Tải bản đầy đủ (.doc) (49 trang)

Phân tích danh mục đầu tư, danh mục chứng khoán bao gồm các cổ phiếu VNM, MSN, DHG, DPM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (759.88 KB, 49 trang )

Bài tập lớn - Quản trị danh mục đầu tư Nhóm 8- Lớp CH K26-TNH2.ĐN
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
KHOA TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
  
BÀI TẬP LỚN
MÔN QUẢN TRỊ DANH MỤC ĐẦU TƯ
GVHD : TS VÕ THỊ THÚY ANH
LỚP : K26 TCNH-2
Thực hiện : NHÓM 8
Thành viên nhóm: 1. Huỳnh Lê Trang
2. Bùi Thị Thiên Ân
3. Võ Thị Kim Quyên
4. Phạm Thị Bích Vũ
TP. Đà Nẵng, tháng 06 năm 2013
NỘI DUNG TỔNG QUÁT
GVHD: TS. Võ Thị Thúy Anh Trang 1
Bài tập lớn - Quản trị danh mục đầu tư Nhóm 8- Lớp CH K26-TNH2.ĐN
A. Phân tích vĩ mô, phân tích ngành, phân tích doanh nghiệp
B. Phân tích danh mục 4 chứng khoán
PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC TRONG NHÓM
1. Bùi Thị Thiên Ân: Phân tích vĩ mô, Phân tích ngành
2. Võ Thị Kim Quyên: Phân tích Công ty
3. Phạm Thị Bích Vũ: Phân tích danh mục 4 chứng khoán
4. Huỳnh Lê Trang: Tổng hợp chung
LỰA CHỌN CHỨNG KHOÁN
Quy trình phân tích và lựa chọn chứng khoán
GVHD: TS. Võ Thị Thúy Anh Trang 2
Phân tích vĩ mô
và thị trường
Phân tích ngành Phân tích công


ty
Bài tập lớn - Quản trị danh mục đầu tư Nhóm 8- Lớp CH K26-TNH2.ĐN
•PHÂN TÍCH VĨ MÔ
•PHÂN TÍCH NGÀNH
•PHÂN TÍCH CÔNG TY
I . PHÂN TÍCH VĨ MÔ
1.1. Kinh tế thế giới.
1.1.1. Tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2012, đầu năm 2013:
Sau 5 năm vật lộn với cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái trầm trọng nhất từ
trước đến nay, nền kinh tế thế giới bắt đầu le lói phục hồi, mặc dù chưa thật vững chắc
do Mỹ và các nước khu vực euro tiếp tục phải đối mặt với khó khăn tài chính.
Theo đánh giá đưa ra vào tháng 11/2012 và thông tin cập nhật trong những ngày cuối
năm của IMF và các tổ chức tài chính khu vực cùng các báo cáo quốc gia, kinh tế toàn
cầu năm 2012 tiếp tục suy giảm và chỉ tăng 3,3%; các nền kinh tế mới nổi BRICS tăng
5-5,3%, thấp hơn kết quả đạt được 6,2% vào năm 2011; kinh tế châu Phi tăng 4,5%;
kinh tế khu vực Mỹ La tinh và Caribê tăng 3,7%; riêng châu Á – Thái Bình Dương vẫn
là khu vực có tốc độ tăng trưởng cao nhất 5,6% nhờ kinh tế Trung Quốc vẫn giữ được
động lượng. Kinh tế các nước ASEAN cũng đạt tốc độ khá cao 5,2% nhờ nhu cầu nội
địa tăng mạnh đã góp phần giảm nhẹ nhiều tác động tiêu cực do suy giảm xuất khẩu
bắt nguồn từ suy thoái toàn cầu và tăng trưởng kinh tế chậm lại tại Nhật Bản, Trung
Quốc, Ấn Độ.
TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ THẾ GIỚI NĂM 2012 (%)
Quốc gia, khu vực Năm 2012
Năm 2013
Toàn cầu 3,3
3,6
Các nước phát triển 1,3-1,4
1,6
Các nước EU -0,3
0,4

Khu vực euro -0,4
0,1
Các nước BRICS 5,0-5,3
5,5
Các nước đang phát triển
-
5,6
Châu Á – Thái Bình Dương 5,6
-
Các nước ASEAN 5,2
5,5
Châu Phi 4,5
4,8
Trung Đông – Bắc Phi 5,1
3,7
GVHD: TS. Võ Thị Thúy Anh Trang 3
Bài tập lớn - Quản trị danh mục đầu tư Nhóm 8- Lớp CH K26-TNH2.ĐN
Các nước Mỹ latinh và Caribê 3,7
4,7
Các nước trung Âu 1,9
2,9
Cộng đồng các quốc gia độc lập CIS 4,2
4,1
Mỹ 1,5
2,3-3,0
Nhật Bản 2,2
1,0
Trung Quốc 8,0
7,5
Ấn Độ 5,7-5,9

6,3
CHLB Nga 3,5-4,0
3,9
CH Nam Phi 2,7
3,6
Nguồn: IMF, các tổ chức tài chính khu vực, báo cáo quốc gia
Mặc dù có tín hiệu phục hồi, nhưng kinh tế toàn cầu năm 2012 vẫn tăng thấp hơn so
với những năm trước, nguyên nhân là do tăng trưởng thấp tại Mỹ và châu Âu và hai
khu vực kinh tế này vẫn gặp khó khăn trong việc tái cân bằng thu chi tài chính. Nhìn
chung, tình hình tại các nước công nghiệp phát triển không mấy sáng sủa, nên kinh tế
tiếp tục suy giảm và chỉ tăng 1,4% trong năm nay, sau khi trượt dốc xuống 3,0% vào
năm 2010 và xuống 1,6% trong năm 2011, mặc dù có thể nhích lên và tăng 1,6% vào
năm 2013.
Tăng trưởng thấp và bất ổn tại các nước phát triển đang tác động đến các nền kinh tế
mới nổi và đang phát triển thông qua các hoạt động thương mại và đầu tư. Đáng chú ý,
do nhu cầu nhập khẩu yếu ớt tại các nước phát triển, thương mại toàn cầu năm 2012
chỉ tăng 3,2%, trong khi năm 2011 tăng 5,8% và năm 2010 tăng 12,6%. Tại các nền
kinh tế mới nổi BRICS, tăng trưởng cũng giảm từ 6,2% năm 2011 xuống 5,3% trong
năm nay. Dẫn đầu nhóm BRICS là Trung Quốc với tốc độ tăng trưởng năm 2012 là
8,0% và có thể vẫn tăng 7,5% vào năm 2013. Triển vọng kinh tế Ấn Độ không rõ ràng
và chỉ tăng dưới 6%, mức thấp nhất trong 9 năm qua, kỳ vọng năm 2013 sẽ phục hồi
và tăng trên 6%.
Tại khu vực Trung Đông và Bắc Phi, các nước nhập khẩu dầu mỏ tiếp tục đối mặt với
bất ổn kinh tế và chính trị, dự kiến chỉ tăng 1,25% trong năm 2012 trước khi phục hồi
vào năm sau. Riêng các nước xuất khẩu dầu mỏ vẫn tăng khá và đạt 6,25% trong năm
2012 nhờ giá dầu tăng cao và sự phục hồi sản lượng dầu khai thác tại Arập Xêút và
Libya, nhưng sau đó sẽ giảm tốc và chỉ tăng 3,75% trong năm 2013.
Tại khu vực Mỹ latinh và Caribê, GDP tăng 3,7% vào nửa cuối năm 2012 và 4,7%
trong nửa cuối năm 2013. Các nước trung Âu sẽ tăng 4% vào cuối năm 2013, cộng
đồng các quốc gia độc lập tăng 4% vào cuối năm 2013, trong đó CHLB Nga tăng

3,7%. Các nước cận Sahara tăng trung bình 5%, riêng Nam Phi vẫn trì trệ do có mối
liên hệ chặt chẽ với châu Âu.
GVHD: TS. Võ Thị Thúy Anh Trang 4
Bài tập lớn - Quản trị danh mục đầu tư Nhóm 8- Lớp CH K26-TNH2.ĐN
Nhiều nhà đầu tư và phân tích tài chính cho rằng, kinh tế thế giới năm 2012 đã chạm
đáy và sẽ phục hồi mạnh từ nửa cuối năm 2013, chủ yếu bắt nguồn từ các chỉ số kinh
tế vĩ mô tươi sáng tại Mỹ, nổi bật là tỉ lệ thất nghiệp trong tháng 11 đã giảm xuống
7,7%, mặc dù còn cao hơn con số 6,5% vào thời điểm trước khi xảy ra khủng hoảng tài
chính năm 2008. Đáng chú ý, mục tiêu giảm tỉ lệ thất nghiệp xuống 6,0-6,5% vào cuối
năm 2015 do NHTW Mỹ đưa ra cũng tạo tâm lý phấn khích cho các nhà đầu tư.
Đây là tín hiệu tích cực, góp phần giảm nhẹ tâm trạng lo âu của các nhà đầu tư. Theo
báo cáo do Fed đưa ra tại cuộc họp trong 2 ngày 10-11/12, kinh tế Mỹ dự báo sẽ tăng
1,5% trong năm nay, trước khi tăng 2,3-3% vào năm 2013. Theo đánh giá của cơ quan
thống kê châu Âu (Eurostat) đưa ra ngày 06/12/2012, kinh tế khu vực euro năm 2012
suy giảm 0,4%, nhưng sẽ tăng 0,1% trong năm 2013; số liệu tương ứng tại 27 nước
thành viên EU là -0,3% và 0,4%.
Những ngày cuối năm 2012, các nước EU và khu vực euro đã thông qua nhiều giải
pháp hiệu quả, đặc biệt là tiếp tục hỗ trợ Hy Lạp để vượt qua khủng hoảng nợ công.
Nhờ đó, lãi suất trái phiếu của chính phủ Hy Lạp đã giảm đáng kể, đây là điều kiện
thuận lợi để quốc gia này giảm chi phí vay vốn và có thể giảm tỉ lệ nợ công theo lộ
trình đề ra. Tại cuộc họp ngày 13/12 mới đây, các bộ trưởng tài chính EU đã nhất trí
thành lập một cơ quan giám sát ngân hàng duy nhất trên toàn khu vực euro, một tổ
chức cần thiết để đảm bảo ổn định tài chính tại khu vực euro và toàn EU, tiến tới thành
lập liên minh ngân hàng và các bước tiếp theo trong quá trình nhất thể hóa châu Âu.
Tuy nhiên, khu vực euro còn phải đối mặt với nhiều khó khăn, đặc biệt là những vấn
đề liên quan đến nguồn lực tài chính, năng lực cạnh tranh và thị trường lao động. Theo
nhận định của nhiều chuyên gia và nhà đầu tư, việc thắt chặt chi tiêu quá mức là
nguyên nhân cơ bản đẩy khu vực euro lún sâu vào suy thoái, tỉ lệ thất nghiệp tăng từ
11,1% trong năm nay lên 12% vào năm 2012 và sẽ tiếp tục tăng cao trong thời gian
tới.

Bên cạnh triển vọng khả quan, kinh tế thế giới vẫn chứa đựng nhiều rủi ro, đòi hỏi các
nước phải đẩy mạnh cải cách, nếu không kinh tế toàn cầu có thể sẽ rơi vào suy thoái và
năm 2013 chỉ tăng 2%. Giới quan sát tiếp tục tập trung sự chú ý vào các động thái của
Trung Quốc, đặc biệt là khả năng thay thế mô hình tăng trưởng dựa vào xuất khẩu hiện
nay bằng các động lực tăng trưởng trong nước theo hướng tăng cường cải cách thể
chế, cải thiện cấu trúc công nghiệp và áp dụng tiến bộ công nghệ. Đây là tiền đề cần
thiết để thay đổi đặc tính tiết kiệm và tiêu dùng toàn cầu, vốn bị mất cân bằng trầm
trọng trong những năm gần đây, tỉ lệ tiết kiệm cao ở Trung Quốc cùng với mức tiêu
thụ tương tự ở Mỹ đã nhanh chóng biến Trung Quốc thành chủ nợ của Mỹ. Tuy nhiên,
nguồn tài sản tài chính khổng lồ với dự trữ ngoại tệ khoảng 3.200 tỉ USD và tài sản
ngân hàng trị giá trên 15.000 tỉ USD tại Trung Quốc lại tương phản với chất lượng khá
thấp, nên quốc gia này sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức trong quá trình chuyển đổi
từ một cường quốc thương mại sang một cường quốc tài chính.
GVHD: TS. Võ Thị Thúy Anh Trang 5
Bài tập lớn - Quản trị danh mục đầu tư Nhóm 8- Lớp CH K26-TNH2.ĐN
Tương tự, nhiều nền kinh tế khác tại châu Á – Thái Bình Dương cũng đang đối mặt
với yêu cầu phải thoát khỏi sự lệ thuộc vào xuất khẩu, góp phần giảm nhẹ ảnh hưởng
tiêu cực từ những biến động kinh tế toàn cầu trong tương lai. Vì thế, tăng trưởng kinh
tế năm 2013 tại khu vực này vẫn nằm dưới mức tiềm năng, không còn đạt tốc độ tăng
trưởng cao như đã đạt được trong thập kỷ qua. Châu Á – Thái Bình Dương cũng là
khu vực tập trung phần lớn dân số thế giới, nên tăng trưởng cao là đòi hỏi cần thiết,
nhưng việc chuyển đổi sang mô hình tăng trưởng bền vững theo hướng cân bằng cung
cầu đòi hỏi phải có thời gian, trong khi đói nghèo đang hoành hành nhiều nước Nam Á
và Tây Nam Á với trên 500 tiệu người sống dưới mức nghèo theo tiêu chuẩn của Liên
hiệp quốc, chiếm khoảng 44% số người nghèo trên toàn thế giới.
Nhìn chung, tình hình kinh tế thế giới năm 2012 và những năm tiếp theo phụ thuộc
vào nỗ lực cải cách tại Mỹ, khu vực euro và Trung Quốc, đây là những khu vực trọng
điểm trong nền kinh tế thế giới.
1.1.2. Lạm phát.
Trong báo cáo "Tình hình và triển vọng kinh tế thế giới năm 2013", Liên Hợp Quốc

(LHQ) cảnh báo dù lạm phát có xu hướng giảm trên thế giới, song đây vẫn là vấn đề
đáng quan ngại ở một số nước đang phát triển trong năm tới.
Tại châu Phi, tỷ lệ lạm phát vẫn trên 10% ở Angola, Nigeria và một số nơi khác. Lạm
phát được dự đoán không thể giảm ở hầu hết các nước trong khu vực Đông Á, thậm
chí còn là vấn đề đáng lo ngại ở đa số các nước khu vực Nam Á. Tại những nước này,
tỷ lệ lạm phát trung bình trên 11% trong năm nay và dự kiến vẫn ở mức trên dưới 10%
trong năm 2013 và 2014.
Ấn Độ từng chứng kiến lạm phát cao kỷ lục trong tháng 10/2012, khi đó, chỉ số giá
bán buôn – thước đo lạm phát chính của Ấn Độ tăng 7,4% trong tháng 10 so với cùng
kỳ năm ngoái. Sau đó, lạm phát của nước này đã bất ngờ giảm xuống 7,24% trong
tháng 11.
Gần đây, Thống đốc Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBOC) Châu Tiểu Xuyên
nhận định rằng lạm phát sẽ là một loại rủi ro dài hạn và chủ yếu đối với người dân
Trung Quốc khi nước này đang “hạ cánh mềm” và có sự chuyển giao quyền lực lãnh
đạo đất nước cho thế hệ mới. Sau hai năm PBOC cố gắng giữ cho tỷ lệ lạm phát không
vượt quá 4%, trong tháng 10 vừa qua, tỷ lệ lạm phát tại Trung Quốc đã giảm nhẹ, còn
1,7% so với 1,9% trong tháng trước đó.
Singapore hiện được biết đến là một trong số những nước có tỉ lệ lạm phát tăng cao
nhất trong số các quốc gia phát triển. Lạm phát của hòn đảo này đã có lần vượt quá 4%
mỗi tháng kể từ tháng 11/2010, tăng hơn gấp đôi so với mức trung bình 1,9% trong hai
GVHD: TS. Võ Thị Thúy Anh Trang 6
Bài tập lớn - Quản trị danh mục đầu tư Nhóm 8- Lớp CH K26-TNH2.ĐN
thập kỷ qua. Nguyên nhân được cho là chi phí nhà ở, kinh doanh cùng với giao thông
tăng cao.
Theo báo cáo của LHQ, tại hầu hết các nền kinh tế trong khu vực Tây Á, tỷ lệ lạm phát
nhìn chung khá thấp, song ở Yemen vẫn ở mức cao (10%) và rất cao (30%) ở Syria.
Tỷ lệ lạm phát ở khu vực Mỹ Latinh và Caribe dự kiến khoảng 6%.
Tỷ lệ lạm phát nhìn chung đều giảm ở hầu hết các nước phát triển. Tại Mỹ, lạm phát
đã giảm từ 3,1% năm 2011 xuống 2% năm nay và dự kiến chỉ ở mức vừa phải trong
năm 2013. Tại Khu vực đồng Euro (Eurozone), lạm phát cơ bản, không tính những

mặt hàng dễ biến động như năng lượng, lương thực, rượu và thuốc lá, sẽ thấp hơn,
khoảng 1,5%.
Tại Nhật Bản, tình trạng giảm phát vẫn bao trùm, mặc dù ngân hàng trung ương nước
này đã đưa ra một số biện pháp cần thiết.
1.1.3. Tỷ lệ thất nghiệp.
Xét trên phương diện kinh tế, giảm tỉ lệ thất nghiệp một mặt củng cố và gia tăng sức
sản xuất, mặt khác cũng cho thấy nguồn cầu tiêu dùng tiềm năng khi nền kinh tế hồi
phục; đồng thời cũng giúp nuôi dưỡng nguồn thu ổn định từ thuế cho ngân sách các
quốc gia. ILO dự báo tình trạng trên sẽ kéo dài đến năm 2016. Tuy nhiên, năm 2012,
cuộc khủng hoảng tài chính trỗi dậy mạnh mẽ, ILO đã nói trong bản báo cáo thường
niên của mình về xu hướng việc làm toàn cầu, chỉ ra rằng số người thất nghiệp đã tăng
4 triệu người lên con số 197 triệu trong năm 2012. Hãng tin CNBC dẫn dữ liệu từ ILO
cho biết, hiện năm 2009 vẫn là năm mà thế giới có số người thất nghiệp đông đảo nhất,
với 198 triệu người trong cảnh không công ăn việc làm. ILO dự báo, trong năm 2013
này, số người thất nghiệp trên toàn cầu sẽ tăng thêm 5,1 triệu người so với năm 2012,
lên 202 triệu người, phá kỷ lục thiết lập vào năm 2009.
Bản báo cáo của ILO cũng cho rằng, số người thất nghiệp của thế giới sẽ tiếp
tục lên ngưỡng 205 triệu người trong năm 2014. Như vậy, đây sẽ là một trong những
yếu tố kìm hãm sự phục hồi của nền kinh tế trong thời gian tới.
1.1.4. Giá hàng hóa sụt giảm:
Năm 2012, giá hàng hóa giảm bình quân 3% cho dù có tới 13/19 mặt hàng được theo
dõi bởi chỉ số Thomson Reuters-Jefferies tăng.
Lúa mỳ và đậu tương là hai mặt hàng tăng giá mạnh nhất trong số các hàng hóa, lần
lượt 19,3% và 18,8%.
Giá vàng tăng 7% và có năm tăng thứ 12 liên tiếp – lập kỷ lục trên thị trường hàng hóa
về chuỗi thời gian tăng liên tục. Tuy nhiên bước sang tháng 13 sang những tháng đầu
GVHD: TS. Võ Thị Thúy Anh Trang 7
Bài tập lớn - Quản trị danh mục đầu tư Nhóm 8- Lớp CH K26-TNH2.ĐN
năm 2013 thì giá vàng bắt đầu sụt giảm, đỉnh điểm là giá vàng tháng 6/2013 chỉ còn
1.389,5 USD/oz,tương ứng 41 triệu đồng/lượng. Giá đồng tăng 4,4% trong cả năm

2012 trong khi dầu Brent tăng 3,6% và dầu WTI tăng 7%. Giá khí thiên nhiên tăng
13% - tốt nhất kể từ năm 2007.
Cà phê arabica, nước cam, bông và đường dẫn đầu trong số các hàng hóa giảm, khi để
mất lần lượt 37%, 31%, 17% và 16% so với cuối năm 2011. Nông sản cũng là nhóm
giảm giá mạnh nhất trong thị trường năm qua.
1.1.5. Những lạc quan về nền kinh tế thế giới 2014
Tổ chức Hợp tác kinh tế và phát triển (OECD) dự đoán, kinh tế thế giới sẽ tăng tốc và
trên thực tế sẽ hồi phục hoàn toàn vào năm 2014.
Tuy nhiên, Eurozone vẫn sẽ thua Mỹ và Nhật Bản, vì khu vực này đòi hỏi phải có
nhiều thời gian hơn để trở lại mức chuẩn. OECD cũng lưu ý, tỷ lệ thất nghiệp sẽ đạt
mức cao lịch sử.
Trong dự đoán kinh tế nửa năm (Economic Outlook) của OECD nêu rõ, GDP
của 34 nước phát triển nhất thế giới thuộc tổ chức này sẽ tăng 1,2% năm nay và 2,3%
năm sau. Kinh tế thế giới nói chung sẽ tăng trưởng 3,1% năm nay và 4% năm 2014.
Mức tăng trưởng của các nền kinh tế ngoài OECD là 5,5% năm 2013 và 6,2% năm
2014.
Theo IMF, kinh tế eurozone sẽ giảm 0,2% thay vì tăng trưởng 0,3% như dự báo
trước đó. IMF dự báo khu vực này chỉ tăng trưởng trở lại vào năm 2014. IMF cảnh
báo, eurozone vẫn tiềm ẩn rủi ro lớn đối với kinh tế toàn cầu nếu giới chức ở đây
không nỗ lực cải thiện nền kinh tế và tiến tới lập liên minh ngân hàng.
Trong khi đó, IMF dự báo kinh tế Mỹ sẽ tăng trưởng 2% đến 2,1% năm 2013 và 3%
năm 2014. Nhật Bản tăng trưởng lần lượt 1,2% và 0,7% năm 2013, 2014. IMF giữ
nguyên dự báo tăng trưởng Trung Quốc là 8,2% và 8,5%.
GDP của Nga được dự đoán sẽ tăng từ 2,3% năm 2013 (hồi tháng 11 năm ngoái dự
đoán là 3,8%) lên 3,6% năm 2014. Kinh tế Mỹ - nền kinh tế lớn nhất thế giới, sẽ tăng
trưởng 1,9% năm nay và 2,8% năm sau. Nhật Bản sẽ đạt tỷ lệ tăng trưởng GDP 1,6%
năm nay và 1,4% năm 2014. Tại 17 nước thuộc Eurozone, năm 2013 tiếp tục suy
thoái, GDP giảm 0,6%, năm 2014 dự đoán tăng trưởng 1,1%. Tăng trưởng GDP của
Trung Quốc năm nay dự đoán ở mức 7,8% và năm sau sẽ lên đến 8,4%.
Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) ngày 6/52012 cũng công bố dự báo tỷ lệ tăng trưởng của

khu vực Mỹ Latinh và Vịnh Caribe sẽ lần lượt đạt 3,5% năm 2013 và 4% năm 2014,
nhờ những điều kiện thuận lợi của nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên, báo cáo của IMF
vẫn không loại trừ các nguy cơ đe dọa đối với kinh tế khu vực này, như tình trạng tăng
GVHD: TS. Võ Thị Thúy Anh Trang 8
Bài tập lớn - Quản trị danh mục đầu tư Nhóm 8- Lớp CH K26-TNH2.ĐN
trưởng thấp ở Mỹ có thể gây hại cho các nước Mỹ Latinh, nhất là Mexico và các quốc
gia Trung Mỹ khác. Định chế tài chính này khẳng định nguy cơ then chốt của khu vực
là tác dụng trái chiều từ các điều kiện đầu tư dễ dãi và giá hàng hóa cao vốn lan tràn từ
năm 2010 khi mà tình trạng trên chấm dứt. Cũng trong tài liệu này, IMF dự báo những
nền kinh tế Mỹ Latinh hòa nhập về tài chính sẽ đạt mức tăng trưởng khoảng 4,5%
trong năm 2013. Trong khi đó, những nước xuất khẩu nguyên liệu thô được dự báo sẽ
đạt mức tăng GDP 4,6%, so với mức tăng 3,3% năm 2012, còn những nước xuất khẩu
năng lượng lớn của khu vực như Bolivia, Ecuador và Venezuela lại có mức tăng
trưởng vừa phải.
Trong số các nước châu Âu, theo OECD, đáng lo ngại nhất là Hy Lạp, Italia và Tây
Ban Nha. Hy Lạp được dự đoán vẫn chưa ra khỏi cuộc suy thoái 7 năm, chỉ bắt đầu
thoát khỏi vào năm 2015, trong khi đó, mức sụt giảm năm nay của nước này được
OECD dự đoán là 4,8% và năm sau là 1,2%. Thất nghiệp ở nước này, cũng như ở Tây
Ban Nha sẽ đạt đỉnh – 28%. Kinh tế Italia được dự đoán hồi phục yếu ớt vào năm 2014
với 0,4%.
1.2. Kinh tế Việt Nam:
1.2.1. Tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội GDP:
Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2012 theo giá so sánh 1994 ước tính tăng
5,03% so với năm 2011, trong đó quý I tăng 4,64%; quý II tăng 4,80%; quý III tăng
5,05%; quý IV tăng 5,44%. Trong 5,03% tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế, khu
vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 2,72%, đóng góp 0,44 điểm phần trăm vào mức
tăng trưởng chung; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 4,52%, đóng góp 1,89 điểm
phần trăm; khu vực dịch vụ tăng 6,42%, đóng góp 2,70 điểm phần trăm.
Theo đánh giá, với kết quả tăng GDP đạt 5,03% thấp hơn nhiều so với chỉ tiêu
Quốc hội đề ra là từ 6%-6,5% và thấp hơn so với cùng kỳ năm ngoái. Tuy nhiên, trong

bối cảnh kinh tế thế giới và trong nước còn nhiều khó khăn thì đây là mức tăng trưởng
hợp lý.
Tổng cục thống kê cho rằng, nền kinh tế năm 2012 gặp bất lợi bởi sự bất ổn của kinh
tế thế giới do khủng hoảng tài chính và khủng hoảng nợ công ở châu Âu chưa được
giải quyết. Những bất lợi từ thị trường thế giới đã ảnh hưởng xấu đến hoạt động sản
xuất kinh doanh và đời sống dân cư trong nước, thể hiện ở việc thị trường tiêu thụ
hàng hóa bị thu hẹp, hàng tồn kho ở mức cao, sức mua trong dân giảm, tỷ lệ nợ xấu
ngân hàng ở mức đáng lo ngại. Đặc biệt, nhiều doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp
nhỏ và vừa phải thu hẹp sản xuất, dừng hoạt động hoặc giải thể.
GVHD: TS. Võ Thị Thúy Anh Trang 9
Bài tập lớn - Quản trị danh mục đầu tư Nhóm 8- Lớp CH K26-TNH2.ĐN
Về sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản, giá trị sản xuất ở các lĩnh vực này năm
2012 theo giá so sánh 1994 ước tính tăng 3,4% so với năm 2011, bao gồm: nông
nghiệp tăng 2,8%; lâm nghiệp tăng 6,4%; thuỷ sản tăng 4,5%.
Về sản xuất công nghiệp, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp tháng 12/2012 ước
tính tăng 5,0% so với tháng trước và tăng 5,9% so với cùng kỳ năm trước. Chỉ số sản
xuất công nghiệp cả năm 2012 tăng 4,8% so với năm 2011, trong đó công nghiệp khai
khoáng tăng 3,5%; công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 4,5%; sản xuất, phân phối điện,
khí đốt tăng 12,3%; cung cấp nước, quản lý và xử lý nước thải, rác thải tăng 8,4%.
Trong ngành sản xuất công nghiệp một số ngành công nghiệp có mức sản xuất tăng
cao so với năm 2011 là: đóng tàu, sản xuất thiết bị truyền thông tăng, sản xuất phụ
tùng và bộ phận phụ trợ, sản xuất linh kiện điện tử, sản xuất đường, sản xuất, truyền
tải và phân phối điện
Tăng trưởng GDP năm 2013 sẽ đạt trên 5%. Đây là mức dự báo được các tổ chức quốc
tế như Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Ngân hàng Thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ
Quốc tế (IMF) cập nhật mới nhất. Tháng 4/2013 vừa qua, UNDP công bố báo cáo điều
tra tình hình kinh tế - xã hội khu vực châu Á - Thái Bình Dương năm 2013, dự báo
kinh tế Việt Nam sẽ lấy lại đà tăng trưởng vào 6 tháng cuối năm 2013, đưa tốc độ tăng
trưởng cả năm tăng nhẹ lên mức 5,5%. Tuy nhiên, điều này sẽ còn phụ thuộc nhiều
vào khả năng khôi phục lòng tin vào nền kinh tế thông qua kiểm soát được mức lạm

phát, khắc phục được lỗ hổng trong ngành ngân hàng và tái cơ cấu các doanh nghiệp
nhà nước kém hiệu quả.
Về tình hình thực hiện các mục tiêu 2013, mặc dù đồng tình với báo cáo của Chính
phủ về một số kết quả đã đạt được như lạm phát tiếp tục được kiềm chế; dự trữ ngoại
hối tăng cao; tỷ giá ngoại tệ tương đối ổn định; xuất khẩu tăng trưởng khá, nhập khẩu
thiết bị, vật tư phục vụ sản xuất bắt đầu tăng trở lại. Các chính sách xã hội tiếp tục
được quan tâm và triển khai kịp thời Ủy ban Kinh tế nhận định nền kinh tế đối mặt
với nhiều thách thức, khó khăn có mặt còn nghiêm trọng hơn so với năm trước.
Báo cáo trước đó của Chính phủ cũng cho biết mặc dù kinh tế - xã hội 4 tháng đã có
những chuyển biến tích cực, đúng hướng và đạt được kết quả bước đầu, nhưng còn
chậm, chưa vững chắc và còn nhiều hạn chế, yếu kém. Sức ép lạm phát và tiềm ẩn bất
ổn kinh tế vĩ mô vẫn còn lớn. Chủ trương, cơ chế chính sách hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn
cho sản xuất kinh doanh tuy sớm được ban hành nhưng việc hướng dẫn cụ thể, tổ chức
triển khai thực hiện còn chậm nên không ít trường hợp chưa đi vào cuộc sống. Quá
trình tái cơ cấu kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng tiến triển chậm. Tình trạng khiếu
kiện, nhất là khiếu kiện đông người về đất đai còn diễn biến phức tạp
Năm 2014, báo cáo Triển vọng Phát triển Châu Á ngày 9/4/2013 dự báo tăng trưởng
GDP của Việt Nam sẽ đạt 5,2% trong năm 2013 và 5,6% trong năm 2014, nếu đạt
GVHD: TS. Võ Thị Thúy Anh Trang 10
Bài tập lớn - Quản trị danh mục đầu tư Nhóm 8- Lớp CH K26-TNH2.ĐN
được tiến bộ trong việc củng cố lĩnh vực ngân hàng và sự phục hồi của các nền kinh tế
công nghiệp lớn.
Như vậy, trong năm 2013 và 2014, dự báo tình hình kinh tế Việt Nam sẽ có nhưng
phục hồi đáng kể, tuy không như mong đợi nhưng đó cũng là điểm đáng mừng trong
tình hình kinh tế hiện nay.
1.2.2. Tỷ lệ lạm phát:
Việt Nam đã hoàn thành tốt mục tiêu kiềm chế lạm phát cả năm 2012 thấp hơn mức
chỉ tiêu kế hoạch 7% mà Quốc hội đề ra. Tuy nhiên, với con số lạm phát ở mức thấp là
6,81% trong điều kiện nền kinh tế đang khó khăn, tổng cầu suy giảm quá mức sẽ gây
những khó khăn cho kinh tế vĩ mô. Giá giảm không phải vì năng suất, chất lượng, hiệu

quả tăng mà do sức mua suy kiệt.
Theo các nhà nghiên cứu, lạm phát ở Việt Nam là do sự tác động tổ hợp của cả ba
dạng thức, gồm lạm phát tiền tệ (dạng thức chủ yếu), lạm phát cầu kéo và lạm phát chi
phí đẩy. Cụ thể, lạm phát tiền tệ là dạng thức lạm phát lộ diện khá rõ như việc tung
khối lượng tiền lớn vào lưu thông.
Lạm phát cầu kéo do đầu tư bao gồm đầu tư công và đầu tư của các doanh nghiệp
tăng, làm nhu cầu về nguyên liệu, nhiên liệu và thiết bị công nghệ tăng. Biểu hiện rõ
nhất của lạm phát cầu kéo là nhu cầu nhập khẩu lương thực, thực phẩm trên thị trường
thế giới tăng, làm giá xuất khẩu tăng kéo theo cầu về lương thực trong nước cho xuất
khẩu tăng, trong khi đó, nguồn cung trong nước không thể tăng kịp.
Lạm phát chi phí đẩy biểu hiện ở giá nguyên liệu, nhiên liệu trên thế giới tăng mạnh,
đẩy hàng loạt mặt hàng khác tăng theo. Trong điều kiện kinh tế nước ta phụ thuộc rất
lớn vào nhập khẩu thì việc giá nguyên liệu nhập tăng làm giá thị trường trong nước
biến động theo.
Theo ADB, lạm phát trung bình năm dự kiến sẽ vào khoảng 7,5% tại thời điểm cuối
năm 2013. Lạm phát sẽ ở mức trung bình 7,5% trong năm nay trước khi tăng lên 8,2%
trong năm 2014. Mức dự báo này được đưa ra với giả định rằng các điều kiện thời tiết
thuận lợi cho sản xuất lương thực, tỷ giá tiền đồng tương đối ổn định và các kích thích
chính sách được kiểm soát.
1.2.4. Chỉ số giá tiêu dùng – CPI
Con số lạm phát năm 2012 được Tổng cục Thống kê công bố ngày 24-12 vừa qua cho
thấy mục tiêu kiềm chế lạm phát năm nay đã cơ bản đạt được. Mức tăng 6,81% của chỉ
số giá tiêu dùng (CPI) cả nước này thấp hơn mục tiêu 7-8% đề ra trước đó. Hơn nữa,
mức tăng 6,81% cũng xấp xỉ mức tăng 6,52% của năm 2009, thấp hơn nhiều so với
mức tăng 11,75% của năm 2010 và mức tăng 18,13% của năm 2011. Như vậy, chu kỳ
GVHD: TS. Võ Thị Thúy Anh Trang 11
Bài tập lớn - Quản trị danh mục đầu tư Nhóm 8- Lớp CH K26-TNH2.ĐN
hai năm CPI tăng cao, một năm CPI tăng thấp một lần nữa lặp lại như hồi năm 2007,
2008 tăng cao và đến năm 2009 lại tăng thấp.
Tuy nhiên, nếu nhìn lại diễn biến CPI cả năm 2012, có thể thấy đây là năm CPI có

nhiều biến động bất thường. Những năm trước đây, theo quy luật thị trường thì CPI
thường tăng cao vào những tháng cuối năm, cận Tết Nguyên đán, nhưng năm nay, CPI
lại tăng không quá cao vào hai tháng sát Tết (tháng 1-2012 chỉ tăng 1% và tháng 2-
2012 tăng 1,37%), còn những tháng cuối năm gần đây thì CPI cũng chỉ tăng dưới mức
1% (tháng 10 tăng 0,65%, tháng 11 tăng 0,47% và tháng 12 chỉ tăng 0,27%). Hoàn
toàn ngược lại với quy luật, CPI năm nay lại tăng cao nhất vào tháng 9 với mức tăng
đột biến 2,2%.
Một điểm bất thường nữa là CPI không giảm vào những tháng sau Tết Nguyên đán mà
lại giảm vào hai tháng liên tiếp giữa năm: tháng 6 giảm 0,26% và tháng 7 giảm 0,27%.
Bên cạnh đó, nhóm hàng lương thực, thực phẩm những năm trước đây thường là nhóm
ngành hàng có mức tăng CPI cao nhất. Song, năm nay CPI của nhóm lương thực chỉ
tăng 3,26%, nhóm thực phẩm tăng 8,14%, thấp hơn mức tăng CPI bình quân chung
(9,21%). Trong khi đó, có tháng, nhóm ngành hàng tăng giá cao nhất lại rơi vào nhóm
hàng hóa, dịch vụ do Nhà nước quản lý giá là nhóm dịch vụ y tế, giáo dục.
Sang năm 2013, 2 tháng đầu năm, do trùng vào dịp Tết dương lịch và âm lịch, nhà nhà
sắm sửa đón năm mới nên giá cả nhích lên một chút vẫn có người mua. Sang tháng 3,
khi yếu tố đột biến qua đi, cung cầu không còn chênh lệch lớn mà giá cả giảm mạnh,
CPI quay đầu giảm 0,19% cho thấy người dân dè dặt trong chi tiêu. Theo ông Doanh,
đây là một trong những nguyên nhân đẩy CPI xuống mức âm, chứ không phải mặt
bằng giá đã rẻ hơn trong điều kiện kinh tế bình thường. Sang tháng 5/2013, CPI tiếp
tục giảm, chỉ còn 6,74%.
CPI giảm trong năm 2013 không phải là tín hiệu đáng mừng vì lý do chủ yếu của điều
này là do người dân cắt giảm chi tiêu, hậu quả là doanh nghiệp không bán được hàng
và rơi vào tình trạng khó khăn.
1.2.5. Cán cân thương mại
1.2.5.1. Xuất khẩu:
Tổng cục Thống kê Việt Nam (GSO) vừa công bố tình hình kinh tế xã hội cả nước
năm 2012. Theo đó, tình hình xuất nhập khẩu năm nay có nhiều chuyển biến tích cực
so với năm ngoái. Cụ thể:
Kim ngạch hàng hóa xuất khẩu tháng 12 ước tính đạt 10,4 tỷ USD, tăng 0,5% so với

tháng trước và tăng 15% so với năm 2011. Tính chung cả năm 2012, kim ngạch hàng
hóa xuất khẩu đạt 114,6 tỷ USD, tăng 18,3% so với năm 2011, bao gồm: Khu vực kinh
tế trong nước đạt 42,3 tỷ USD, tăng 1,3%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (gồm cả
GVHD: TS. Võ Thị Thúy Anh Trang 12
Bài tập lớn - Quản trị danh mục đầu tư Nhóm 8- Lớp CH K26-TNH2.ĐN
dầu thô) đạt 72,3 tỷ USD, tăng 31,2%. Nếu không kể dầu thô thì kim ngạch hàng hoá
xuất khẩu của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài năm nay đạt 63,9 tỷ USD, tăng
33,5% so với năm trước. Nếu loại trừ yếu tố giá, kim ngạch hàng hóa xuất khẩu năm
2012 tăng 18,9%.
Cơ cấu kim ngạch hàng hóa xuất khẩu năm nay chuyển dịch khá mạnh. Khu vực FDI
là "đầu tàu" xuất khẩu nhưng việc xuất khẩu chủ yếu thuộc nhóm các mặt hàng gia
công, thực thu ít ngoại tệ: Điện tử, máy tính và linh kiện; điện thoại các loại và linh
kiện, hàng dệt may, giày dép
Trong năm 2012, nhiều sản phẩm thuộc nhóm hàng công nghiệp có kim ngạch xuất
khẩu tăng mạnh như: Điện tử máy tính đạt 7,9 tỷ USD, tăng 69,1%; điện thoại và linh
kiện 12,6 tỷ USD, tăng 97,7%; máy móc, thiết bị phụ tùng 5,5 tỷ USD, tăng 26,9%
Cơ cấu kim ngạch hàng hóa xuất khẩu năm nay có sự thay đổi so với năm trước: Tỷ
trọng nhóm hàng công nghiệp nặng và khoáng sản ước tính đạt 51,7 tỷ USD, tăng
49,9% và chiếm 45,1% (Năm 2011 là 35,6%), chủ yếu do tăng kim ngạch của điện
thoại và linh kiện, tăng 6,2 tỷ USD (tăng 97,7%). Nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiểu
thủ công nghiệp đạt 39 tỷ USD, tương đương năm 2011 nhưng tỷ trọng giảm từ 40,3%
năm 2011 xuống 34,1% năm 2012. Nhóm hàng nông, lâm sản đạt 17,7 tỷ USD, tăng
18% so với năm trước nhưng tỷ trọng không đổi với 15,4%. Nhóm hàng thuỷ sản đạt
6,2 tỷ USD, xấp xỉ năm 2011 và tỷ trọng giảm từ 6,3% năm 2011 xuống 5,4% năm
2012.
Về thị trường hàng hóa xuất khẩu của nước ta năm 2012, EU vươn lên là thị trường
tiêu thụ hàng hóa lớn nhất với kim ngạch đạt 20,3 tỷ USD, tăng 22,5% so với năm
2011 và chiếm 17,7% tổng kim ngạch hàng hóa xuất khẩu. Một số mặt hàng xuất khẩu
chủ lực vào thị trường EU chiếm tỷ trọng cao là: Điện thoại chiếm 43% tổng kim
ngạch điện thoại xuất khẩu; giày dép chiếm 36%; máy tính chiếm 19%; hàng dệt may

chiếm 16%, tiếp đến là Hoa Kỳ 19,6 tỷ USD, tăng 15,6% và chiếm 17,1%; ASEAN
17,3 tỷ USD, tăng 27,2% và chiếm 15,1%; Nhật Bản 13,1 tỷ USD, tăng 21,4% và
chiếm 11,4%; Trung Quốc 12,2 tỷ USD, tăng 10% và chiếm 10,7%.
1.2.5.2. Nhập khẩu:
Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu tháng Mười Hai ước tính đạt 10,6 tỷ USD, tăng 6,5%
so với tháng trước và tăng 13% so với năm 2011. Kim ngạch hàng hóa nhập khẩu năm
2012 đạt 114,3 tỷ USD, tăng 7,1% so với năm trước, bao gồm: Khu vực kinh tế trong
nước đạt 54 tỷ USD, giảm 6,7%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 60,3 tỷ USD,
tăng 23,5%. Mức tăng kim ngạch nhập khẩu năm nay đạt thấp nhất kể từ năm 2002 trở
lại đây (Không tính đến năm 2009).Nếu loại trừ yếu tố giá, kim ngạch hàng hóa nhập
khẩu năm 2012 tăng 7,4% so với năm 2011.
GVHD: TS. Võ Thị Thúy Anh Trang 13
Bài tập lớn - Quản trị danh mục đầu tư Nhóm 8- Lớp CH K26-TNH2.ĐN
Về mặt hàng nhập khẩu năm nay, kim ngạch một số mặt hàng phục vụ gia công, lắp
ráp tăng là: Điện tử, máy tính và linh kiện đạt 13,1 tỷ USD, tăng 66,8%; vải đạt 7 tỷ
USD, tăng 4,7%; nguyên phụ liệu dệt may, giày dép đạt 3,2 tỷ USD, tăng 7,9%. Thực
trạng trênphản ánh nhu cầu của đầu tư và tiêu dùng trong nước thấp. Tuy nhiên, đáng
chú ý là sự gia tăng kim ngạch của một số mặt hàng có năng lực sản xuất trong nước
cao như: Sản phẩm chất dẻo tăng 23,5%; rau quả tăng 14%; giấy tăng 8,9%. Nhập
khẩu ô tô năm nay ước tính đạt 2,1 tỷ USD, giảm 32,5%, trong đó ô tô nguyên chiếc
605 triệu USD, giảm 41,2%, mức giảm mạnh do chính sách hạn chế phương tiện ô tô
của Nhà nước cũng như doanh nghiệp và người dân thắt chặt chi tiêu.
Cơ cấu kim ngạch hàng hóa nhập khẩu năm nay cũng có sự thay đổi so với năm 2011,
nhóm tư liệu sản xuất ước tính đạt 106,5 tỷ USD, chiếm tỷ trọng cao nhất với 93,2%,
tăng so với mức 90,6% của năm 2011, chủ yếu do tỷ trọng nhóm hàng máy móc thiết
bị, dụng cụ phụ tùng có liên quan đến lắp ráp hàng xuất khẩu tăng từ 29% lên 36,9%.
Về thị trường hàng hóa nhập khẩu năm nay, Trung Quốc tiếp tục là thị trường lớn nhất
của nước ta với kim ngạch đạt 28,9 tỷ USD, tăng 17,6% so với năm 2011 và chiếm
25,3% tổng kim ngạch hàng hóa nhập khẩu; tiếp đến là ASEAN đạt 21 tỷ USD, tăng
0,3% và chiếm 18,3%; Hàn Quốc đạt 15,6 tỷ USD, tăng 18,4% và chiếm 13,6%; Nhật

Bản đạt 11,7 tỷ USD, tăng 12,2% và chiếm 10,2%; EU đạt 8,8 tỷ USD, tăng 13,3% và
chiếm 7,7%; Hoa Kỳ đạt 4,7 tỷ USD, tăng 4,7% và chiếm 4,1%.
Năm 2012 xuất siêu 284 triệu USD và là năm đầu tiên Việt Nam xuất siêu hàng hóa kể
từ năm 1993. Trong năm chỉ có ba tháng nhập siêu ở mức thấp, các tháng còn lại đều
xuất siêu, đặc biệt là các tháng cuối năm. Nguyên nhân chủ yếu do suy giảm của sản
xuất và tiêu dùng trong nước nên nhập khẩu tăng thấp hơn nhiều so với xuất khẩu.
Đáng chú ý là xuất siêu hàng hóa chủ yếu ở khu vực có vốn đầu tư nước ngoài với
mức xuất siêu đạt gần 12 tỷ USD, tập trung ở nhóm hàng gia công lắp ráp. Ngược lại,
khu vực kinh tế trong nước nhập siêu 11,7 tỷ USD.
1.2.5.3. Xuất, nhập khẩu dịch vụ:
Kim ngạch dịch vụ xuất khẩu năm 2012 ước tính đạt 9,4 tỷ USD, tăng 6,3% so với
năm 2011, trong đó dịch vụ du lịch đạt 6,6 tỷ USD, tăng 18%; dịch vụ vận tải 2,1 tỷ
USD, giảm 15,5%. Kim ngạch dịch vụ nhập khẩu năm 2012 ước tính đạt 12,5 tỷ USD,
tăng 5,7% so với năm 2011, trong đó dịch vụ vận tải đạt 8,7 tỷ USD, tăng 6%; dịch vụ
du lịch 1,9 tỷ USD, tăng 8,5%. Nhập siêu dịch vụ năm 2012 là 3,1 tỷ USD, tăng 3,8%
so với năm 2011 và bằng 32,8% kim ngạch dịch vụ xuất khẩu năm 2012.
II. PHÂN TÍCH NGÀNH
Trong giai đoạn kinh tế suy thoái, khủng hoảng như hiện nay, mặc dù có sự tăng
trưởng của nhiều lĩnh vực công nghệ hiện đại hơn, nông nghiệp vẫn là ngành quan
GVHD: TS. Võ Thị Thúy Anh Trang 14
Bài tập lớn - Quản trị danh mục đầu tư Nhóm 8- Lớp CH K26-TNH2.ĐN
trọng nhất tại Việt Nam. Ngành hàng tiêu dùng lại là ngành ít biến động do đáp ứng
nhu cầu cấp thiết của người tiêu dùng. Ngành công nghiệp sữa đang là ngành chế biến
đầy tiềm năng “đẻ trứng vàng” tại Việt Nam hiện nay. Ngành dược lại là ngành đang
“hái ra tiền” trong giai đoạn hiện nay-giai đoạn mà bệnh tật, tai nạn giao thông đang
xưng bá.
Do đó, nhóm chúng tôi đưa ra quyết định lựa chọn 4 ngành để đầu tư trên thị trường
chứng khoán như sau:
• Ngành hàng tiêu dùng
• Ngành chế biến sữa

• Ngành phân bón
• Ngành dược phẩm
Lý do lựa chọn các ngành trên của nhóm chúng tôi như sau:
2.1. Ngành hàng tiêu dùng:
Ngành hàng tiêu dùng được dự báo thu hút nhiều sự quan tâm đầu tư nhất trong năm
2013 nhờ mức sinh lợi và an toàn hơn so với các ngành khác trong bối cảnh kinh tế
khó khăn.
Khảo sát do Công ty Bain &Company và SVCA tiến hành vừa qua cho thấy, ngành
hàng tiêu dùng đang có sức hấp dẫn cao do nền tảng thị trường tiêu dùng Việt Nam
vẫn rất tốt, đặc biệt tỷ lệ dân số trẻ cao và thu nhập ngày càng tăng. Ngành hàng tiêu
dùng của Việt Nam được dự báo tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ như những năm qua,
dựa trên sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ, mức sống gia đình người Việt được cải thiện
và tiêu dùng trong nước gia tăng tương ứng. Lối sống bận rộn và thu nhập gia tăng sẽ
thúc đẩy sức tiêu thụ các mặt hàng thực phẩm tiện lợi và đóng gói. Tuy giá cả vẫn là
yếu tố quan trọng nhất trong quyết định mua sắm, nhưng chất lượng và thương hiệu
đang ảnh hưởng đến thị hiếu tiêu dùng ngày càng thông minh tại Việt Nam.
Phân tích rủi ro:
 Ngành công nghiệp chế biến thực phẩm nhìn chung vẫn còn rất manh mún.
 Cơ sở hạ tầng của Việt Nam vẫn còn yếu. Trục đường bộ, đường sắt và hải
cảng không đáp ứng đủ cho sự tăng trưởng kinh tế của đất nước cũng như
liên kết với thế giới bên ngoài.
 Sự phát triển của ngành này cũng phụ thuộc và chịu ảnh hưởng rất nhiều vào
thị trường xuất khẩu, với những yêu cầu khắt khe về an toàn thực phẩm, chất
lượng và sức ép cạnh tranh với các nước trong khu vực và trên thế giới.
GVHD: TS. Võ Thị Thúy Anh Trang 15
Bài tập lớn - Quản trị danh mục đầu tư Nhóm 8- Lớp CH K26-TNH2.ĐN
 Tình hình hàng giả, hàng lậu, hàng kém chất lượng về an toàn vệ sinh thực
phẩm cũng khá phổ biến.
Triển vọng ngành:
 Việt Nam là một nước có nền kinh tế thị trường phát triển nhanh nhất trong

khu vực với tăng trưởng GDP trung bình hằng năm 14,1%(2007-2011), thu
nhập gia tăng nên chi tiêu cũng gia tăng nhiều trong thời gian gần đây.
 Các sản phẩm nông nghiệp trong nước đa dạng và phong phú tạo sự ổn định
về nguồn cung ứng nguyên liệu và giá cho các nhà sản xuất trong nước - một
thế mạnh quan trọng trong giai đoạn bất ổn toàn cầu hiện nay.
 Thị trường trong nước rộng lớn, cơ hội xuất khẩu tăng, chi phí lao động thấp
cùng với sự thành công trong tư nhân hóa các công ty thực phẩm đem đến
nhiều cơ hội đầu tư hơn tại Việt Nam.
 Mức thu nhập gia tăng và lối sống thay đổi, nhất là ở khu vực đô thị, kéo
theo nhu cầu tiêu dùng về các loại đồ ăn nhẹ, các mặt hàng thực phẩm đắt
tiền và tiện lợi tăng cao.
 Ngành chế biến thực phẩm là một trong những ngành, nghề được hưởng
chính sách khuyến công Theo Nghị định 45/2012/NĐ-CP của Chính phủ,
được hưởng những ưu đãi về: tổ chức đào tạo nghề, hổ trợ nâng cao năng lực
quản lý, hỗ trợ xây dựng mô hình trình diễn kỹ thuật, chuyển giao công nghệ,
phát triển sản phẩm, cung cấp thông tin thị trường, hỗ trợ liên doanh, liên kết,
hợp tác quốc tế
Khuyến nghị đầu tư:
Cổ phiếu ngành hàng tiêu dùng là cổ phiếu hấp dẫn nhà đầu tư trong ngắn hạn và dài
hạn.
2.2. Ngành chế biến sữa:
Những năm qua thị trường sữa Việt Nam phát triển khá nhanh, nếu như những năm
90, chỉ có một hoặc hai nhà cung cấp sữa thì hiện nay có đến 72 doanh nghiệp kinh
doanh trong lĩnh vực này.
Trong năm 2013, ngành sữa tươi Việt Nam được kỳ vọng sẽ tiếp tục tăng trưởng ở
mức cao. Một phần nguyên nhân là do thu nhập trên đầu người của người Việt liên tục
tăng, nhu cầu các sản phẩm từ sữa cao trong khi sản xuất trong nước chưa thể đáp ứng
đủ nhu cầu.
Theo kết quả nghiên cứu của công ty Nielsen công bố hôm nay 16/5, trong 12 tháng
tính đến tháng 3/2013, tốc độ tăng trưởng sản lượng của ngành hàng tiêu dùng (trừ bia)

GVHD: TS. Võ Thị Thúy Anh Trang 16
Bài tập lớn - Quản trị danh mục đầu tư Nhóm 8- Lớp CH K26-TNH2.ĐN
tăng 11% so với cùng kỳ năm trước, và tăng 15% về doanh thu. Trong đó, tăng trưởng
sản lượng của sản phẩm chế biến từ sữa tăng 19% so với một năm trước, và tăng
trưởng 22% về doanh thu. Ông Vaughan Ryan, Tổng giám đốc Nielsen Việt Nam, cho
biết, đây là con số ấn tượng, cho thấy người tiêu dùng Việt Nam đang ngày càng quan
tâm đến các sản phẩm bảo vệ sức khỏe hơn dù kinh tế vẫn còn nhiều bất ổn.
Hiện tại, lượng cung sữa tươi nội địa chỉ có thể đáp ứng khoảng 25% nhu cầu sản xuất
của các doanh nghiệp, 75% còn lại vẫn là sữa bột, phần lớn được nhập khẩu từ New
Zealand, Mỹ và Hà Lan. Các doanh nghiệp sữa Việt Nam đang đứng trước sự cạnh
tranh gay gắt với các DN sữa nước ngoài. Trong nửa năm đầu 2012, giá sữa bột trên
thị trường thế giới tiếp tục xu hướng giảm do lực cầu yếu, ảnh hưởng từ cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu. Điều này giúp các doanh nghiệp sản xuất sữa trong nước
được hưởng lợi khi giảm được lượng lớn chi phí đầu vào.
Mặc dù giá đầu vào giảm đáng kể, các doanh nghiệp sữa hàng đầu vẫn tiến hành nâng
giá thành phẩm. Theo thống kê, vào cuối năm 2011, đầu năm 2012, Vinamilk đã tăng
giá bán trung bình từ 5-7%, sữa Cô gái Hà Lan tăng 5%, Abbot tăng 9% giá, Có nhiều
lý do giúp các doanh nghiệp tăng giá sữa, trong đó phải kể đến nguyên nhân nhu cầu
về các sản phẩm về sữa tại Việt Nam liên tục tăng qua các năm, khoảng từ 7-8%.
Năm 2012, thị trường sữa tươi Việt Nam chứng kiến cuộc chạy đua quyết liệt giữa các
nhà sản xuất lớn, đặc biệt là trong phân khúc sữa tươi uống. Các doanh nghiệp hàng
đầu như Vinamilk, Cô gái Hà Lan, TH Milk và Ba Vi Milk liên tục tăng cường đầu tư
để phát triển nguồn sữa tươi.
Triển vọng ngành sữa:
Ngành sữa Việt Nam trong những năm qua luôn duy trì được tốc độ tăng trưởng nhanh
và tỷ suất lợi nhuận cao.
Trong một phân tích mới đây, CTCP Chứng khoán Bảo Việt (BVSC) đã đưa ra những
đánh giá khái quát về thị trường sữa Việt Nam. Theo đó, ngành sữa là một trong
những ngành có tính ổn định cao, ít bị tác động bởi chu kỳ kinh tế. Việt Nam đang là
quốc gia có tốc độ tăng trưởng ngành sữa khá cao trong khu vực. Giai đoạn 1996-

2006, mức tăng trường bình quân mỗi năm của ngành đạt 15,2%, chỉ thấp hơn so với
tốc độ tăng trưởng 16,1%/năm của Trung Quốc. Thị trường sữa trong nước có thể tiếp
tục duy trì được tốc độ tăng trưởng cao trong những năm tới, do mức tiêu thụ sữa bình
quân đầu người của Việt Nam hiện tại vẫn đang ở mức thấp. Bên cạnh đó, tiềm năng
của thị trường sữa vẫn còn rất lớn khi mà tiêu dùng sản phẩm sữa của Việt Nam vẫn
còn rất thấp. Mức tiêu dùng sữa bình quân của Việt Nam chỉ đạt khoảng 16 kg/năm,
thấp hơn khá nhiều so với các nước châu Á khác.
GVHD: TS. Võ Thị Thúy Anh Trang 17
Bài tập lớn - Quản trị danh mục đầu tư Nhóm 8- Lớp CH K26-TNH2.ĐN
Sang năm 2013, các cổ phiếu ngành sữa có thể sẽ tiếp tục được chứng kiến tăng
trưởng doanh thu cao, tuy nhiên, lợi nhuận có thể sẽ không thể tăng mạnh. Năm nay,
ngành sữa tươi Việt Nam được kỳ vọng sẽ tiếp tục tăng trưởng ở mức cao. Việc tăng
trưởng ở mức cao và ổn định của ngành một phần là do thu nhập trên đầu người của
người Việt liên tục tăng, nhu cầu các sản phẩm từ sữa cao trong khi sản xuất trong
nước chưa thể đáp ứng đủ nhu cầu.
Khuyến nghị đầu tư:
Cổ phiếu ngành chế biến sữa là cổ phiếu hấp dẫn nhà đầu tư trong ngắn hạn và dài
hạn.
2.3. Ngành phân bón:
Nhu cầu phân bón trong nước tăng khoảng 5% so với 2012. Theo dự báo của Bộ Nông
nghiệp & Phát triển Nông thôn, tổng nhu cầu tiêu thụ phân bón các loại trong năm
2013 đạt khoảng 10,3 triệu tấn, tăng 5% so với năm 2012. Trong đó NPK chiếm tỷ
trọng chủ yếu (3,8 triệu tấn), tiếp theo là urea (2,2 triệu tấn), lân (1,8 triệu tấn), SA
(850 ngàn tấn), kali (950 ngàn tấn) và DAP (900 ngàn tấn).
Lượng phân bón nhập khẩu có thể giảm mạnh trong năm 2013. Năm 2013 sẽ là năm
đầu tiên nguồn cung phân đạm trong nước đáp ứng đủ nhu cầu tiêu thụ do các Nhà
máy Đạm Cà Mau và Đạm Ninh Bình có thể hoạt động tối đa công suất, đưa tổng công
suất sản xuất urea lên 2,34 triệu tấn, tương đương với nhu cầu nội địa (2,2 triệu tấn).
Trong năm 2012, các Nhà máy Đạm Cà Mau và Đạm Ninh Bình mới đạt 60% và 10%
công suất thiết kế. Nguồn cung phân DAP năm 2013 cũng có thể đạt 330.000 tấn do

nhà máy DAP Đình Vũ vận hành 100% công suất. Lượng phân bón nhập khẩu trong
năm 2013 (chủ yếu là các loại phân bón Việt Nam chưa sản xuất được như Kali và
SA) được dự báo khoảng 2,5 triệu tấn, giảm mạnh khoảng 1,5 triệu tấn so với 2012.
Giá phân bón dự kiến ổn định trong năm 2013. Do nguồn cung các loại phân bón
chính (NPK, lân, urea) đáp ứng tương đối đủ so với nhu cầu, giá phân bón năm 2013
có thể không có nhiều biến động. Tuy nhiên, giá phân urea trung bình trong năm 2013
có thể giảm so với 2012 do nguồn cung tăng mạnh khi các nhà máy mới đi vào hoạt
động và phải cạnh tranh gay gắt để tạo lập thị trường.
GVHD: TS. Võ Thị Thúy Anh Trang 18
Bài tập lớn - Quản trị danh mục đầu tư Nhóm 8- Lớp CH K26-TNH2.ĐN
(Nguồn: Tổng cục Thống kê)
Khuyến nghị đầu tư:
Trong các doanh nghiệp phân bón niêm yết trên sàn hiện nay, DPM và LAS là
hai doanh nghiệp lớn nhất và cũng đáng quan tâm nhất trong ngành. Mặc dù hoạt động
GVHD: TS. Võ Thị Thúy Anh Trang 19
Bài tập lớn - Quản trị danh mục đầu tư Nhóm 8- Lớp CH K26-TNH2.ĐN
sản xuất kinh doanh của DPM sẽ khó khăn hơn trong năm 2013 khi phải cạnh tranh
với các nhà máy mới tuy nhiên DPM vẫn là doanh nghiệp có ưu thế hơn cả do giá
thành sản xuất thấp, máy móc đã hết khấu hao, hệ thống phân phối xây dựng rộng
khắp và thương hiệu được thiết lập vững chắc. Do vậy, DPM vẫn hoàn toàn có khả
năng giữ vững được thị phần trong năm 2013. Tương tự như vị thế của DPM trong thị
trường phân đạm, LAS có thị phần lớn nhất trong thị trường phân lân và NPK với 80%
thị phần supe lân và 20% thị phần NPK, có hoạt động sản xuất cơ bản tốt và tình hình
vay nợ lành mạnh. Do đó, bên cạnh DPM, LAS cũng là cổ phiếu hấp dẫn để có thể
xem xét đầu tư trong dài hạn.
2.4. Ngành dược phẩm:
Ngành dược phẩm là một ngành quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, có chức
năng sản xuất các loại thuốc phục vụ cho việc chữa bệnh, phục hồi và tăng cường sức
khỏe của con người. Thị trường dược phẩm Việt Nam được đánh giá cao về mức độ
tăng trưởng. Tuy nhiên, DN nội không đủ sức giành thị trường, DN ngoại không mặn

mà đầu tư nhà máy tự sản xuất nên Việt Nam vẫn phải phụ thuộc vào thuốc nhập khẩu
và ngành dược không có nhiều cơ hội phát triển.
Theo báo cáo về thị trường dược phẩm 2013 của Công ty Nghiên cứu thị trường
Business Monitor International Ltd (Anh), năm 2008, thị trường dược phẩm Việt Nam
đạt doanh thu 1,1 tỷ USD. Năm 2009, con số này tiếp tục tăng lên 1,2 tỷ USD và dự
báo năm 2013 sẽ tăng lên 1,7 tỷ USD, đạt mức tăng trưởng khoảng 25%/năm, nằm
trong nhóm thị trường có mức tăng trưởng cao nhất trên thế giới về chi tiêu cho dược
phẩm và các dịch vụ y tế. Con số này có thể đạt hơn 5 tỷ USD vào năm 2015. Dù vậy
các công ty dược trong nước chỉ mới đáp ứng 40% nhu cầu, 60% còn lại phụ thuộc
vào nhập khẩu.
Trong năm 2012, ngành dược phẩm tăng trưởng ổn định, kém cạnh tranh trên
“sân nhà”. Là ngành có vai trò quan trọng do sản phẩm thuộc nhu cầu thiết yếu, ngành
Dược vẫn đạt được mức tăng trưởng ổn định trong bối cảnh khó khăn của nền kinh tế.
Năm 2011, tổng tiền thuốc sử dụng tại thị trường dược phẩm Việt Nam đạt 2,43 tỷ
USD (tăng 27,1% so với năm trước). Tuy nhiên, giá trị sản xuất trong nước hiện chỉ
đáp ứng được 50% thị trường tiêu thụ thị trường nội địa, dù chỉ số sản xuất thuốc, hóa
dược và dược liệu có mức tăng trưởng tốt (tính chung cả năm 2012, chỉ số này tăng
14,9% so với cùng kỳ 2011). Chỉ số tiêu thụ của ngành 11 tháng đầu năm 2012 chỉ
tăng 0,9% do tỷ lệ giá trị hàng tồn kho ở mức khá cao (10,6%) so với giá trị sản xuất
dự kiến cả năm 2012. Những quy định ngặt nghèo và tiêu chuẩn sở hữu trí tuệ, chất
lượng dịch vụ y tế thấp do ít được tài trợ tiếp tục là những yếu tố cản trở sự phát triển
mạnh mẽ của ngành công nghiệp sản xuất dược trong nước, biểu hiện ở giá trị thuốc
sản xuất trong nước so với tổng giá trị tiền thuốc sử dụng có xu hướng giảm dần, từ
52.9% năm 2007 đến 47.8% năm 2011.
GVHD: TS. Võ Thị Thúy Anh Trang 20
Bài tập lớn - Quản trị danh mục đầu tư Nhóm 8- Lớp CH K26-TNH2.ĐN
Thị trường Dược phẩm trong nửa đầu năm 2012 ổn định, giá cả không biến động
nhiều. Tuy nhiên, từ cuối tháng 6, nhiều mặt hàng dược phẩm rục rịch tăng giá. Liên
tục các tháng 7,8,9 của Quý III, giá nhiều mặt hàng dược phẩm tăng 7% - 10%, chỉ số
giá của nhóm thuốc và dịch vụ y tế lần lượt tăng 3,4%; 5,4% và 17%. Việc tăng giá

các mặt hàng dược phẩm do các yếu tố sản xuất đầu vào như: điện, nguyên phụ liệu,
xăng dầu, chi phí vận tải … tăng.
Các doanh nghiệp trong ngành dược vẫn giữ được đà tăng trưởng; hiệu quả hoạt
động sụt giảm ở phân ngành phân phối. 9 tháng đầu năm 2012, tăng trưởng doanh thu
và lợi nhuận sau thuế bình quân của các doanh nghiệp dược phẩm niêm yết tương ứng
11,9% và 10,3% so với cùng kỳ 2011. Tuy nhiên, các chỉ tiêu bình quân về hiệu quả
hoạt động của các doanh nghiệp trong ngành giảm nhẹ. Các doanh nghiệp thuộc phân
khúc sản xuất đều đạt mức tăng trưởng tốt (trừ DHT); các doanh nghiệp tiếp tục duy
trì tốc độ tăng trưởng doanh thu, lợi nhuận tốt là DHG, PPC, SPM và TRA. Ngược lại,
kết quả không khả quan đối với các doanh nghiệp thuộc phân ngành kinh doanh, phân
phối như DBT, LDP, và VMD do sử dụng đòn bẩy tài chính ở mức cao.
Kết quả giao dịch cổ phiếu ngành Dược: Cổ phiếu ngành Dược ít chịu biến động
giá hơn so với biến động chung của thị trường, ít khả năng bật mạnh ở giai đoạn thị
trường tăng điểm nhưng thể hiện tính “phòng vệ” khá chắc chắn ở những giai đoạn thị
trường đi xuống. Cổ phiếu ngành Dược chỉ bắt đầu tăng mạnh, và vượt Vnindex khi
thị trường chung rơi vào giai đoạn sụt giảm mạnh. So với đầu năm, cổ phiếu ngành
dược tính đến ngày 28/12/2012 đã tăng 40%, nhưng thanh khoản ở mức thấp. Ngoại
trừ TRA và LDP có mức tăng giá mạnh, số còn lại khá ổn định và ít biến động hơn chỉ
số giá bình quân của ngành.
Những khó khăn của các doanh nghiệp trong ngành:
Phụ thuộc nguyên vật liệu nhập khẩu: Do ngành công nghiệp hóa dược của
Việt Nam còn hạn chế, nên có đến 90% nguyên liệu cho sản xuất thuốc tân dược
phải nhập khẩu. Với việc phụ thuộc quá nhiều vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu,
ngành dược Việt Nam đang gặp một số rủi ro như rủi ro tỷ giá, rủi ro biến động
giá cả nguyên liệu, rủi ro chất lượng nguyên liệu và rủi ro thương mại.
Sản phẩm chủ yếu là hàng có giá trị không cao: do sản phẩm của các công ty
dược trong nước hầu hết là những loại thuốc điều trị bệnh thông thường thường được
bán tự do trên thị trường nên giá trị không cao.
Hệ thống phân phối đặc trưng, chủ yếu thông qua hệ thống bệnh viện và các cơ
sở điều trị ở các cấp. Đây là kênh phân phối mà hầu hết các công ty dược luôn mong

muốn và quan tâm phát triển do số lượng tiêu thụ rất lớn. Các doanh nghiệp dược
tiếp cận và mở rộng thị trường thông qua hình thức chi hoa hồng hoặc chiết khấu
cho các bác sĩ và dược sĩ của các bệnh viện. Tuy nhiên, bên cạnh ưu điểm doanh số
GVHD: TS. Võ Thị Thúy Anh Trang 21
Bài tập lớn - Quản trị danh mục đầu tư Nhóm 8- Lớp CH K26-TNH2.ĐN
lớn mà kênh phân phối này đem lại, các công ty dược trong nước cũng đang đối
mặt với những khó khăn do chính hệ thống phân phối này tạo ra như: bán hàng qua
bệnh viện chiếm dụng nhiều vốn lưu động của các công ty dược do bệnh viện
thông thường chỉ thanh toán tiền hàng vào cuối năm.
Đối mặt với sự cạnh tranh đến từ các tập đoàn dược phẩm nước ngoài.
Ngành công nghiệp hóa dược chưa được chú trọng đầu tư.
Chính sách của chính phủ về kiểm soát giá: Thuốc là mặt hàng nhạy cảm do
có khả năng tác động khá lớn .đến đời sống xã hội, do đó Chính phủ đã đưa dược
phẩm vào danh sách kiểm soát giá
Triển vọng ngành dược 2013:
Theo BMI tốc độ tăng trưởng tiêu thụ dược phẩm tại Việt Nam được dự đoán
tăng 14,5%/năm cho đến năm 2015. Mức chi tiêu cho tiền thuốc bình quân đầu người
nước ta còn thấp (23 USD/người/năm) so với các nước trong khu vực (31-32
USD/người/năm) nên ngành Dược vẫn có tiềm năng tăng trưởng tốt trong ngắn hạn và
dài hạn. Kết quả kinh doanh 2013 của các công ty dược còn chịu tác động của những
nhân tố sau:
- Các chính sách quản lý của Nhà nước có tác động mạnh mẽ đến ngành Dược:
Chính sách quản lý về sản xuất và kinh doanh và phân phối thuốc; quản lý về chất
lượng và giá thuốc …;
- Biến động tỷ giá ngoại tệ và giá nguyên phụ liệu dược trên thế giới (Việt Nam
nhập khẩu 50% dược phẩm tiêu thụ và hơn 90% nguyên phụ liệu đầu vào).
- Diễn biến lạm phát và biến động lãi suất tín dụng.
Trong giai đoạn tốc độ tăng trưởng của ngành nhanh nên năm 2013 sẽ tiếp tục là
một năm tăng trưởng tốt của các Công ty Dược. Sự cạnh tranh càng gia tăng giữa các
doanh nghiệp trong ngành ở phân khúc sản xuất đối với cả dòng sản phẩm phổ thông

(giữa các doanh nghiệp trong nước); với cả dòng sản phẩm đặc trị (cạnh tranh với sản
phẩm nhập khẩu). Yếu tố nguyên phụ liệu, tỷ giá và lãi suất trong năm tới dự báo sẽ
không có nhiều biến động, nên lợi nhuận của các doanh nghiệp dược phẩm vẫn tăng
trưởng ổn định.
Khuyến nghị đầu tư:
Đầu tư ngắn hạn: Ngành Dược không phù hợp với nhà đầu tư ngắn hạn do thanh
khoản thấp và thiếu thông tin đột biến; trong những giai đoạn thị trường điều chỉnh
GVHD: TS. Võ Thị Thúy Anh Trang 22
Bài tập lớn - Quản trị danh mục đầu tư Nhóm 8- Lớp CH K26-TNH2.ĐN
mạnh, giá cổ phiếu ngành Dược cũng suy giảm ít hơn nên không có nhiều cơ hội bật
mạnh.
Đầu tư trung và dài hạn: Ngành Dược có tốc độ tăng trưởng khá tốt và có dòng
tiền tương đối ổn định, được coi như cổ phiếu “phòng vệ” an toàn trước những biến
động chung của thị trường nên thích hợp cho đầu tư dài hạn. Trong nhóm các cổ phiếu
ngành dược, các doanh nghiệp thiên về sản xuất, có khả năng tăng trưởng cao và tình
hình tài chính lành mạnh có thể xem xét đầu tư như DHG, SPM, TRA và OPC.
III: PHÂN TÍCH CÔNG TY
A. Phân tích công ty Dược Hậu Giang (DHG)
1. Sơ lược về công ty cổ phần Dược Hậu Giang:
 Tên công ty: Công ty cổ phần Dược Hậu Giang
 Mã chứng khoán: DHG
Lịch sử hình thành:
Công ty Cổ phần Dược Hậu Giang tiền thân là Xí nghiệp Dược phẩm 2/9, thành lập
ngày 02/9/1974. Tháng 11/1975, Xí nghiệp Dược phẩm 2/9 chuyển thành Công ty
Dược phẩm Tây Cửu Long, vừa sản xuất vừa cung ứng thuốc phục vụ nhân dân Tây
Nam Bộ. Đến năm 1976, Công ty Dược phẩm Tây Cửu Long đổi tên thành Công ty
Dược thuộc Ty Y tế tỉnh Hậu Giang.
Từ năm 1976 - 1979: Theo Quyết định 15/CP của Chính phủ, Công ty Dược thuộc Ty
Y tế tỉnh Hậu Giang tách thành 03 đơn vị độc lập: Xí nghiệp Dược phẩm 2/9, Công ty
Dược phẩm và Công ty Dược liệu. Ngày 19/9/1979, 3 đơn vị trên hợp nhất thành Xí

nghiệp Liên hợp Dược Hậu Giang.
Năm 1992: Sau khi chia tách tỉnh Hậu Giang thành 02 tỉnh Cần Thơ và Sóc Trăng,
thành lập doanh nghiệp Nhà nước Xí nghiệp Liên hợp Dược Hậu Giang, là đơn vị
hạch toán kinh tế độc lập trực thuộc Sở Y tế Tp. Cần Thơ.
Ngày 02/09/2004: Công ty Cổ phần Dược Hậu Giang chính thức thành lập và đi vào
hoạt động với vốn điều lệ ban đầu là 80.000.000.000 đồng.
2. Phân tích tình hình tài chính của Doanh nghiệp DHG:
2.1 Kết quả kinh doanh
GVHD: TS. Võ Thị Thúy Anh Trang 23
Bài tập lớn - Quản trị danh mục đầu tư Nhóm 8- Lớp CH K26-TNH2.ĐN
 Doanh thu thuần: Năm 2011 DTT của Công ty tăng 22,43% so với năm 2010, đến
30/06/2012 DTT đạt hơn 2,931 tỷ đồng, bằng 17,67% DTT của cả năm 2011.
 Lợi nhuận sau thuế: Năm 2011 LNST của Công ty tăng 9,025% so với năm 2010,
đến 30/06/2012, Công ty đạt LNST hơn 485 tỷ đồng, bằng 16,941% số thực hiện
của năm 2011.
Các số liệu trên cho thấy Công ty có mức tăng trưởng doanh thu và lợi nhuận tốt. Kết
quả kinh doanh cho thấy, DHG tiếp tục phát triển với các chỉ tiêu luôn vượt kế hoạch
và năm sau luôn tăng trưởng so với năm trước.
2.2 Các chỉ tiêu tài chính cơ bản
STT Q1 2013 2012 2011 2010 2009
Tỷ lệ tài chính
1 Tài sản ngắn 76% 76% 75% 79% 80%
GVHD: TS. Võ Thị Thúy Anh Trang 24
Stt Chỉ tiêu Số liệu Công ty DHG (Triệu đồng) Tăng
trư
ởng
201
1/2
010
Tăng

trư
ởng
201
2/2
011
2010 2011 2012
1 Doanh thu thuần 2,034,525 2,490,880 2,931,076 122,43% 117,67%
2 Lợi nhuận sau
thuế
381,162 415,526 485,922 109,025% 116,941%
Bài tập lớn - Quản trị danh mục đầu tư Nhóm 8- Lớp CH K26-TNH2.ĐN
hạn /Tổng tài sản
2
Tài sản dài hạn
/Tổng tài sản 24% 24% 25% 21% 20%
3
Nợ phải trả/Tổng
nguồn vốn 29% 28% 30% 29% 33%
4
Nợ phải trả/Vốn
chủ sở hữu 42% 40% 44% 41% 49%
5
Vốn chủ sở
hữu/Tổng nguồn
vốn 70% 71% 69% 70% 67%
6
Thanh toán hiện
hành 278% 278% 274% 306% 252%
7 Thanh toán nhanh 192% 200% 179% 232% 188%
8

Thanh toán nợ
ngắn hạn 104% 110% 86% 136% 121%
9
Vòng quay Tổng
tài sản 130% 134% 131% 122% 134%
10
Vòng quay tài sản
ngắn hạn 170% 177% 170% 153% 175%
11
Vòng quay vốn chủ
sở hữu 184% 191% 187% 177% 204%
12
Vòng quay Hàng
tồn kho 295% 290% 297% 311% 267%
13
Lợi nhuận trước
thuế/Doanh thu
thuần 20% 20% 20% 21% 23%
14
Lợi nhuận sau
thuế/Doanh thu
thuần 17% 17% 17% 19% 21%
15
Lợi nhuận trước
thuế/Tổng tài sản
(ROA) 21% 22% 22% 23% 28%
16
Lợi nhuận sau
thuế/Vốn chủ sở
hữu (ROE) 29% 32% 32% 33% 42%

Tỷ lệ tăng trưởng tài chính
1
Lợi nhuận trên vốn
đầu tư (ROIC) 32% 33% 33% 38% 44%
2
Tỷ lệ tăng trưởng
doanh thu 240% 17% 22% 16% 17%
3
Lợi nhuận trên cổ
phiếu (EPS) 4% 17% 8% 8% 177%
GVHD: TS. Võ Thị Thúy Anh Trang 25

×