Tải bản đầy đủ (.pdf) (56 trang)

thông tin về bệnh gan - CHẾ ĐỘ ĂN- DINH DƯỠNG- TẬP LUYỆN CHO NGƯỜI BỆNH GAN pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (466.2 KB, 56 trang )

CHẾ ĐỘ ĂN- DINH DƯỠNG- TẬP LUYỆN CHO
NGƯỜI BỆNH GAN
Sau khi được chẩn đoán bệnh gan, những câu hỏi đầu tiên mà người
bệnh thường hỏi là tập trung vào chế độ dinh dưỡng và tập luyện. Thông thường
những câu hỏi được hỏi bao gồm: thức ăn nào thì tốt cho gan? Có những thức ăn
có hại cho gan không? Bổ sung vitamin thì hữu ích không? Bao nhiêu protein tôi
nên ăn cho bữa ăn của mình? Tập luyện có phải là một ý kiến tốt? Những môn thể
thao nào thì nên tránh ? Thật không may, nhiều bác sĩ thiếu những kiến thức
chuyên môn để cung cấp những câu trả lời cụ thể cho những câu hỏi này hay
tương tự như vậy. Một lý do cho điều này là vì hầu hết các trường y đã không
dành đủ thời gian cho vấn đề về chế độ ăn, dinh dưỡng và luyện tập.
Mọi thức ăn khi vào cơ thể đều phải đi qua gan để chuyển hóa. Chức năng gan
như một cái máy lọc để bảo vệ cơ thể khỏi những chất có hại, và chịu trách nhiệm
cho việc sản xuất và sử dụng các chất dinh dưỡng. Vì vậy mọi thứ được tiêu hoá
đều có một ảnh hưởng đến gan: có tốt, có xấu. Đó là lý do tại sao cần sự phù hợp
cho mọi người ăn những thức ăn có lợi cho sức khỏe của gan. Đó là sự thật quan
trọng khi gan bị tổn thương. Hiểu những vấn đề cơ bản về dinh dưỡng là cần thiết
để có những chọn lựa thức ăn sáng suốt mà sẽ tốt cho gan. Vì vậy những quy định
của FDA là nhãn của những thức ăn bao gồm thông tin dinh dưỡng. Một người với
bệnh gan nên luôn đọc những nhãn này cẩn thận. Vì vậy, hầu hết mọi người với
bệnh gan cần phải hạn chế một vài thức ăn trong những chế độ ăn kiêng của họ.
Điều này không nên xem như một sự trừng phạt mà như một bước dẫn đến một
gan khỏe mạnh. Việc tập luyện là một tiến hành quan trọng trong việc chiến đấu
chống lại bệnh gan. Việc tập luyện đều đặn sẽ tăng những mức năng lượng, giảm
stress đối với gan, và trong nhiều trường hợp thậm chí là chậm cả sự bùng phát
những biến chứng chắc chắn liên quan với bệnh gan.
Càng hiểu biết về dinh dưỡng và tập luyện, thì càng biết cách sống để cho sức
khỏe tốt nhất và bệnh tật ít nhất. Đấy là tại sao mà chương này thảo luận về những
vấn đề quan trọng này. Nó cung cấp những thông tin đúng tập trung vào protein,
carbohydrate, mỡ, các vitamin, và những khoáng chất và những yêu cầu dinh
dưỡng khác nhau phụ thuộc vao bệnh gan cụ thể. Cuối cùng, sự quan trọng của


tập luyện, cả aerobic và tập nặng, cho những người bệnh gan được bàn luận.
I.CÓ MỘT CHẾ ĐỘ TỐI ƯU CHO NHỮNG NGƯỜI BỆNH GAN KHÔNG?
Thật không may, một người không thể mong muốn đi bộ đến phòng khám bác
sĩ và yêu cầu “ một chế độ ăn kiêng cho bệnh gan”. Một chế độ ăn kiêng toàn diện
đơn giản thì không thể tồn tại. Nhiều yếu tố được coi không khả thi đối với một
chế độ ăn kiêng gan được chuẩn hóa, bao gồm những thay đổi giữa những loại
khác nhau của bệnh gan (ví dụ: bệnh gan rượu khác với bệnh xơ gan mật nguyên
phát) và các giai đoạn của bệnh gan (ví dụ: bệnh gan ổn định không có nhiều tổn
thương thì ngược với xơ gan mất bù không ổn định). Thậm chí một trong những
rắc rối y khoa khác của những người này mà không liên quan đến bệnh gan của
họ, như tiểu đường hay bệnh tim, cũng phải được chú ý trong chế độ ăn. Mỗi một
người có những yêu cầu dinh dưỡng cá nhân của bản thân, và những yêu cầu này
có thể thay đổi cùng thời gian.
Hầu hết mọi người với bệnh gan đều thấy rằng ăn nhiều bữa nhỏ trong suốt cả
ngày thì là phương pháp tốt nhất, đạt tốt đa mức năng lượng và khả năng tiêu hoá
và hấp thu thức ăn. Tuy nhiên, nếu một người yêu cầu ăn ba bữa trong một ngày
thì hãy cố gắng theo câu nói “Ăn sáng như một ông vua, ăn trưa như một hoàng tử,
và ăn tối như một người cùng khổ”.
Điều quan trọng là nhớ sự khác nhau ở thành phần calori giữa những nhóm thức
ăn khác nhau. Trong khi protein và carbohydrate cung cấp 4 caroli trên 1 gram, thì
mỡ cung cấp 9 caroli trên 1 gram. Cũng quan trọng để biết rằng 1 gram cồn tương
đương với 7 calori. Vì vậy cồn thật sự cũng cung cấp nhiều năng lượng trong cấu
trúc năng lượng cho cơ thể hơn protein và carbohydrate và hơn nhỏ hơn một chút
so với cung cấp của mỡ. Tuy nhiên, trong khi cồn có thể cung cấp trong một người
với một vài mức năng lượng thì nó hoàn toàn không có giá trị dinh dưỡng. Vì vậy,
cồn được coi là cung cấp “những calori vô nghĩa”.
II.NHỮNG HƯỚNG DẪN DINH DƯỠNG NÓI CHUNG ĐỐI VỚI BỆNH GAN
Cho dù thông tin ở trên, một chế độ ăn tối ưu cho một người với bệnh gan ổn
định có thể bao gồm tất cả những yếu tố được liệt kê bên dưới. (bạn sẽ chú ý thấy
rằng chế độ ăn kiêng này tương tự một chế độ ăn cho sức khỏe nói chung đối với

mọi người- thậm chí cả người không bệnh gan. Và, thực tế, nó chính xác là như
thế )
 60 đến 70% carbohydrate- tổng carbohydrate cơ bản, như mì ống và bánh
mì làm từ ngũ cốc.
 20 đến 30% protein - chỉ thịt nạc động vật và/ hay protein thực vật
 10 đến 20% mỡ đa không bão hòa
 8 đến 12 ly nước (200—250ml) mỗi ngày
 1000 đến 1500 miligram natri mỗi ngày
 Tránh số lượng quá nhiều các vitamin và khoáng chất, đặc biệt là vitamin A,
vitamin B3 và sắt.
 Không rượu
 Tránh những thực phẩm đã được chế biến
 Sử dụng thoải mái những trái cây và rau tươi
 Tránh sử dụng caffein quá mức - không nhiều hơn 1 đến 3 ly caffein - chứa
trong những túi đồ uống mỗi ngày.
 Bổ sung vitamin D và calcium
 Vitamin C
 Chất chống oxy hoá như vitamin E hay CoQ10
 Glucosamin chondroitin
Khi con người ăn một chế độ ăn nhiều loại thức ăn, gan phải thường xuyên hoạt
động để chuyển hóa và cân bằng để đảm bảo rằng dinh dưỡng tốt đến các cơ quan
thích hợp. Ở một người khoẻ mạnh, hoạt động cân bằng này xảy ra một cách tự
động. Nhưng khi gan đã bị yếu hay suy yếu, nó sẽ có rắc rối trong việc sắp đặt lại
những chất dinh dưỡng khác nhau. Đấy là nơi mà chế độ ăn kiêng của một người
có vấn đề về gan là cần thiết. Nếu cô ấy ăn những thức ăn cân bằng một cách đúng
đắn, thì gan của cô ấy sẽ không phải làm việc vất vả. Dinh dưỡng là một mặt của
bệnh tật nơi một người có nhiều mức độ điều khiển và có thể tham gia tích cựcvào
tốc độ hồi phục bệnh và thu nhỏ khả năng những tổn thương thêm vào. Những
phần sau thảo luận những chất dinh dưỡng khác nhau một cách chi tiết.
1/Protein


Những Protein là những khối xây dựng chính mà cơ thể dùng để tạo những thành
phần cơ thể như cơ, tóc, móng, da và máu. Các protein cũng tạo nên những thành
phần quan trọng của hệ miễn dịch được gọi là kháng thể, nó giúp chống lại bệnh
tật. Các protein được tạo nên từ những khối xây dựng nhỏ hơn được gọi là những
amino acid. Việc ăn protein bình thường thì quan trọng để xây dựng và duy trì
khối cơ và chữa lành bệnh và tái tạo lại. Gan mang trách nhiệm đầu tiên cho việc
tạo ra một cách chắc chắn là những protein cũ đã bị phá huỷ và tái tạo lại và những
protein mới này thì luôn sẵn sàng. Những protein cũng có thể được dùng như một
nguồn năng lượng, mặc dù chúng không có hiệu quả như carbohydrate và mỡ.
Chúng chỉ được dùng như một nguồng năng lượng ở một hoàn cảnh sau, như thiếu
ăn hay tại giai đoạn cuối của bệnh gan khi cơ thể bắt đầu phá huỷ bản thân cơ của
chính nó ở trong tình huống tuyệt vọng để duy trì sự sống. Được biết như hủy cơ,
đấy là biểu hiện rõ ràng của cơ thể khi gầy sa sút, thiếu hụt cơ bắp. Những người
với việc huỷ cơ thì thường được coi trông giống như “da bọc xương”.
Khi protein như là một thành phần sống còn của cơ thể, thì nhiều người tin tưởng
một cách sai lầm rằng họ ăn nhiều protein hơn thì sẽ tốt hơn. Không chỉ sự tin
tưởng đó là hướng dẫn sai lầm mà đối với một vài người gan suy yếu thì việc tiến
hành dinh dưỡng như thế có thể nguy hiểm thật sự. Rắc rối là một gan suy yếu thì
không thể chuyển hoá được nhiều protein như một cái gan khỏe mạnh. Và khi một
gan suy yếu quá tải với protein thì bệnh não có thể xảy ra. Cuối cùng, những chế
độ ăn cao protein đã được chứng minh làm kiệt sức hoạt động của hệ thống
enzyme cytochrome P-450, hệ thống có trách nhiệm chuyển hoá thuốc. Hoạt động
quá sức này làm gia tăng khả năng mà thuốc quay trở thành độc tố bởi sản phẩm
do gan tổn thương tạo ra.
2/Những đề nghị chế độ ăn đối với protein
Khi một người nghĩ đến protein, một cái hamburger ngon lành hay một con gà
quay có thể được nghĩ đến. Tuy nhiên, nhớ rằng protein có nguồn gốc thực vật thì
cũng tốt như protein có nguồn gốc từ động vật (xem bảng 23.1 dùng cho những
chất chứa protein của những thức ăn thông thường). ăn prtein phải được điều chỉnh

theo cân nặng của cơ thể và mức độ của biểu hiện suy yếu gan. Khoảng 0,8 gram
protein trên kg cân nặng cơ thể (2,2 pounds) được đề nghị cho chế độ ăn mỗi ngày
của những người với bệnh gan ổn định. Tổng lượng protein ăn vào vào khoảng 40
đến 100 gram mỗi ngày - tương đương từ 20 đến 30 % số calori có nguồn gốc từ
protein mà một người nên ăn vào thật sự.
Khi chọn ăn đạm động vật, điều quan trọng là chọn những miếng nạt của thịt (mỡ
thấp) như cá, thịt gà trắng, và thịt gà tây trắng. Hãy giữ quan điểm là cho dù những
miếng thịt nạt nhất của thịt đỏ thì lượng mỡ cũng cao. Trên thực tế, xấp xỉ 50 đến
75% lượng calori từ hầu hết thịt đỏ đến thật sự từ mỡ! Thậm chí một miếng thịt
xén lọc thật kỹ của thịt nạc đỏ có thể nguồn gốc khoảng 50% số lượng calori có từ
mỡ. Điều này có ý nghĩa quan trọng đối với những người có bệnh gan bởi vì sẽ
thừa cân nặng, khi một chế độ ăn nhiều mỡ có thể gây ra những bất thường liên
quan đến gan của một người Những người với bệnh gan không ổn định (xơ gan
mất bù) cần giảm phần trăm đạm động vật ăn vào và cần ăn hầu hết là đạm có
nguồn gốc thực vật. Một chế độ ăn đạm động vật cao (nó chứa nhiều amoniac) có
thể thúc đẩy một giai đoạn của bệnh não ở những người này. Những nhà nghiên
cứu thì không chắc chắn là đó là nguyên nhân gây ra bệnh não, nhưng họ nghi ngờ
là một lượng quá lớn anomiac trong cơ thể có thể là một trong những lý do để
bùng phát bệnh. Một vài chế độ ăn cho người sụt cân bao gồm việc ăn một lượng
lớn thịt đỏ (đạm động vật). Những người xơ gan được khuyên tránh bất kỳ những
chế độ ăn như thế.
Bảng 23.1. Số lượng protein của những thức ăn thông thường
Thức ăn Lượng Số lượng protein

Bánh mì (hoàn toàn lúa mì) 1 miếng

2,5 g
Bông cải xanh (luộc chín, rút nước) 4 ounce

3,4 g

Pho mát (cheddar) 1 ounce

7,1 g
Thịt gà (thịt sẫm màu, quay, không da) 4 ounce

31,0 g
Thịt gà (thịt trắng, quay, không da) 4 ounce

35,1 g
Trứng (được luộc chín) 1 cái lớn

6,0 g
Cá bơn (bỏ lò, nướng hay lò vi sóng) 4 ounce

27,4 g
Giăm bông (được quay) 4 ounce

28,4 g
Hamburger (nướng vừa vừa) 4 ounce

27,3 g
Cừu non (được nóng) 4 ounce

27,8 g
Sữa (hoàn toàn) 1 tách 8,0 g
Peas (đông lạnh, được nấu rồi) 4 ounce

4,0 g
Khoai tây (đã nướng, cả vỏ) 4 ounce


2,6 g
Tôm (hấp) 4 ounce

23,7 g
Gạo (trắng, đã nấu chín) 4 ounce

3,1 g
Mì spaghetti (đã nấu) 4 ounce

5,4 g
Thịt bò (thịt thăn, nướng) 4 ounce

34,4 g
Cá ngừ (khoanh mỏng với dầu thực vật, hấp)

6 ounce

49,8 g
* 1 ounce= 28 g
Chế độ ăn chay, ở một mặt khác, có số lượng amoniac thấp và được xem thấp hơn
chế độ ăn đạm động vật để gây ra bệnh não. Chất xơ thực vật biểu hiện một
nguyên tắc trong việc giúp thải trừ những chất thừa có hại, như amoniac ra khỏi cơ
thể. Vì vậy, những người có khuynh hướng bệnh não được khuyên duy trì một bữa
ăn cao protein động vật và ăn thấp đạm động vật để trở thành những người ăn chay.
Loại ăn kiêng này sẽ giúp kiểm soát những triệu chứng tâm thần ở những người
trải qua từ vài mức độ của bệnh não cũ. Nhiều xơ, những chế độ ăn protein thực
vật có thể giảm mức đường ở một vài người và có thể đặc biệt hữu ích với bệnh
tiểu đường có xơ gan và có thể ở những người bệnh mỡ gan không phải rượu
(NAFD). Tuy nhiên, cho dù đạm thực vật không hiệu quả và cũng có thể là vấn đề
làm giới hạn chế độ ăn. Hằng định, nếu một người đột nhiên phát triển bệnh não,

thì có thể cần giới hạn ăn đạm đến 20 gram hay ít hơn mỗi ngày, cho đến khi giai
đoạn này được giải quyết.
3/Sự quan trọng của việc tránh bổ sung protein và amino acid
Thật dễ dàng cho những người bệnh gan ăn quá nhiều protein. Quan trọng để
nhận thấy rằng việc tiêu hoá những protein bổ sung mà chúng thường được tìm
thấy ở những siêu thị và cửa hàng thức ăn cho sức khỏe thì có thể cũng nguy hiểm
đối với những người có tình hình gan. Những bổ sung protein gây gánh nặng lên
gan và thận phải làm việc quá tải để tiêu hoá protein thừa được ăn vào. Vì vậy,
protein thừa có thể gây nên nguy cơ mất nước, khi thêm nước được yêu cầu để bài
tiết những sản phẩm của sự chuyển hoá protein từ cơ thể. Cuối cùng, những bổ
sung protein mà không được qui định bởi FDA , thường chứa những khác nhau về
các vitamin, khoáng chất, và những bổ sung thức ăn khác mà có thể gây nên
những dư thừa nguy hiểm những thành phần đó trong cơ thể. Những bổ sung
protein chỉ được yêu cầu cho những người suy dinh dưỡng và không đủ khả năng
để chấp nhận chế độ ăn đạm thông thường của chế độ ăn được quy định.
Bổ sung amino acid cũng có nguy hiểm tiềm tàng đối với những người bệnh gan.
Mặc dù những amino acid thậm chí là tự nhiên, thì nó cũng không có nghĩa là
chúng luôn luôn an toàn, đặc biệt đối với những người bệnh gan. Hầu hết những
bổ sung amino acid có giá trị vượt quá số lượng mà cơ thể cần. An những số lượng
quá nhiều những amino acid có thể gây những ảnh hưởng phụ trầm trọng. Có thể
ví dụ được biết nhiều nhất là bổ sung có L- tryptophan, một amino acid aromatic
(AAA) được xem như một bổ sung để gây hôn mê. Được xem là an toàn và tự
nhiên trong nhiều năm, L- tryptophan sau cùng đã bị cấm bán bởi FDA vào năm
1990 bởi vì nhiều người đã ăn amino acid này gây nên một rối loạn cơ nghiêm
trọng. Thậm chí tử vong đã xảy ra một vài người như là kết quả của việc ăn vào L-
tryptophan. Một vài những bổ sung amino acid khác thì cao AAA (ví dụ:
phenvalanin, tyrosine, và tryptophan), loại amino acid đã được chứng minh là có
hại đối với một số người bệnh gan. Một amino acid khác, methionine, có thể gây
bệnh não ở những người bệnh gan. Những rau quả chứa methionine rất ít nhưng có
hàm lượng cao những amino acid phân nhánh (BCAAs: branched chain amino

acids, như leucine, isoleucine, và valine). Một vài chuyên gia tin tưởng BCAAs thì
tốt cho những người bệnh não. Tuy nhiên, không một trường hợp nào nên bổ sung
amino acid nào vào chế độ ăn của một người bệnh gan.
4/Carbohydrate
Chức năng chính của carbohydrate cung cấp năng lượng cho cơ thể. Carbohydrate
cung cấp năng lượng này dưới dạng glucose (đường máu). Có hai loại
carbohydrate. Loại đầu tiên được biết là carbohydrate đơn (những đường có thể bẻ
gẫy bằng tiêu hoá). Carbohydrate đơn có thể bao gồm chỉ đường đơn, được gọi là
monosaccharide và chúng gồm glucose, fructose (đường trái cây), và galactose
(một thành phần của những sản phẩm sữa). Hay chúng có thể gồm những đường
đôi, được gọi là disaccharide và chúng gồm maltose (được dùng lên men bia),
sucrose (đường mía và lactose (đường sữa).
Carbohydrate phức bao gồm những polysaccharide (hàng trăm những đường đơn
được liên kết với nhau) và thường được biết như những tinh bột và xơ.
Carbohydrate phức không thể ngay lập tức sử dụng cho cơ thể như năng lượng.
Đầu tiên chúng phải bị bẻ gãy thành glucose bằng cách nấu hay quá trình tiêu hoá.
Ví dụ những carbohydrate phức như hạt ngũ cốc, quả hạch, hạt giống, bánh mì, mì
ống, gạo, thức ăn từ ngũ cốc, và khoai tây.

Bảng 23.2. số lượng carbohydrate của những thức ăn thông thường.
Thức ăn Kích thước

Số lượng carbohydrate

Táo 1 medium 21,1 g
Chuối 1 medium 26,7 g
Bánh mì (bột lúa mạch đen chưa rây)

1 khoanh 14,7 g
Bánh mì (lúa mì) 1 khoanh 10,6 g

Bánh mì (trắng) 1 khoanh 13,0 g
Sữa 1 tách 11,7 g
Đậu phộng 2 muỗng 5,7 g
Khoai tây (nướng có vỏ) 1 medium 51,0 g
Khoai tây (nghiền) ½ tách 18,4 g
5/Những đề nghị về chế độ ăn của carbohydrate
Những người bệnh gan nên phấn đấu một chế độ ăn bao gồm xấp xỉ 60 đến 70 %
carbohydrate, với carbohydrate phức chiếm số lượng nhiều hơn. Đối với những
người như vậy, một chế độ ăn cân bằng tốt sẽ bao gồm ít nhất 400 gram
carbohydrate (xem bảng 23.2 : số lượng carbohydrate của một vài thức ăn thông
thường.). Nếu có quá nhiều carbohydrate ở chế độ của một người, điều này sẽ có
kết quả giống ở việc ăn quá nhiều protein và mỡ. Nếu quá nhiều protein được ăn
và không đủ carbohydrate, thì gan sẽ bắt buộc phải dùng protein như một nguồn
năng lượng. Đấy là một việc dùng protein không hiệu quả và không khôn ngoan,
bởi vì protein có nhiệm vụ đầu tiên là xây dựng tế bào và mô. Vì vậy, điều này sẽ
đặt những stress đối với gan như là gây nên thêm sự mệt mỏi hơn đối với gan để
đảo ngược protein thành năng lượng hơn là đảo ngược carbohydrate thành năng
lượng. Nếu quá nhiều mỡ và không đủ carbohydrate được ăn thì nhiều rối loạn về
sức khỏe, bao gồm béo phì, có thể gây ra. Điều đó có thể dẫn đến gan nhiễm mỡ
hay bệnh gan nhiễm mỡ không rượu (NAFLD) . Điều đó quan trọng để nhớ rằng
một bữa ăn carbohydrate phức như mì ống không nên được tràn ngập nứơc sốt với
kem, bơ hay dầu. Làm như chỉ dẫn thì quá nhiều mỡ bên trong một món ăn sức
khỏe khác. Hãy nhớ rằng carbohydrate phức quá mức ở một mặt khác có thể dẫn
đến giữ nước và không hấp thu những vitamin và khoáng chất cần thiết.
Những carbohydrate đơn như nho, kẹo hay mật ong có thể gây dính răng. Ơ những
người bị miệng khô, đấy là đặc biệt, do đó gia tăng khả năng những lỗ sâu ở
những bệnh nhân này. Vì vậy, điều quan trọng đặc biệt là những người miệng khô
(thỉnh thoảng được biểu hiện như một triệu chứng ở những người xơ gan tắc mật
tiên phát hay ở những người viêm gan B mạn hay C trong quá trình điều trị
interferon) nên chải răng ngay lập tức sau khi ăn hay ăn bữa phụ. Điều này có thể

yêu cầu những người này mang bàn chải đánh răng, thuốc đánh răng đến quán ăn,
công sở hay trường học. Do đó những người này có thể nên dùng một kem đánh
răng được kê toa sản xuất đặc biệt dành cho những người có khuynh hướng bị
bệnh nha khoa.
Những người có bệnh gan rượu (ALD) thường chịu sự chuyển hoá carbohydrate
bất thường. Gần 1/3 số họ bị tiểu đường. Một chế độ những thức ăn giầu chất xơ,
carbohydrate phức có thể cải thiện một vài điều gì đó tình trạng của họ.
6/Carbohydrate và gan
Gan thực hiện một nhiệm vụ chủ chốt là chuyển hoá carbohydrate. Trước khi
đường có khả năng để cung cấp năng lượng cho cơ thể, chúng phải qua gan, nơi
quyết định vận mệnh của chúng. Gan phải lam việc rất vất vả mới khôi phục bất
kỳ những bất cân bằng dinh dưỡng có thể có đối với những thói quen ăn uống xấu.
Vì vậy, nó có thể gửi lập tức đường (trong cấu trúc của đường) vào trong máu để
cung cấp một năng lượng hằng định cho một người cần nó. Hay gan có thể gửi
đường đến não hay cơ, phụ thuộc vào những hoạt động nào được thực hiện tại thời
điểm . Hay nó có thể quyết định tích lũy glucose (trong cấu trúc của glycogen) để
dùng sau đó khi cơ thể yêu cầu năng lượng nhiều hơn. Nếu carbohydrate quá nhiều
được ăn vào thì gan chuyển nó thành mỡ (trong cấu trúc của triglyceride). Trong
trường hợp này, những tích lũy mỡ quá mức trong cơ thể - thường ở những vị trí
nơi mà nó ít được mong muốn nhất. Mỡ quá mức có thể được ký thác trực tiếp ở
trong gan, kết quả là gan nhiễm mỡ hay NAFLD .
Chuyển những thức ăn khác carbohydrate thành năng lượng thì cũng căng thẳng
ngay cả đối với một gan bình thường. Do việc ăn một chế độ không cân bằng có ít
carbohydrate phức một người bệnh gan sẽ có thêm căng thẳng mà bệnh này sẽ gây
ra cho gan của người bệnh. Trong thực tế, đấy là một nguyên nhân tại sao nhiều
người bệnh gan như vậy cảm thấy mệt. Đơn giản, những chế độ ăn của họ đang
chống lại bản thân họ. Một chế độ ăn cân bằng tốt có thể giúp chống lại sự mệt
mỏi liên quan đến bệnh gan. Ăn những bữa ăn nhỏ trong suốt ngày thay vì ba bữa
lớn được đề nghị. Mỗi bữa nên tập trung vào những carbohydrate phức như khoai
tây nướng lát hay bánh mì làm từ ngũ cốc. Bằng việc sử dụng một kế hoạch ăn

uống, nguồn năng lượng tốt sẽ được cung cấp đều đặn cho cơ thể. Một chế độ ăn
giàu carbohydrate phức như là đối chọi với việc tập trung vào những được đơn sẽ
cung cấp trong một người một khả năng duy trì nhiều hơn. Ví dụ, ăn một thanh
kẹo cung cấp năng lượng nhanh chóng bởi vì cơ thể dễ dàng chuyển các đường
đơn này thành glucose. Nhưng thuốc bổ thì không kéo dài và thường theo sau bởi
một lượng năng lượng nhanh khi gan phải cố gắng điều chỉnh mức năng lượng.
Một đĩa mì ống, theo một cách khác, thì là một nguồn tốt của carbohydrate phức.
Nó phải mất nhiều thời gian hơn để tiêu hoá và vì thế cung cấp một sự giải phóng
năng lượng chậm và duy trì lâu hơn.
7/MỠ
Mỡ là thành phần hiệu quả nhất của cơ thể cho việc dự trữ năng lượng thừa.
Chúng là một nguồn rất tập trung calori. Gram so với gram mỡ chứa nhiều hơn
gấp đôi tổng số calori của các chất dinh dữơng khác. Vì vậy, một chế độ ăn mỡ
nhiều thì có thể đưa đến việc tăng cân nhiều hơn so với một chế độ ăn cao protein
hay carbohydrate.
Điều quan trọng ở những người bệnh gan là hạn chếtối thiểu việc ăn vào mỡ bằng
cách tránh những thức ăn có thành phần mỡ cao . Mỡ quá nhiều trong cơ thể thì có
thể dẫn đến NAFLD . Mặc dù không phổ biến, có thể một vài người bị NAFLD sẽ
phát triển thành xơ gan và suy gan. Gan mỡ thì không tốt cho sức khoẻ đến nỗi
chúng không được xem xét cho việc dùng cho mô ghép. Một gan nhiễm mỡ có thể
gây nên bệnh gan hay có thể góp phần làm xấu hơn những bệnh gan khác. Những
người có bệnh gan do rượu mà béo phì có xuất hiện một khuynh hướng đặc biệt
phát triển xơ gan. Và những người mắc viêm gan C và gan nhiễm mỡ thì có thể
gây nên sẹo gan ở tỉ lệ cao hơn. Tuy nhiên, hầu hết những gan nhiễm mỡ bởi thừa
cân có thể đảo ngược với một chế độ ăn mỡ thấp, tập luyện và giảm cân. Một vài
người vơi bênh gan không phải lo lắng về việc béo phì. Những người này thậm chí
còn ít cân. Nhưng ngay cả những người này cũng không nên tự do ăn những lượng
mỡ quá nhiều, vì mỡ dư thừa có thể tích lũy trong gan .
Bảng 23.3. Phần trăm mỡ được tìm thấy ở một vài thức ăn thông thường.
Thức ăn Phần trăm mỡ


Thức ăn Phần trăm mỡ

Lê tàu 86 Hot dog 83
Thịt lưng lợn muối, xông khói

92 Margarine 100
Bơ 100 Mayonnaise 98
Gà (có da) 56 Sữa (hoàn toàn)

49
Gà (không da) 35 Bơ lạc 75
Trứng 69 Hồ đào 89
Hamburger 61
Những người với xơ gan tắc mật nguyên phát (PBC: primary biliary cirrhosis)
thường khó khăn trong việc hấp thu mỡ. Đấy là nguyên nhân làm huỷ diệt những
ống mật trong khi gan gây nên sự thất bại trong việc bài tiết muối mật là sự cần
thiết để hấp thu mỡ. Đấy có thể là gây nên triệu chứng phân có mỡ, một tình trạng
không hấp thu mỡ. Vì vậy, những người với PBC nên phát huy một chế độ ăn mỡ
thấp .
8/Những lời khuyên về chế độ ăn đối với mỡ
Như một quy luật chung, không nhiều hơn 30% lượng calori của con người đưa
vào từ mỡ. Đấy là vịệc hấp thu tối đa. Lý tưởng, một người nên nhắm vào
khoảng 10 đến 20%. Những người thừa cân thì vào khoảng 10%. Trong khi việc
quan trọng là ăn mỡ ít như có thể thì việc ăn một lượng nhỏ những mỡ tốt cho sức
khỏe hơn thì có một vài thuận lợi. Mỡ cung cấp cho cơ thể như một nguồn năng
lượng dự trữ. Trong những tình huống khẩn cấp, mỡ dự trữ của cơ thể được
chuyển thành năng lượng. Mỡ dự trữ này giữ cho cơ thể ấm trong những này đông
lạnh lẽo. Vì vậy, acid béo thật sự cần thiết cho chức năng bình thường của những
chuyển hoá cơ thể. Những mỡ này được biết như những acid béo chủ yếu thực

hiện những nhiệm vụ khác nhau mà chủ yếu là chức năng cơ bản của cơ thể. Tuy
nhiên, nên chỉ rõ là một muỗng súp mỡ không bão hoà nhỏ một ngày có thể cung
cấp tất cả các acid béo cần thiết mà cơ thể cần. Thêm vào đó, con người cần chất
béo để dễ dàng 4 vitamin tan trong chất béo _ A, D, E, và K. không có chất béo,
những vitamin này có thể trở nên thiếu trong cơ thể, thậm chí cả khi chúng được
trong thành phần bổ sung. Thỉnh thoảng sự thiếu vitamin loại này xảy ra ở những
người bệnh ứ mật, như xơ gan tắc mật nguyên phát. Cuối cùng, mỡ giúp mùi vị
thức ăn ngon hơn. Đấy là điều quan trọng ở những người có khẩu vị kém bởi bệnh
gan mãn tính.
Hầu hết mọi người đều có vấn đề là mỡ bão hoà thì không tốt cho sức khoẻ so với
hơn mỡ không bão hoà. Cái gì đánh giá cho việc này? Hầu hết những mỡ bão hòa
có khuynh hướng là đặc hay sệt ở nhiệt độ phòng. Vì vậy, chúng có khả năng bít
động mạch và tăng mức cholesterol. Những mỡ chuỗi dài không bão hòa là dung
dịch ở nhiệt độ phòng. Vì thế tốt nhất cho chế độ ăn kiêng là thấp lượng mỡ bão
hoà. (giữ quan niện này là mỡ cá thì lỏng hơn mỡ gàvà lỏng hơn mỡ của thịt bò.)
9/Cholesterol và gan
Cholesterol thì có liên hệ nhưng không đồng nghĩa với mỡ. Cholesterol được tìm
thấy ở những sản phẩm động vật không phải tất cả đều xấu. Trong thực tế, ở một
vài khía cạnh thì nó rất cần thiết để duy trì cuộc sống. Cholesterol cần thiết để tạo
ra hormon giới tính và muối mật. Ơ dưới da, nó tạo ra vitamin D với sự giúp đỡ
của ánh sáng mặt trời. Tuy nhiên, con người không cần phải ăn bất kỳ cholesterol
nào để thuận lợi cho những quá trình này. Gan có khả năng tạo ra hầu hết những
cholesterol mà cơ thể yêu cầu – chỉ khoảng 15% cholesterol máu được đến từ chế
độ ăn. Còn nhiều yếu tố khác hơn chế độ ăn có thể là nguyên nhân gây nên mức độ
cholesterol máu cao. Chúng bao gồm: hút thuốc lá, thiếu vận động, và một vấn đề
nhạy cảm mang tính di truyền về tình trạng này. Mức độ triglyceride là một số đo
mỡ nhiều như thế nào trong tuần hòan máu.
Lipoprotein tỉ trọng cao (HDL: high- density lipoprotein) thường phản ánh như
“cholesterol tốt” và lipoprotein tỉ trọng thấp (LDL: low- density lipoprotein)
thường phản ánh như “cholesterol xấu”. HDL cholesterol được coi là có nhiệm vụ

đưa tất cả cholesterol đến gan để được bẻ gãy và sau đó sẽ được tái sử dụng hay
bài tiết ra khỏi cơ thể. Những người thừa cân có khuynh hướng có mức HDL thấp
và mức LDL cao. Mỡ thừa nằm ở xung quanh bụng (nhiều hơn việc lắng đọng mỡ
ở những nơi khác trong cơ thể) dường như có liên quan đến việc gia tăng mức độ
cholesterol máu. Không có sự chắc chắn, người ta tin rằng những acid béo được
giải phóng từ mỡ động vật có xu hướng chảy trực tiếp vào tĩnh mạch cửa và từ đó
trực tiếp đến gan. Gan sau đó sẽ nhận thấy tín hiện để gia tăng năng suất sản xuất
cholesterol.
Những người với xơ gan tắc mật nguyên phát (PBC) nói chung có mức cholesterol
cao (thỉnh thoảng ở mức từ 500 đến 1.000 mg/dl) điều đó không thể quy cho chế
độ ăn bừa bãi. Tuy nhiên, họ không gia tăng nguy cơ của bệnh tim mạch hay cơ
đau thắt ngực bởi mức độ tăng cholesterol này.
III.CÁC VITAMIN VÀ NHỮNG KHOÁNG CHẤT
Gan là kho chứa chính của cơ thể cho việc dự trữ những chất dinh dưỡng. Nó hấp
thu và dự trữ rất nhiều vitamin và khoáng chất từ máu. Nếu chế độ ăn của một
người không cung cấp một số lượng thích hợp các chất dinh dưỡng này cho một
ngày nhất định thì gan sẽ giải phóng ngay số lượng cần thiết của chúng vào trong
máu. Tuy nhiên, khả năng của gan có giới hạn là không chuyển hoá các vitamin và
các khoáng chất. Bất kỳ số lượng dư thừa vitamin nào mà gan không thể chuyển
hóa được nói chung sẽ được đào thải ra khỏi cơ thể. Chưa nói đến tại một vài khía
cạnh, gan có thể trở nên bị nguy hiểm bởi xu hướng chuyển hoá quá mức thừa của
những vitamin và những khoáng chất.
Nếu một người ăn một chế độ cân bằng, tốt cho sức khỏe thì tất cả những vitamin
và khoáng chất được yêu cầu cho nhu cầu cơ bản và hoạt động hàng ngày được
cung cấp đầy đủ. Mặc dù vậy, nhiều người cảm thấy rằng họ nên ăn bổ sung
vitamin và khoáng chất để cho chắc chắn. Trong khi điều này có thể tốt đối với
một người khỏe mạnh hoàn tòan thì nó có thể nguy hiểm thật sự cho một vài người
có bệnh gan. Vì vậy, những lượng bổ sung quá nhiều vitamin và khoáng chất có
thể có hại nhiều hơn là tốt đối với một cái gan đã tổn thương thật sự.
Tuy nhiên, có những ngoại lệ đối với quy luật này: đầu tiên là không một ai ăn

được chế độ ăn cân bằng, tốt cho sức khỏe. Vì thế, một số người theo chế độ ăn
chay nghiêm ngặt. Ơ những tình huống này, việc bổ sung vitamin và khoáng chất
là cần thiết. Những người với bệnh gan chắc chắn, đặc biệt những bệnh ư mật như
xơ gan tắc mật nguyên phát, hấp thu một số vitamin nghèo nàn. Những người này
cũng có thể yêu cầu sự bổ sung. Những người với bệnh gan rượu cần sự bổ sung
vitamin bởi vì những ảnh hưởng làm tiêu hao chất dinh dưỡng của rượu đối với cơ
thể. Ơ mặt khác, một vài bệnh gan kết quả thật sự là một sự thừa một vitamin hay
khoáng chất xác định. Ví dụ bệnh hemochromatosis , đó là một bệnh gan thừa sắt.
Như tiếp theo, một vài bệnh gan có liên quan đến khiếm khuyết sắt từ việc chảy
máu đường ruột, ví dụ nó có thể xảy ra ở những người có dãn tĩnh mạch thực quản
chảy máu bởi xơ gan mất bù. Vì vậy, những yêu cầu vitamin và khóang chất trong
chế độ ăn của một người với bệnh gan phải được đánh giá trên nền tảng của từng
cá thể. Cuối cùng, việc quan trọng là phải cân nhắc khi bổ sung vitamin và những
khoáng chất.
A. CÁC VITAMIN
Các vitamin là những chất hữu cơ được đến từ những động vật và thực vật.
Chúng là thành phần cơ bản để phát triển, lớn lên và hoạt động của con người. Các
vitamin được biết như những chất dinh dưỡng vi lượng bởi vì chúng được yêu cầu
bởi cơ thể chỉ một số lượng nhỏ (so với protein hay nước làm ví dụ) để duy trì sức
khoẻ. Bình thường số lượng được yêu cầu được cung cấp bằng một chế độ ăn đầy
đủ.
Cũng giống như thức ăn, và dược phẩm, các vitamin cũng phải đi qua gan để
được chuyển hóa. Nếu ăn vào quá nhiều, bất kỳ vitamin nào cũng có khả năng gây
nên những vấn đề sức khoẻ nghiêm trọng. Đấy là sự thật thậm chí đối với những
người có chức năng gan bình thường. Tuy nhiên, ở những người có bệnh gan thì
khả năng cho tổn hại sẽ cao hơn nhiều. Phụ thuộc vào mức độ trầm trọng của tổn
thương gan mà người nào đó thậm chí có thể cần phải loại bỏ khỏi chế độ ăn của
họ những thức ăn mà nó làm tăng mạnh những vitamin được xác định. Chúng có
thể bao gồm những thức ăn thông thường như một vài món ăn ngũ cốc buổi sáng.
Ơ mặt khác, một vài bệnh gan có khuynh hướng khiếm khuyết vitamin và phải ăn

bổ sung vitamin. Nếu bác sĩ của bạn khuyên một bổ sung vitamin cụ thể thì chắc
chắn là nó được uống cùng bữa ăn để được hấp thu vào trong cơ thể thích đáng.
Hơn nữa những vitamin bổ sung nên được bảo quản ở chỗ mát mẻ và khô ráo, vì
hiệu lực của chúng có thể bị giảm bởi ánh sáng mặt trời và ẩm ướt.
Các vitamin có thể được phân loại dựa vào đặc điểm hoà tan của chúng – tan được
trong mỡ và tan được trong nước. Sự khác biệt này có hàm ý quan trọng cho
những người bệnh gan và sẽ được biểu hiện ở những phần sau trên những loại
vitamin khác nhau.
1/CÁC VITAMIN TAN TRONG MỠ

Các vitamin tan trong mỡ bao gồm vitamin A, D, E và K. chúng được hấp thu vào
cơ thể chỉ với sự giúp đỡ của mỡ hay mật. Những vitamin này được tích lũy ở
trong những tế bào mỡ. Ơ những người với bệnh gan ứ mật ( bệnh gan mà có sự
suy yếu hay hư hỏng dòng chảy của mật bên trong ống mật), chúng có thể làm hấp
thu kém cho cơ thể. Ở những trường hợp này, bổ sung vitamin là cần thiết. Loại
vitamin tốt nhất để dùng ở trường hợp này là một vitamin tan trong dầu nhưng có
cấu tạo tan trong nước được. Thường thì các vitamin của trẻ em tất cả đều tan
được trong nước. Khi nhỏ đường tiêu hoá còn non nớt, việc bổ sung được thiết kế
đặc biệt để chúng có khả năng tiêu hoá dễ dàng nhất. Mỗi một vitamin tan được
trong mỡ sẽ được thảo luận chi tiết thêm ở dưới.

Vitamin A.
Vitamin A thì cần để duy trì thị lực bình thường, đặc biệt là nhìn vào buổi tối, và
chủ yếu cho hệ miễn dịch. Nó cũng đóng vai trò sống còn trong việc xây dựng và
duy trì sức khỏe cho da, xương, răng. Vitamin A thuộc một nhóm hợp chất được
biết đến là retinoids (được tham khảo với các chất như retinol, retinoic acid, hay
retinyl esters). Khoảng 80 đến 90% tổng số trong cơ thể được dự trữ dưới dạng
retinoid được tìm thấy trong gan. Gan có quyết định quan trọng là nơi nào vitamin
A được cần nhất trong cơ thể.
Đối với những người không mắc bệnh gan, 1000 mcg mỗi ngày (3333 IU mỗi

ngày) cho đàn ông và 800 mcg (2667 IU/ ngày) đối với phụ nữ là khối lượng tối
đa của vitamin A nên ăn vào. Điều này có thể dễ dàng được chứa trong một chế độ
ăn cân bằng. Mặc dù vậy, xấp xỉ ¼ những người trưởng thành ở Mỹ ăn bổ sung
những thứ có chứa vitamin A. Đây là vitamin được thấy nhiều ở những thức ăn
sau: gan, lòng đỏ trứng, sữa , những sản phẩm bơ khác, bơ thực vật, dầu gan, và
dầu cá. Một người với bệnh gan tiến triển không bao giờ nên bổ sung vitamin A và
không nên ăn số lượng quá nhiều những thức ăn được nên ở trên.
Những cấu tạo thực vật của vitamin A được biết như các carotenoid (cũng được
gọi là carotene). Carotene được coi như là một tiền vitamin A, bởi vì cơ thể phải
chuyển chất này thành vitamin A trước khi nó có thể được cơ thể sử dụng như một
vitamin A hoạt động. Hầu hết các carotenoid thông thường được tìm thấy trong
thức ăn là beta- carotenoid. Những thức ăn có nhiều beta- carotenoid gồm dưa đỏ ,
cà rốt, khoai tây ngọt, và rau xanh Ăn quá nhiều vitamin A (liều xấp xỉ
25.000 đến 50.000 IU mỗi ngày) là rất nguy hiểm cho gan vì nó có thể gây nên
bệnh gan được biết như thừa vitamin A, Trong thực tế, tình trang này có thể dẫn
đến xơ gan. Thừa vitamin A có thể là kết quả của việc bổ sung vitamin quá nhiều
hay những thói quen ăn uống khác thường. Những người với bệnh gan nên tránh
ăn gan vì nó chứa một lượng lớn vitamin A, hơn hẳn bất kỳ cơ quan nội tạng nào
khác. Thật thú vị, hàng trăm năm trước, các bác sĩ tin rằng một vài những rối loạn
về mắt có thể chữa bằng cách áp dụng một miếng gan để trực tiếp lên mắt bệnh
nhân, bởi vì việc chứa vitamin A cao của nó. Các thuốc như Accutance
(isoretinoin) và Retin- A (tretinoin), cả hai được điều trị trong mụn trứng cá (acne),
chúng có nguồn gốc từ vitamin A. Vì thế không nên dùng cho những người bệnh
gan tiến triển. Thuốc ngừa thai uống có thể tăng việc hấp thu vitamin A, do đó dẫn
đến những giới hạn cao nguy hiểm.
Khả năng của vitamin A gây nên ngộ độc gan có thể tăng bởi việc uống rượu hay
dùng quá nhiều những vitamin tan trong dầu khác (như vitamin E) hay việc thiếu
vitamin C. Ngộ độc vitamin A có thể biểu hiện chỉ một vài giờ sau khi một người
dùng một liều quá lớn. Tuy nhiên, quá liều vitamin A có thể cũng diễn tiến chậm ở
một người mà dùng những lượng trung bình vitamin A qua một thời gian dài.

Triệu chứng của quá liều vitamin A có thể bao gồm buồn nôn, nôn, rối loạn
phương hướng về thị giác, đau đầu, và đau xương khớp. Gan có thể lớn lên và tổn
thương để lại sẹo, thậm chí dẫn đến xơ gan. Tăng áp lực tĩnh mạch cửa đi cùng với
vàng da và báng bụng có thể xảy ra . Ngộ độc vitamin A thì thường nhưng không
phải luôn luôn, sẽ đảo ngược với sự dừng dùng vitamin A.
Điểm nhấn cuối cùng là những người bệnh gan được khuyên giảm dùng vitamin
này. Ngoại lệ cho quy định này áp dụng chỉ đối với những người ở giai đoạn tiến
triển của ứ mật, những người bị quáng gà. Một thí dụ: một người ở giai đoạn 4 của
xơ gan tắc mật nguyên phát (PBC) mà người này cũng đang uống cholestyramine,
một thuốc dùng để điều trị ngứa mà là suy giảm hơn nữa việc hấp thu vitamin A.
Người ta đã nhận thấy rằng khoảng 20% những người PBC có thiếu vitamin A.
Hầu hết những người này biểu hiện những triệu chứng không rõ ràng của thiếu
vitamin A. Vì vậy, những người mắc PBC nên được kiểm tra mức vitamin A của
họ. Thậm chí đã được tìm thấy là thiếu, thì chỉ những người bị quáng gà mới nên
được nhận sự bổ sung vitamin A. Khi bổ sung vitamin A thì quan trọng là cho
thêm kẽm để đạt được tối đa việc hấp thu vitamin A. Cấu tạo tan nước của vitamin
A- Aquasol- một viên dạng nang dùng mỗi ngày (50.000 IU) thì được hấp thu tốt
nhất .
Không giống như những retinoid, các carotenoid không độc đối với gan và không
gây nên thừa vitamin A. Tuy nhiên, beta- carotene có thể gây nên da của một
người một mầu vàng cam, làm cho cô ấy có triệu chứng sai lầm của cả vàng da và
cả tổn hại suy gan. Ngoài ra, quá thừa beta- carotene có thể đẩy một người bệnh
gan thêm nguy cơ mất xương và loãng xương .
Vitamin A được tìm thấy ở gan động vật và những trái cây cam và xanh, và nhưng
rau như măng tây, bông cải xanh, cà rốt, và dưa đỏ. Nguồn gốc từ động vật chứa
vitamin A có khuynh hướng chứa hàm lượng vitamin này nhiều hơn (6 lần) so với
nguồn gốc từ thực vật. Vì thế, người ta khuyên những người mắc bệnh gan tránh
dầu gan cá moruy và gan động vật. Rau thì có thể ăn tự do. Tuy nhiên, thực hiện
dùng sinh tố hàng ngày với lượng lớn trái cây và/ hay rau nên tránh ở những người
mắc bệnh gan nặng.

Vitamin D
Vitamin D, một vitamin tan trong mỡ, được coi như “vitamin ánh nắng mặt trời”.
Đó là vì nhờ có ánh sáng mặt trời mới biến đổi cholesterol thành vitamin D. Để
chắc chắn một lượng cung cấp thường xuyên vitamin D, hầu hết mọi người chỉ cần
được để lộ mình dưới ánh sáng mặt trời trong khoảng 15 phút vài lần mỗi tuần.
Vitamin D thì quan trọng trong việc hấp thu và chuyển hóa calcium. Vitamin này
cho phép calcium có khả năng vào xương. Vitamin D thì quan trọng đặc biệt đối
với những người mắc bệnh gan mãn tính, những người có khuynh hướng bị hũy
xương hay loãng xương. Những người có khuynh hướng bị tình trạng này bao
gồm những người bị xơ gan tắc mật nguyên phát, những người xơ gan bởi bất kỳ
bệnh gan nào đặc biệt khi có biến chứng ứ mật, và những người dùng thuốc ức chế
miễn dịch như prednisone. Những người này được khuyên dùng vitamin D bổ
sung hay ăn những thức ăn chứa nhiều vitamin D. Điều này đặc biệt quan trọng
nếu việc phơi nắng của một người bị giới hạn bởi điều kiện thời tiết hay vị trí địa
lý. Nó có thể là ý kiến hay đối với tất cả những người mắc bệnh gan mạn tính là bổ
sung những chế độ ăn của họ với calcium và vitamin D.
Những thức ăn chứa dồi dào lượng vitamin D bao gồm sữa (nó được bổ sung
vitamin D), cá ở xứ lạnh, dầu cá, dầu gan cá moruy, và lòng đỏ trứng. Chế độ ăn
mỗi ngày được chính phủ Mỹ đề nghị về vitamin D là 5mcg (200IU). Những
người có bệnh gan được xem là khuyếm khuyết vitamin D nên được ăn bổ sung
khoảng 400 và 800 IU mỗi ngày. Hãy nhớ là việc bổ sung quá nhiều vitamin D có
thể dẫn đến việc lắng đọng nguy hiểm calcium ở thận, tim và những mạch máu. Sự
cần thiết bổ sung vitamin D nên được quyết định dựa trên nhu cầu cơ bản của từng
bệnh nhân bằng cách theo dõi mức độ 25- hydroxy vitamin D trong máu và mức
độ calcium trong máu và trong nước tiểu. Cấu trúc tan trong nước của vitamin D –
vitamin D2 (ergocalciferol) – nên được dùng khi có thể.
Vitamin E
Vitamin E được biết như tocopherol, hoạt động như một chất chống oxy hóa trong
cơ thể. Nó bảo vệ tế bào hồng cầu và những cơ quan trong cơ thể chống lại tổn
thương. Một vài nghiên cứu cho thấy rằng việc bổ sung vitamin E có thể bảo vệ

gan khỏi gốc cơ bản – chất làm tổn hại trung gian được sinh ra từ việc dùng rượu
quá nhiều. Vì vậy, những người uống rượu thường xuyên, và đặc biệt những người
bị bệnh gan do rượu, có thể có lợi từ việc bổ sung vitamin E. Do vitamin E yêu
cầu có mật để hấp thu, nên những người bị tắc mật có thể bị thiếu. Thiếu vitamin
E thì nhìn thấy thường xuyên nhất ở những người mà bilirubin đã tăng trên 3
mg/dl và alkaline phosphatase (AP) trên 1.000 IU/l. Vì vậy, những người ứ mật
(như những người xơ gan tắc mật nguyên phát) hay những người xơ gan mất bù
(bởi bất kỳ bệnh gan nào) có thể có lợi từ việc bổ sung vitamin E. Một sự thiếu
vitamin E có thể dẫn đến sự miễn dịch bị tổn thương, cảm giác mất thăng bằng, và
thiếu sự hoạt động đồng bộ. Trên thực tế, sự thiếu vitamin E có thể gây nên những
rối loạn thần kinh sau ghép gan. Ở những trường hợp nặng, việc thiếu vitamin E
kéo dài, mù có thể xảy ra.
Chế độ hỗ trợ hàng ngày được đề nghị bởi chính phủ Mỹ về vitamin E thường nhất
là 100 IU mỗi ngày (mặc dù nó được trong khoảng từ 30 đến 400 IU mỗi ngày).
Số lượng vitamin E này có thể dễ dàng được chứa trong một chế độ ăn cân đối.
Những thực phẩm chứa nhiều vitamin E là dầu thực vật, các loại ngũ cốc, xanh
nhiều lá sẫm màu, quả hạch và họ đậu. Những thức ăn này được xếp trong nhóm
những acid béo dạng chuỗi không bão hòa. Hầu hết những bổ sung vitamin E chỉ
chứa alpha- tocopherol, là một cấu trúc có hiệu lực nhất của vitamin E. Để sự có
lợi từ bổ sung vitamin E, nó nên chứa tất cả alpha- và gamma- tocopherol và được
dùng với kẽm. Nếu có thể, nên cố gắng có được ester tan trong nước của vitamin E
(d- alpha- tocopheryl- polyethylene glycol succinate [TPGS]). Vitamin E được hấp
thu tốt nhất khi ở cấu tạo này, cấu tạo này thì quan trọng đặc biệt nếu ứ mật tồn tại.
Một vài nhà nghiên cứu tin rằng điều trị bằng vitamin E có thể là một hỗ trợ có lợi
cho điều trị viêm gan virus. Trong một vài nghiên cứu được thực hiện ở những
bệnh nhân mắc viêm gan virus C mạn, tỉ lệ đáp ứng được cải thiện bởi việc thêm
vào vitamin E trong việc điều trị bằng interferon và ribavirin. Do đó, đã có đề nghị
là vitamin E có thể làm chậm sự tiến triển của bệnh gan; trì hoãn đợt cấp và giảm
mức độ của bệnh, giảm tác dụng phu khi dùng ribavirin : thiếu máu ở một vài
bệnh nhân; giúp làm dịu tình trạng vọp bẻ cẳng chân; giảm tình trạng mất trí nhớ;

và gia tăng khả năng tình dục ở nam giới – là những thuận lợi có liên quan đặc biệt
đến vitamin E trong điều trị với interferon và ribavirin. Trong những nghiên cứu
sắp tới cần xác định hiệu quả của vitamin E như là một hỗ trợ điều trị bệnh gan.
Có thể là một ý kiến hay cho việc bổ sung vitamin E ở liều từ 400 đến 800 IU mỗi
ngày. Hãy nhớ rằng những thuận lợi có tiềm năng được đề cập ở trên của vitamin
E chưa được xác nhận ở những bệnh nhân viêm gan virus C và vì vậy nên cân
nhắc.
Bổ sung vitamin E có thể gây nên chảy máu kéo dài và bầm tím nếu dùng cùng
với thuốc chống đông (pha loãng máu) như Coumadin hay Plavix hay nếu dùng
chung với thảo mộc như tỏi hay cây bạch quả (ginkgo). Những người bị xơ gan
mất bù nên tránh dùng bổ sung vitamin E, đặc biệt nếu họ đã từng chảy máu do
giãn tĩnh mạch hay họ có thiếu vitamin K đã được biểu hiện rõ bằng thời gian
prothombin kéo dài. Cuối cùng, việc bổ sung vitamin E không nên tiếp tục trong
khoảng một tháng trước bất kỳ phẫu thuật nào hay bất kỳ một thủ thuật xâm lấn
(như sinh thiết gan).
Vitamin K
Vitamin K được dùng bởi gan để sản xuất protein prothrombin. Prothrombin, như
đã được thảo luận , thì có vai trò chủ yếu cho việc cầm máu. Không có vitamin K,
con người sẽ chảy máu như bị cắt. Vitamin K cũng giúp giữ cho xương cứng chắc.
Vitamin K đóng một vai trò quan trọng trong việc chuyển đổi glucose thành
glycogen. Glycogen sau đó được dự trữ ở gan, tạo nên năng lượng dữ trữ. Một nửa
vitamin K trong cơ thể được tạo bởi vi khuẩn cộng sinh mà sống tự nhiên trong
đường ruột. Phần còn lại được lấy từ nguồn thức ăn. Việc lạm dụng thuốc nhuận
trường, như dầu khoáng chất, hay dùng những kháng sinh trong thời gian dài có
thể gây nên sự tan máu do vitamin K.
Khi sự thiếu vitamin K là do hấp thu kém, thì sự khiếm khuyết này có thể được
giải quyết bằng vitamin K tan trong nước dùng bằng đường uống, được biết như
Synkayvite (5 đến 10 mg mỗi ngày), cho đến khi yếu tố gây nên việc hấp thu kém
được được loại bỏ. Những người mắc bệnh gan ứ mật có xu hướng thiếu vitamin
K mà không thể giải quyết bằng bổ sung đường uống. Trong điều kiện mà chảy

máu là nguy cơ tiềm năng (như những người có yêu cầu phẫu thuật), tiêm truyền
tĩnh mạch huyết thanh tươi đông lạnh được cho những bệnh nhân này để giải
quyết tạm thời vấn đề này. Ở những người có tắc nghẽn ở đường mật ngoài gan,
việc thiếu có thể được giải quyết bằng tiêm vitamin K.
Những thực phẩm chứa dồi dào vitamin K gồm spinach và những rau nhiều láxanh,
cà rốt, khoai tây, món ăn làm từ ngũ cốc, và gan. Không có một bổ sung hàng
ngày được yêu cầu đối với vitamin K.

2/NHỮNG VITAMIN TAN TRONG NƯỚC
Những vitamin tan trong nước bao gồm vitamin C và các vitamin B. Phức
hợp vitamin B gồm 8 vitamin B khác nhau. Không cần mỡ hay mật để hấp thu các
vitamin tan trong nước từ đường tiêu hóa, và vì thế sự thiếu những vitamin này
không thường xảy ra ở những người mắc bệnh gan ứ mật. Những vitamin tan
trong nước được dự trữ trong cơ thể hay được dùng để thỏa mãn những yêu cầu
hàng ngày. Lưu giữ những vitamin này có thể kéo dài nhiều tháng. Vì thế, những
người bệnh gan hiếm khi có thiếu một vitamin tan trong nước. Một ngoại lệ cho
quy luật này: những người mắc bệnh gan do rượu. Ở nhóm này thường yêu cầu
việc bổ sung vitamin tan trong nước bởi vì thiếu dinh dưỡng xảy ra bởi rượu trong
cơ thể. Việc ngộ độc bởi những vitamin tan trong nước thì hiếm, vì những liều quá
nhiều những vitamin này có thể dễ dàng thải ra khỏi cơ thể qua mồ hôi hay nước
tiểu.
Vitamin C
Vitamin C được biết như axit ascorbic là một chất chống oxy hóa. Vitamin này hỗ
trợ cho việc lành vết thương bị cắt và bầm tím và cũng giúp cứng chắc xương, sụn,
răng và da. Thêm vào đó, vitamin C làm tăng việc hấp thu sắt. Vì vậy, những
người có bệnh thừa sắt như hemochromatosis, và những bệnh nhân viêm gan virus
C mạn có gia tăng lượng sắt phải cẩn thận không được dùng quá nhiều vitamin
này. Tuy nhiên, do vitamin này giúp trong quá trình sản xuất interferon – một
protein của hệ miễn dịch được tạo bởi cơ thể, cho nên việc bổ sung vitamin này có
thể có lợi trong việc điều trị những bệnh nhân viêm gan virus C và B. Do đó, một

vài chuyên gia cảm thấy rằng vitamin C có thể làm chậm đợt bùng phát của bệnh
và giảm mức độ của việc thiếu máu liên quan đến ribavirin ở một vài bệnh nhân
viêm gan virus C được điều trị bằng interferon và ribavirin. Thêm cả những thuận
lợi cũng như không thuận lợi được nhấn mạnh sự quan trọng cho việc thảo luận
việc bổ sung với một chuyên gia am tường.
Hầu hết những trái cây tươi và rau chứa hàm lượng phong phú vitamin C. Người
ta có thể thấy rằng việc nấu phá huỷ vitamin C bên trong thực phẩm. Hàm lượng
vitamin C được đề nghị là khoảng 60 đến 72 mg mỗi ngày. Hàm lượng này thì dễ
dàng chứa trong một chế độ ăn khỏe mạnh. Một người bệnh gan, người mà không
dùng một chế độ ăn khỏe mạnh như những người mắc bệnh gan do rượu với
nhữnng calori đầu tiên của những người này có được từ chế độ ăn là từ rượu, thì
cần được ăn bổ sung vitamin C. Ngoài ra, những người bệnh gan mà dùng thuốc
ngừa thai uống, dùng thuốc giảm đau nào đó, hay hút thuốc lá có thể giảm mức
vitamin C trong cơ thể và được yêu cầu bổ sung. Đối với tất cả những người mắc
bệnh gan khác, việc bổ sung vitamin C nói chung không cần thiết trừ khi được đề
nghị trong những tình huống đặc biệt khi được xác định bởi bác sĩ của họ.
Vitamin C bổ sung nên được dùng ở dạng ester hoá (Ester C) cho việc hấp thu và
hiệu quả tối đa. Vitamin C nhai có thể gây nên nguy hại cho răng và nên tránh.
Đấy là điều quan trọng đặc biệt đối với những người mắc bệnh gan liên quan đến
miệng khô (như PBC) và những người đang điều trị viêm gan bằng interferon-
những người cũng có xu thế bị những lỗ hổng răng miệng.
Phức hợp vitamin B
Các vitamin B gồm có 8 vitamin khác nhau: thiamine (vitamin B1), riboflavin
(vitamin B2), niacin (vitamin B3), pantothenic (vitamin B5), pyridoxine (vitamin
B6), cyanocobalamin (vitamin B12), folate, và biotin. Tất cả chúng, ngoại trừ việc
quá liều niacin, là an toàn đối với người bệnh gan. Sau đây là một thảo luận về
mỗi vitamin.
 Thiamine (vitamin B1) thì cần thiết cho việc chuyển hoá các carbohydrate
thành năng lượng và được sử dụng trong não và hệ thần kinh. Nó cũng hỗ
trợ ngon miệng và tiêu hóa. Những triệu chứng của thiếu thiamin bao gồm

mất cảm giác ngon miệng, nhẫm lẫn, mất cân bằng. Vitamin này thì thường
thiếu ở những người mắc bệnh gan. Dùng caffeine quá nhiều có thể giảm
lượng thiamine trong cơ thể. Khi những dấu hiệu thần kinh của thiếu
thiamin xảy ra ở những người mắc bệnh gan do rượu, thì nhập viện và bổ
sung thiamine tĩnh mạch ngay lập tức được yêu cầu.
Thiamin có thể tìm thấy ở các loại ngũ cốc hay những món ăn từ ngũ cốc, bánh mì,
gạo nâu, thịt lợn, gan, và đậu nành. Khoảng 5 mg là hàm lượng tối đa thiamine có
thể được hấp thu mỗi ngày từ việc bổ sung. Một vài “viên thuốc chữa căng thẳng”

×