống mỗi tuần một lần đã giảm được nguy cơ mắc bệnh tim
mạch tới 36%. Và nếu họ uống hàng ngày thì nguy cơ mắc bệnh không thay đổi.
Đông y chúng ta từ lâu đã khẳng định: "Thông tất bất thống. Bất thông tất thống".
Máu chảy đều thì không đau yếu. Tắc hay tuần hoàn kém tất đau yếu. Và xoa bóp và
vận động thể dục thể thao cũng là để cho máu tuần hoàn tốt nhất.
Khi uống rượu mặt và toàn thân đều đỏ lên chính là vì máu lưu thông mạnh hơn, các
đường huyết mạch được "xúc rửa" khỏi xơ vữa bám quanh đường ống.
Vận động đều đặn là tốt nhất. Để cáu bẩn rồi mới xúc mạng, có khi lại gây tắc
nghẽn - đây là trường hợp đột quỵ ở nhiều người cao tuổi.
THƯỜNG XUYÊN VẬN ĐỘNG CÓ LỢI CHO BỘ NÃO
Tiến sĩ Arthur F.Kramer và các nhà tâm lý học thuộc đại học ILLinois (Mỹ Quốc)
đã nghiên cứu não bộ của 155 người trong độ tuổi 56 đến 70. Họ nhận thấy những
người thường xuyên vận động luyện tập thể lực, sẽ ít bị mất chất xám và chất trắng ở
não bộ hơn. Vùng não có được lợi ích nhiều nhất từ vận động thể lực cũng chính là
vùng não thường bị suy yếu ở tuổi về già. Ngoài ra ở những người thường xuyên vận
động thể tích não bộ của họ cũng giảm sút ít hơn so với nhóm ít chịu vận động thân
thể. Người ta sau tuổi 30 những mô này dễ dàng bị teo lại và nhận thức thì ngày càng
suy giảm.
LỜI KHUYÊN CHO NGƯỜI BỆNH XƯƠNG KHỚP
Theo PHARMACY GUIDE cẩm nang dược khoa
Tập thể dục đều đặn, không tập các động tác gây đau hay sưng khớp.
Chườm nóng hay lạnh có thể giúp giảm đau . Tắm nước nóng cũng làm giảm đau
do thư giãn các cơ.
Béo và thừa cân sẽ tăng áp lực lên các khớp, tăng nguy cơ đau khớp gối, thắt lưng
và khớp hông. Cho nên cần duy trì cân nặng ở mức hợp lý.
Một trong các nguyên nhân gây viêm khớp là do tư thé sai khi làm việc hay lýc
khiêng vác vật nặng đi chạy. Vì vậy cần tránh bắt các khớp làm việc quá mức, nên

ngồi, đứng, đi, chạy đúng tư thế và sau đó nghỉ ngơi cho tốt.
Theo một chế độ ăn hợp lý và cân bằng. Đối với người bị bệnh gút là một bệnh
khớp do rối loạn chuyển hoá purin, chỉ nên ăn các thực phẩm ít purin, tránh rượu, bia,
cá mòi, trứng, cá, lòng gia súc, nấm, là mầm gây ra ứ đọng axit uric ở khớp -
nguyên nhân của bệnh gút. Nên uống nhiều nước để giúp ngăn ngừa việc tạo ra các
tinh thể axit uric tại khớp.
BỆNH NHÂN GÚT
NÊN LÀM VÀ NÊN TRÁNH
Bệnh gút (gout - thống phong) là một bệnh khớp, do rối loạn chuyển hoá purin.
Thường khởi đầu bằng viêm một khớp ở chân, đặc biệt hay gặp ở ngón chân cái:
sưng nóng, đau đột ngột, dữ dội và có thể tự khỏi sau 3 - 7 ngày.
Nhưng thường diễn tiến kéo dài. Hậu quả là các đợt viêm khớp cấp, gây các u cục,
sỏi thận, suy thận. Cần được điều trị liên tục để tránh tái phát. Người bệnh cần chủ
động tuân thủ hưỡng dẫn của thầy thuốc chuyên khoa, phối hợp với nền nếp ăn uống
và sinh hoạt hợp lý:
1. Nền nếp ăn uống:Hạn chế các món ăn giàu đạm, chứa nhiều axit nhân tế bào như
tim, gan, thận, óc, trứng lộn, các trích, cá đối, Không cần kiêng tuyệt đối cua, sò, ốc,
hến, cá nước ngọt, cá biển, đạm thực vật miễn sao lượng đạm từ các thức ăn đó
không vươt quá nhu cầu 1 gam đạm cho 1 kg cân nặng mỗi ngày.
Không uống rượu, hạn chế uống bia. Tăng cường ăn rau xanh, uống nhiều nước,
uống các loại nước khoáng có gas (bicacbonate) vì sẽ kiềm hoá nước tiểu và thuận lợi
cho việc thải bớt axit uric ra ngoài.
2. Nền nếp sinh hoạt: Ngâm chân nước ấm hàng tối là tốt, có thể làm thường xuyên,
nhưng đừng nóng quá và không ngâm lúc đang viêm cấp. Tắm sông, tắm biển là tốt,
nhưng tránh dầm mưa lạnh hoặc để bị lạnh đột ngột. Tránh gắng sức, tránh căng
thẳng, tránh thức khuya quá. Cần vận động thường xuyên vừa sức. Khi bệnh chuyển
sang mãn tính cần thường xuyên tập luyện kết hợp với vật lý trị liệu để tránh teo cơ,
cứng khớp.
3. Chế độ thuốc men: Phải theo đúng hướng dẫn của bác sĩ. Chỉ dùng thuốc giảm đau
kháng viêm khi có cơn viêm, dùng càng ít càng tốt. Thuốc chữa bệnh (để giảm uric

trong máu, để tăng bài tiết uric) thì phải dùng lâu dài, liên tục, không ngắt quãng.
Kết luận: Ở nước ta, bệnh gút ngày càng trở nên phổ biến. Cần cảnh giác với các hiện
tượng sưng đau đột ngột bất thường ở ngón chân, bàn chân, cổ chân. Khi có bệnh cần
tới bác sĩ chuyên khoa sớm để được điều trị kịp thời. Lúc đầu tưởng có thể khỏi hẳn
trong lâu dài, nhưng các rối loạn bên trong thì không thể khỏi và trước sau thế nào
cũng tái xuất hiện và nặng dần lên. Phát hiện sớm điều trị đúng và sinh hoạt phù hợp
có ý nghĩa quan trọng để kiểm soát và phòng ngừa bệnh, tránh các hậu quả xấu ở
khớp, ở thận và ở các cơ quan liên quan, đặc biệt là tim mạch.
Theo Tiến sĩ Bác sĩ Lê Anh Thư
LỜI KHUYÊN DÀNH CHO NGƯỜI BỊ MỆT MỎI
Theo PHARMACY GUIDE cẩm nang dược khoa
Cần ăn uống điều độ tránh no dồn, đói góp.
Có thời gian biểu hàng ngày, làm việc, nghỉ ngơi hợp lý.
Ngủ đủ, tuỳ mỗi người mà ngủ từ 6 đến 10 giờ mỗi ngày. Khi dạy thấy khoẻ khoắn và
có thể làm việc bình thường là đã ngủ đủ. Nếu ngủ ngày mà ban đêm thấy khó ngủ thì
nên bỏ ngủ ngày. Bỏ những thói quen xấu như hút thuốc lá, uống trà đặc, uống nhiều
cà phê. Tránh dùng thuốc ngủ và rượu vì thường gây nghiện.
Tập thể dục đều đặn (Với người nhiều tuổi nên tập vẩy tay Đạt Ma Dịch Cân Kinh).
Có nghỉ ngơi và thư giãn như: thở sâu, tự xoa bóp, hay tẩm quất, thư giãn cơ bắp (có
kỹ thuật), thiền (thiền là cách thư giãn tốt nhất). Nên có các thú vui chơi, thể thao
thích hợp, giải trí, giao tiếp với bạn bè. Thỉnh thoảng nên thay đổi công việc hàng
ngày để tránh đơn điệu thường làm ta mệt mỏi tinh thần.
BA CÁCH THƯ GIÃN
Khi mệt mỏi và căng thẳng
1. Hít thở sâu và đều:
Đây là cách thư giãn cực kỳ đơn giản và rất hiệu quả - nhưng không phải ai cũng đã
làm đúng cách. Phần lớn chúng ta thường mắc sai lầm là thở ngắn và hơi thở quá
nhanh. Tệ hại là không tận dụng hết dung tích của phổi, vì đã thót bụng lại khi hít vào
(ép phổi lại) và phình bụng ra lúc thở ra (làm cho không khí không thoát ra hết).
Khi thở hãy nhẹ nhàng kéo dài hơi thở khi hít vào, cùng với việc phình bụng ra cho

phổi giãn nở hết cỡ. Sau đó nín thở một tí, cho máu thải hết thán khí (CO
2
) ra không
khí đồng thời hút được nhiều dưỡng khí (oxi) từ không khí vào máu. Lúc thở ra cần
thót bụng lại để ép phổi sẹp lại nhỏ nhất, và đẩy hết không khí chứa nhiều thán khí ra
ngoài.
Ghi chú: Người ta khi ngoài tuổi 40 dung tích phổi thường bắt đầu giảm, có khi chỉ
còn 60% so với tuổi 20 - 30. Vì vậy càng cần chú ý cách thở, tạm gọi là thở "bụng".
Chính cách thở bụng như trên đã giúp nhà văn hoá - bác sĩ Nguyễn Khắc Viện bị bệnh
lao từ tuổi 30 đã bị cắt bỏ hẳn một lá phổi và 1/3 lá còn lại thế mà vẫn trường thọ đến
ngoài 85 tuổi. Tất nhiên bụng hơi to, không đẹp trai bằng các lực sĩ Athenes cổ Hy
Lạp. Cách thở "ngực" chỉ có tác dụng tôn vẻ đẹp của các chàng trai nhưng không tận
dụng hết dung tích phổi mà tạo hoá đã cấu tạo cho con người.
Đức Phật Di Lặc điển hình về bụng to của Phương Đông, vẫn cười to thật thoải mái
vì rất khoẻ mạnh và hạnh phúc nữa.
2. Tự xoa bóp - mát xa (massage):

×