Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Giáo trình chứng khoán-thế nào là người đầu tư chứng khoán đúng nghĩa p5 docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (182.41 KB, 10 trang )

thác không chuyển nhượng được non-negotiable CDs, loại này không khống
chế thời hiệu đáo hạn tối đa, có thể 10 năm hoặc hơn.
Các CDs ngắn hạn, chuyển nhượng được, được mua đi bán lại trên thị
trường thứ cấp trước thời gian đáo hạn. Chỉ có các "negotiable CD" mới
được xem là công cụ của thị trường tiền tệ.
Các khoản tài trợ nóng FEDERAL FUNDS HAY FED FUNDS
Các khoản tài trợ nóng là các vay mượn qua đêm giữa những ngân hàng
thương mại với nhau, chủ yếu được thực hiện để đáp ứng yêu cầu về mức dự
trữ do ngân hàng trung ương quy định. Một ngân hàng có mức dự trữ cân
đối vượt tạm thời theo quy định có thể cho một ngân hàng trong hệ thống bị
hụt dự trữ tạm thời vay nóng. Điều này cho phép ngân hàng có dự trữ cân
đối dôi lên có thêm cửa để kiếm lời trên các khoản tiền xem như "đang ngủ
qua đêm" của họ. Lãi suất áp dụng trên những món nợ qua đêm này được
gọi là lãi suất huy động nóng tiếng Mỹ gọi thông dụng là Fed funds rate -
phát xuất từ sự điều chuyển nội bộ các khoản cân đối vay mượn "tình thế"
giữa các ngân hàng thành viên để trám kín thâm hụt kỹ thuật trên các tài
khoản dự trữ bắt buộc theo luật tại Ngân Hàng Dự Trữ Liên Bang - viết tắt là
Fed. Lãi suất này biến động theo tình hình kinh tế tài chính trên thị trường
mỗi ngày và là một dấu hiệu báo động các biến chuyển lãi suất có thể xảy ra.
Sở dĩ có điều này vì thực tế nó phản ánh khả năng sẵn sàng đáp ứng của các
nguồn vốn trong hệ thống tới đâu.
Với khảo sát trên đây từ một thị trường tài chính đã phát triển cao, ta thấy
những công cụ vốn ngắn hạn đã đóng góp tích cực thế nào vào ý nghĩa huyết
mạch của thị trường tiền tệ, đồng thời có thể hình dung khả năng vận động
"tối đa công suất" của các nguồn tài chính sẽ có tầm quan trọng ra sao đối
với sự phát triển của từng doanh nghiệp, cũng như của cả một nền kinh tế.
Giao dịch song hành trong Thị trường Tài chính và TTCK
Một trong những chiến lược rất đặc trưng trong thị trường tài chính nói
chung và thị trường chứng khoán nói riêng là giao dịch song hành arbitrage
trading. Mặc dù ở ta hoạt động này vẫn còn xa lạ, thậm chí về thuật ngữ
cũng chưa được biết đến nhiều. Nhưng từ lâu, và nhất là trong các cơn dậy


sóng của thị trường tài chính thế giới trong quá khứ, các hoạt động arbitrage
là những công cụ tài chính được sử dụng rất phổ biến và lợi hại tại những
nền kinh tế thị trường có hệ thống tài chính chuyên sâu và đa dạng. Tuy
nhiên, xét về bản chất, cách mua bán này không có gì mới lạ và thoạt nhìn
tưởng rất đơn giản.
Giao dịch mua bán song hành là chiến lược được các nhà kinh doanh chuyên
nghiệp các arbitrageurs thực hiện để kiếm lợi từ những khác biệt tạm thời về
giá cả giữa hai thị trường, hai loại chứng khoán, hoặc kết hợp. Có một số
phương thức giao dịch theo cách mua bán song hành đã trở thành đặc trưng
và đi vào truyền thống, nhưng tổng quát mà nói, những nhà kinh doanh song
hành chuyên nghiệp thường tìm cách kiếm lợi dựa trên những sai biệt bất
thường về giá đối với một loại chứng khoán hay giữa các chứng khoán
tương đương giá trị với nhau. Những loại giao dịch song hành sau đây
thường được các thị trường tài chính trên thế giới sử dụng:
Song hành thị trường
Đôi khi cùng một chứng khoán nhưng được giao dịch tại hai thị trường trên
hai sàn giao dịch khác nhau. Điều này cho khả năng rằng chứng khoán giao
dịch trên hai thị trường cùng thời điểm có thể sẽ có hai giá khác nhau. Khi
điều đó xảy ra thật và các arbitrageur “đánh hơi" được, họ sẽ mua vào nơi thị
trường có giá rẻ hơn và bán ra tại một thị trường khác có giá cao hơn, loại
hoạt động này được giới chuyên môn gọi là song hành thị trường market
arbitrage. Hoạt động song hành thị trường kiếm lợi khá chắc chắn và cần
thiết, vì nó cũng giúp điều hoà thị trường một cách nhanh chóng.
Song hành chứng khoán chuyển đổi
Giao dịch song hành cũng có khả năng được thực hiện đối với các loại
chứng khoán tương đương đối với các công cụ huy động vốn có thể chuyển
đổi, chẳng hạn các trái phiếu chuyển đổi và loại chứng khoán làm cơ sở cho
việc chuyển đổi đó. Nếu điều kiện thị trường được tiên liệu đúng, một người
theo chiến lược song hành có thể kết hợp việc đổi các trái phiếu ra cổ phần
thường, đồng thời bán lượng cổ phần thường đó để kiếm lời từ chênh lệch.

Hoạt động mua bán song hành chứng khoán chuyển đổi convertible security
arbitrage yêu cầu người đầu tư có sự xét đoán tinh tế hơn kiểu song hành thị
trường.
Song hành mạo hiểm
Giao dịch song hành mạo hiểm risk arbitrage có thể được xem là loại giao
dịch hấp dẫn trong các diễn tiến thâu tóm doanh nghiệp take over đang diễn
ra. Các arbitrageurs ra tay mua cổ phần của công ty đang bị săn bắt being
acquired company và đồng thời bán non sell short cổ phần của công ty chủ
động việc thâu tóm đó acquiring company. Người theo đuổi các giao dịch
song hành kiểu này tin rằng việc sáp nhập công ty sẽ làm tăng giá cổ phần
của công ty bị thâu tóm, đồng thời cổ phần của công ty chủ động việc thâu
tóm - do đã ở mức cao trong quá trình diễn ra sự kiện đó - sẽ giảm lại sau
khi việc sáp nhập thành hiện thực. Hoạt động mua bán song hành mạo hiểm
là hoạt động kinh doanh nhiều rủi ro. Tình huống rủi ro đáng ngại nhất là khi
sự thu xếp sáp nhập không thành. Ta có thể nhớ lại trường hợp thua lỗ của
công ty Long Term Capital Management LTCM hồi năm 1998, khi họ mua
cổ phần của công ty Ciena giá 90USD do nghĩ rằng Ciena sẽ được sáp nhập
vào Tellabs. Nhưng điều đó đã không xảy ra, và ngay sau khi việc sáp nhập
không thành, giá cổ phần của Ciena đã rớt bịch xuống chỉ còn 13USD!
Một ví dụ, công ty A có thể đưa ra một đề xuất để thâu tóm công ty B, bằng
cách trao đổi một cổ phần của công ty A bằng hai cổ phần công ty B. Nếu cổ
phần của công ty A đang giao dịch với giá 200.000đ và cổ phần của công ty
B giao dịch với giá 95.000đ, người mua bán song hành mạo hiểm sẽ mua cổ
phần của công ty B và sử dụng tài khoản bảo chứng để giao dịch bán non
bán trước rồi mua trả lại sau một lượng cổ phần của công ty A bằng phân
nửa lượng cổ phần của công ty B. Nếu đề xuất gồm thâu đó được chấp
thuận, hai loại chứng khoán trong cuộc sẽ được trao đổi theo cơ sở một- lấy-
hai, và nghiệp vụ mua bán song hành sẽ được lợi, vì giá cổ phần của công ty
B sẽ nhích lên đồng thời với giá cổ phần công ty A nhích xuống. Nhưng rủi
ro sẽ xảy ra khi việc thu xếp sáp nhập bất thành, vì lúc đó giá chứng khoán B

chẳng những không tăng và chứng khoán A chẳng những không giảm mà sẽ
diễn biến độc lập theo hướng thường là bất lợi, đi ngược với mong đợi của
các arbitrageur.
Song hành mạo hiểm còn được sử dụng phổ biến trong các hoạt động tổ
chức lại công ty và các thương lượng mua lại tender offer. Phương thức mua
bán này còn được gọi là song hành chứng khoán vốn equity arbitrage.
Ở những nước có nền kinh tế thị trường với hạ tầng tài chính chuyên sâu và
đa dạng, các hoạt động song hành diễn ra ở nhiều lĩnh vực, rất phức tạp và
với quy mô lớn đôi khi chỉ có thể điều hành bằng lập trình điện toán. Chúng
ta có thể tìm hiểu thêm một số cách giao dịch khác dưới đây chuyên sâu
hơn.
Giao dịch khai thác chênh lệch
Giao dịch khai thác chênh lệch basis trading hay relationship trading là hoạt
động mua bán song hành trong đó một nhà đầu tư tham gia vào một vị thế
mua long position đối với một loại chứng khoán và một vị thế bán short
position đối với một chứng khoán tương tự, với tham vọng sẽ kiếm lợi từ sự
thay đổi trong chênh lệch cơ bản basis giữa hai chứng khoán được sử dụng.
Chẳng hạn, một người đầu tư có thể mua một hợp đồng tuỳ chọn mua call
option kỳ hạn hiệu lực đến tháng Tư và cùng lúc bán một hợp đồng call của
cùng loại chứng khoán cơ sở nhưng khác kỳ hạn hiệu lực không phải kỳ hạn
tháng Tư hoặc khác giá chốt sẵn strike price – giá sắp đặt của thị trường.
Nhà đầu tư ở trường hợp này mong đợi giá trị của hai vị thế thương vụ sẽ
thay đổi trong thời gian chúng còn hiệu lực, theo cách sao cho khoản lợi
cuối cùng sẽ phát sinh. Giao dịch khai thác chênh lệch được thực hiện khi
mà nhà đầu tư cảm thấy rằng một chứng khoán đã được định giá quá cao,
hay quá thấp, tương quan với giá của một chứng khoán khác. Do có điều
này, phần lợi ở một phía giao dịch phải đủ lớn hơn để khử phần lỗ bên phía
đối ứng trong cùng giao dịch đó. Phần chênh lệch dôi ra là lợi kiếm được.
Giao dịch khai thác chênh lệch có thể dùng trong chỉ số, trong một tập nhóm
chứng khoán group of securities hay cả trong các loại chứng khoán đơn lẻ.

Một ví dụ, một nhà đầu tư sẽ quyết định chiến lược song hành như sau trong
thị trường mua bán hợp đồng option tuỳ chọn:
- Mua 1 hợp đồng call option chọn mua ở mức $30, kỳ hạn tháng Tư, phí
mua $0,25 mua call là ta đã chốt giá mua hàng hoá $30 – nên nếu giá giảm,
chỉ bị mất tiền phí mua.

×