Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Giáo trình - Ngư loại II (Giáp xác &Nhuyễn thể)-p2-chuong 2-4 doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.81 MB, 7 trang )

CHƯƠNG II: LỚP CAUDOFOVEATA (CHAETODERMOMORPHA)

Trước đây một số nhà nghiên cứu phân loại xếp lớp Caudofoveata và Solengastres chung
vào một lớp là Aplacophora nhưng ngày nay chúng được tách thành hai lớp riêng biệt.
Lớp Caudofoveata là gồm những loài Mollusca khác thường, không có vỏ, hình giun.
Chúng hầu hết cơ thể dài theo trục trước sau, sống vùi trong lớp bùn mềm (phù sa) và
phân bố hoàn toàn ở biển sâu. Cơ thể hình trụ, dài khoảng 2mm đến 14 cm phần đầu có
miệng vùi trong bùn,
Caudofoveata ăn thức ăn chứa trong bùn. Xoang màng áo chứa một
đôi màng hình lược nằm tận cùng phía sau của cơ thể (Hình 12, 13).
Caudofoveata không có chân, màng áo bao lấy cơ thể. Chúng di chuyển nhờ vào nhu
động của của hệ thống cơ phát triển mạnh trên thành cơ thể. Thay vì tiết ra vỏ thì biểu bì
tiết những vảy xếp chồng lên nhau, chúng bao phủ toàn bộ bề mặt cơ thể. Một số cơ quan
của nhóm này thoái hóa: đầu rấ
t nhỏ, không có mắt và xúc tu cảm giác; không có cơ quan
bài tiết và ống dẫn dinh dục (tuyến sinh dục thống với xoang bao tim); một số loài không
có lưỡi sừng. Tận cùng của đầu có đĩa chitin và một vài tuyến mà cho đến nay chưa xác
định được chức năng của chúng. Có khoảng 70 loài thuộc Caudofoveata, chúng là những
loài ăn thức ăn lắng tụ ở đáy thủy vực.


Hình 12: Hình thái bên ngoài củaThân mềm thuộc lớp Caudofoveata,
loài Falcidens sp. Theo A.H. Scheltema. Trích dẫn bởi Jan A.
Pechenik, 2000.

144

Hình 13: Hình thái cấu tạo của Thân mềm thuộc lớp Caudofoveata. Theo Aarhus
University, 1999. The Invertebrates, An Illustrated Glossary. International M.Sc.
Programme in Marine Sciences.



145
CHƯƠNG III:LỚP SOLENGASTRES (NEOMENIOMORPHA)

Các loài thuộc nhóm Solengastres có hình dạng bên ngoài tương tự như lớp
Caudofoveata, cũng không có vỏ và gần như không có đầu. Cơ thể kéo dài theo trục
trước-sau, không có tuyến bài tiết, ống sinh dục và một số loài không có lưỡi sừng.
Chúng khác so với nhiều loài Mollusca nhưng có quan hệ rất gần với nhóm Mollusca có
vỏ. Cơ thể Solengastres dài khoảng 1 mm đến 30 cm, cơ thể dẹp bên, có một rãnh bụng
theo chi
ều dọc, trong đó có 1 hay nhiều nếp gấp được xem là để giảm tiết diện chân.
Màng áo bao lấy cơ thể, và được ngăn cách bởi rãnh chân và trên bề mặt màng áo gắn
một hoặc nhiều lớp vảy vôi hay các gai chitin. Phần trước của rãnh bụng có nhiều tiêm
mao và miệng nằm ở mặt bụng của phần đầu; tận cùng phía sau của bụng là xoang màng
áo, Solengastres không có mang lược nhưng mang thứ sinh có dạng nếp gấp hoặ
c các
mấu lồi rất phát triển (Hình 14, 15).
Solengastres là các loài ăn động vật, bắt mồi trên Cnidaria (Thích ty bào). Cách ăn mồi
của Solengastres thì chưa được xác định rõ bởi vì lưỡi sừng bị thoái hóa hoặc không có
lưỡi sừng. Mặc dù hệ cơ trên vách cơ thể rất phát triển nhưng sự di chuyển của
Solengastres không nhờ vào sự vận động của cơ mà nhờ vào sự trượt bằng cách sử dụ
ng
các tiêm mao trên nếp gấp dọc theo rãnh bụng. Tất cả các loài thuộc Solengastres đều
lưỡng tính, sự bắt cặp xảy ra nhờ các gai sinh dục (stylet). Ở một vài loài, tinh trùng được
tồn trữ bởi cá thể nhận tinh trong các túi chứa tinh.
Có 180 loài đã được mô tả hiện nay, tất cả đều sống ở biển và được chia thành 2 bộ dựa
vào số lượng lớp vảy vôi trên màng áo.


Hình 14: Hình thái

bên ngoài của Thân
mềm thuộc lớp
Solengastres, loài
Neomenia carinata.
Theo Hyman. Trích
dẫn bởi Jan A.
Pechenik, 2000.

146

Hình 15: Hình thái cấu tạo của Thân mềm thuộc lớp Solengastres. Theo Aarhus
University, 1999. The Invertebrates, An Illustrated Glossary. International M.Sc.
Programme in Marine Sciences.


147
CHƯƠNG IV:LỚP MONOPLACOPHORA

Monoplacophora theo tiếng Hy Lạp có nghĩa là mang một tấm vỏ (mono=một,
placo=tấm, phora=mang hay đeo). Trước năm 1952, Monoplacophora chỉ được biết qua
mẫu hóa thạch hình thành từ kỷ Cambria và Devon, một số mẫu hóa thạch thu được trong
thập kỷ 1890 nhưng được xếp vào lớp Gastropoda hoặc chưa được chú ý đến. Đến năm
1952 cuộc thám hiểm “Galathea” đã thu được hơn 10 cá th
ể sống thuộc giống Neopilina
từ vùng nước sâu khoảng 2.000m ngoài khơi bờ biển Mexico. Chúng được đặt tên là
Neopilina galathea, nhưng vài năm sau đó loài thứ hai Neopilina ewingi cũng được phát
hiện. Từ đó Monoplacophora mới được phân thành một lớp riêng biệt, hiện nay chỉ có
hai đại diện thuộc lớp này được biết là còn sống sót.
Monoplacophora có một tấm vỏ hình nón và không khác vỏ của ốc nón (Limpet). Vỏ của
Monoplacophora tr

ưởng thành có dạng dẹp mặc dù vỏ của ấu trùng có dạng xoắn. Kích
thước vỏ tối đa ở cá thể trưởng thành của loài bé nhất khoảng 1mm, trong khi loài lớn
nhất đạt đến 37mm (Hình 17a). Chân của Monoplacophora lớn và phẳng giống như chân
của Gastropoda và Polyplacophora. Hai bên chân là rãnh màng áo có chứa 3, 5 hoặc 6
đôi mang lược đồng dạng.
Bên trong, cơ thể có 8 đôi cơ lưng-bụng để điều khiển chân. Đặ
c điểm cấu tạo này được
suy luận từ vỏ hóa thạch. Hệ tiêu hóa của Monoplacophora với miệng nằm ở phía trước,
hậu môn nằm phía sau cơ thể, có sự hiện diện của lưỡi sừng và trụ thủy tinh (crystalline
style), ruột thẳng (Hình 16). Giống như Polyplacophora, Caudofoveata và Solengastres,
hệ thống thần kinh của Monoplacophora gồm một đôi dây thần kinh bên và và một đôi
thần kinh chân (Hình 17b). Monoplacophora
có 5-6 đôi thận nằm trên rãnh màng áo, số
đôi thận tương đương với số đôi mang. Xoang cơ thể gồm xoang bao tim và xoang của
hai đôi tuyến sinh dục. Tim nằm trong xoang bao tim gồm một tâm thất và hai đôi tâm
nhĩ, tâm nhĩ trước và tâm nhĩ bên.

148

Hình 16: Hình thái cấu tạo của Thân mềm thuộc lớp Monoplacophora. Theo Aarhus
University, 1999. The Invertebrates, An Illustrated Glossary. International M.Sc.
Programme in Marine Sciences.
Một số nhà nghiên cứu đã chứng minh rằng cấu tạo của Monoplacophora là những bằng
chứng tiến hóa về mối liên quan giữa Mollusca và Annelida (Mollusca có nguồn gốc từ
Annelida-Giunđốt). Giữa Monoplacophora và Annelida khác nhau về sự phân đốt,
Annelida có sự phân đốt thể hiện ra bên ngoài còn sự phân đốt củ
a Monoplacophora
không rõ ràng và không thể hiện ra bên ngoài. Các nhà khoa học giải thích sự phân đốt rõ
ràng này là sự thể hiện tính thích nghi trên cơ sở thực hiện chức năng của một cơ quan
chứ không phải là kết quả của sự phân đốt tự nhiên.



149

Hình 17: (a) Vỏ của Monoplacophora trưởng thành. (b) Hệ thần kinh
nhìn từ mặt lưng. Theo E.N.K. Clarkson, Invertebrate Palaeontology
& Evolution, 2d ed. Copyright © 1986 Chapmean & Hall, Div.
International Thomson Publishing Services Ltd., UK. Trích dẫn bởi
Jan A. Pechenik, 2000.















150

×