Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

quá trình hình thành công tác quản lý tài chính bảo hiểm xã hội việt nam thực trạng và giải pháp p9 doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.7 KB, 9 trang )

§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp
- Lập hệ thống đại lí thực hiện chi trả kịp thời đảm bảo công tác chi
được thực hiện một cách nhanh chóng, chính xác. Theo như tình hình hiện
nay, đối với các chế độ ngắn hạn đại lí chính là người sử dụng lao động, đối
với các chế độ dài hạn chủ yếu là các cán bộ xã phường là phù hợp với điều
kiện nước ta hiện nay. Tuy vậy cùng với sự phát triển của hệ thống ngân
hàng hiện nay thì chúng ta có thể triểm khai áp dụng hình thức chi tra thông
qua hệ thống tài khoản. Đây cũng là định hướng tốt bởi nếu thực hiện được
thì chi phí quản lí sẽ tiết kiệm được chi phí quản lí lại vừa đảm bảo tính an
toàn.
2.3. Giải pháp cho công tác chi quản lí.
Như chúng ta đã biết chi quản lí hiện nay có hai khoản chi lớn đó là
chi hoạt động thường xuyên của bộ máy quản lí và chi đầu tư xây dựng cơ
bản. Đối với khoản chi thường xuyên của bộ máy quán lí cần áp dụng những
biện pháp sau để tiết kiệm chi phí quản lí mà vẫn đảm bảo được hiệu quả
hoạt động của hệ thống BHXH:
- Thứ nhất là cần phải ngiên cứu xem xét các khoản chi cho hợp lí cân
đối với các ngành khác. Vì hiện nay BHXH vẫn thực hiện quản lí lao động
dưới hình thức biên chế như các đơn vị hành chính khác, mức lương vẫn tính
trên cơ sở bảng lương Nhà nước.
- Cũng giống như các đơn vị hành chính khác BHXH vẫn còn bộ máy
quản lí tương đối cồng kềnh. Do vậy cần thực hiện các biện pháp sắp xếp lại
bộ máy quản lí, tuyển dụng những lao động được đào tạo chính quy, có năng
lực, có trình độ và đặc biệt có đạo đức. Tránh tình trạng số lao động nhiều
song hiệu quả công việc không cao. Bên cạnh đó cần khuyến khích lao động
phát huy hiệu quả công việc.
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp
Tiếp theo là những biện pháp đối với chi đầu tư xây dựng cơ bản.
- Trước hết, chúng ta đã biết khoản chi này lấy từ lãi đầu tư để nâng cấp
các trụ sở BHXH tỉnh, huyện hay mua sắm các trang thiết bị phục vụ cho
quản lí. Đối với các khoản chi này cần lập các dự án và quyết toán để thẩm


định xem xét lĩnh vực này có thực sự cần thiết đối với hoạt động của BHXH.
Phải thực hiện đầy đủ, nghiêm túc các quy định, trình tự về công tác quản lí
đầu tư, thực thi công việc đúng thẩm quyền, trách nhiệm theo phân cấp.
- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát thẩm, định ở tất cả các giai
đoạn từ khâu lập dự án cho đến khâu tổ chức thi công, bàn giao công trình
đưa công trình vào sử dụng. Trong ba khâu đó cần đặc biệt chú trọng đến
khâu giám sát thi công, xem xét công trình phải được xây dựng theo đúng
thiết kế dự án, đúng chủng loại vật tư, đúng giá cả trên thị trường. Kịp thời
báo cáo tiến độ của dự án, sau đó đưa ra những biện pháp khi có những thay
đổi.
- Các dự án được thông qua phải là các dự án phù hợp với công tác quản
lí của từng đìa vừa đảm bảo tính hiện đại, không bị lạc hậu ít nhất trong
mười năm tới. Và việc áp dụng các dự án phải thực sự có ích và tiết kiện chi
phí tối đa. Cán bộ quản lí của những hoạt động này cần phải học hỏi, nghiên
cứu tài liệu để nâng cao kiến thức, trình độ nghiệp vụ về lĩnh vực đầu tư xây
dựng và mua sắm trang thiết bị. Thông qua những kiến thức đó BHXH có
thể tự quản lí các khoản chi đầu tư nâng cấp xây dựng mà không lãng phí
vào các công trình không có ích.
2.4. Giải pháp đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH.
Đầu tư để bảo toàn và tăng trưởng trưởng quỹ hiện nay đang là hoạt
động cần thiết giúp cho quỹ BHXH có đủ tiềm lực tài chính đáp ứng được
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp
nhu cầu chi trả cho các đối tượng. Đây là lĩnh vực đáng quan tâm và cần có
những giải pháp cụ thể để đẩy mạnh hoạt động đầu tư một cách có hiệu quả.
Với điều kiện kinh tế trong nước như hiện nay hướng đầu tư tăng trưởng quỹ
cần được quan tâm đúng mức và đây cũng là giải pháp cho tương lai.
- Hiện nay tỉ lệ quỹ nhàn rỗi được đem đi đầu tư là khá cao song thực sự
hiệu quả trên đồng vốn còn thấp. Một số cho rằng nên đầu tư khoảng 80%
vốn nhàn rỗi vào các lĩnh vực an toàn mà chủ yếu là thông qua các tổ chức
tài chính và tiền tệ cuả Nhà nước. Đây cũng chính là những biện pháp bảo

tồn quỹ BHXH được quy định trong quy chế tài chính BHXH ban hành kèm
Nghị quyết 2/2003 của Thủ tướng Chính phủ. Các hoạt động đó bao gồm:
+ Mua trái phiếu, tín phiếu, kì phiếu, công trái của Kho bạc Nhà nước
và các ngân hàng thương mại của Nhà nước.
+ Cho NSNN, Quỹ hô trợ đầu tư và phát triển, các ngân hàng thương
mại của Nhà nước, ngân hàng chính sách vay.
+ Đầu tư vào một số dự án có nhu cầu về vốn do Thủ tướng Chính
phủ quyết định.
20% quỹ nhàn rỗi còn lại có thể đem đầu tư vào các hình thức đầu tư
khác với tỷ lệ lợi nhuận cao hơn. Chẳng hạn như đầu tư bất động sản, đầu tư
vào thị trường chứng khoán, đầu tư trực tiếp vào các dự án sản suất kinh
doanh khác,
- Với thời điểm hiện nay nền kinh tế nước ta đang tương đối ổn định,
nhu cầu về vốn đầu tư rất cao, thị trường trong nước hiện nay đang khuyến
khích sự tham gia đầu tư vốn từ nước ngoài. Việc đầu tư thị trường trong
nướcc hiện nay là rất cần thiết, vả lại đầu tư trong nước còn mang lại nhiều
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp
lợi ích về mặt xã hội khác. Do vậy nên mở rộng danh mục đầu tư đối với quỹ
nhàn rỗi của BHXH Việt Nam hiện nay.
- Cùng với việc mở rộng danh mục đầu tư, hạn mức đầu tư chúng ta có
thể phân cấp quyết định đầu tư. Đối với các hạng mục đầu tư ít rủi ro để
giám đốc BHXH Việt Nam quyết định, Chính phủ chỉ quyết định đối với các
hình thức đầu tư khác nhiều rủi ro hơn. Như vậy BHXH sẽ chủ động và có
trách nhiệm hơn trong công tác đâu tư của mình, Chính phủ thì không phải
bận tâm đến những việc không thực sự cần thiết.
- Nhà nước cũng cần có những biện pháp khuyến khích hoạt động đầu tư
quỹ BHXH như chính sách miễn giảm thuế, ưu tiên trong những hạng mục
đầu tư có lợi nhuận cao như lĩnh vực dầu khí, điện tử viễn thông,
- Bản thân BHXH cũng nên lập ra bộ phân chuyên trách thực hiện hoạt
động đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH, tránh tình trạng kiêm nhiệm không

chuyên sâu vào lĩnh vực này. Có những cán bộ chuyên trách có trình độ và
kinh nghiệm về đầu tư và phân tích tài chính, chúng ta mới có thể có hiệu
quả cao trong đầu tư tăng trưởng quỹ.
2.5. Giải pháp về quản lí cân đối quỹ.
Hiện nay quỹ BHXH đang được quản lí tập chung thống nhất ở cơ
quan cao nhất đó là BHXH Việt Nam. Quỹ BHXH được hoạch toán cuối
năm theo hình thức cân đối thu chi, hiện nay quỹ BHXH đang trong giai
đoạn đầu của quá trình thực hiện theo cơ chế PAYGO nên số dư quỹ hàng
năm còn tương đối cao. Việc đẩy mạnh hoạt động thu, đặc biệt là thu từ đầu
tư tăng trưởng quỹ và tiết kiệm chi là hợp lí. Theo các dự báo tài chính thì
BHXH Việt Năm đến khoảng 40 năm nữa, thu của BHXH không đủ chi, quỹ
BHXH sẽ bị thâm hụt. Trong những năm tới chúng ta nên có những biện
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp
pháp khắc phục tình trạng đó trong tương lai. Sau đây là một vài giải pháp
đưa ra để khắc phục tình trạng trên:
- Tăng thu BHXH: Đây là biện pháp dễ thực hiện song với mức thu phí
BHXH như hiện nay đã là cao so với đồng lương chi trả cuộc sống của bản
thân người lao động. Nếu thực hiện biện pháp này có lẽ là không phù hợp và
chắc chắn người lao động và chủ sử dụng sẽ không đồng tình cho lắm.
- Biện pháp thứ hai có thể áp dụng là giảm chi: Theo các nghiên cứu cho
biết tỷ lệ hưởng của các chế độ đặc biệt là chế độ hưu chí hiện nay của Việt
Nam là tương đối cao, thời gian hưởng trợ cấp thai sản dài so với các nước
khác trên thế giới. Do vậy giảm tỉ lệ hưởng cũng có thể là một hướng giải
quyết cần đưa ra để nghiên cứu và xem xét.
- Hướng thứ ba là tăng thời gian đóng góp, tức là giảm tuổi nghỉ hưu đối
với các đối tượng. Trong ba hướng trên thì đây có lẽ là hướng hợp lí nhất,
tăng thời gian đóng đồng nghĩa với việc giảm thời gian hưởng. Như vậy vừa
làm giảm chi lại vừa tăng thu. Xu thế này cũng phù hợp với điều kiện và
hoàn cảnh thế giới hiện nay. Thứ nhất là tình hình sức khoẻ của người lao
động ngày càng tốt, tuổi thọ trung bình của người dân ngày càng tăng. Thứ

hai là xu hướng thế giới hiện nay đang tăng độ tuổi về hưu của người lao
động, đặc biệt là đối với lao động nữ.
Việc quan trọng hiên nay là nếu thực hiện các biện pháp trên thì áp
dụng và triển khai nó như thế nào? Nếu tăng tỉ lệ đóng góp, giảm tỉ lệ
hưởng, tăng độ tuổi nghỉ hưu thì độ tuổi ấy là bao nhiêu? Sau đây tôi xin
trình bầy phương pháp triển khai đối với hướng thứ ba, tức là tăng độ tuổi về
hưu. Chúng ta nên áp dụng quy định tăng tuổi nghỉ hưu đối với các lao động
bắt đầu tham gia lao động (và tham gia BHXH) từ ngày 1/1/2010. Như vậy
35 năm sau là lúc họ khoảng 60 tuổi là tuổi họ sẽ về hưu, khi đó họ sẽ tiếp
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp
tục đóng góp thêm một số năm nhất định tức là BHXH lức đó sẽ tăng thu từ
khoản đóng góp thêm của họ và giảm chi đối với những khoản chi mà lẽ ra
nếu về hưu sớm họ đã được nhận. Phương thức này có thể giải quyết được
tình trạng thâm hụt quỹ BHXH trong 40 năm tới. Vấn đề thứ hai đặt ra độ
tuổi tăng thêm bao nhiêu là hợp lí? Theo tôi trước tiên chúng ta nên tăng độ
tuổi nghỉ hưu của nữ lên 58 và đối với nam là 63 (tức là tăng thêm ba năm)
sau đó trong quá trình thực hiện chúng ta có thể tiếp tục điều chỉnh.
Có những ý kiến cho răng quỹ BHXH nên thực hiện chi trả cho mọi
đối tượng tại thời điểm này vị hiện nay số dư quỹ là rất lớn. NSNN chỉ đóng
vai trò hỗ trợ bù thiếu chứ không phải chi trả cho các đối tượng nghỉ hưu
trước 1995 như hiện nay. Đây cũng là ý kiến đóng góp cần được nghiên cứu
và xem xét kĩ lại vì trong điều kiện như hiện này thì quỹ BHXH đang có số
dư rất lớn. Hoạt động đầu tư quỹ chưa thực sự hiệu quả, điều kiện kinh tế
không ổn định lạm phát cao dễ dẫn đến những thay đổi trong quy định mức
hưởng. Như vậy sẽ gây ra gánh nặng lớn cho quỹ BHXH trong tương lai.
3. Một số kiến nghị.
3.1. Kiến nghị về phía Nhà nước.
- Sớm hoàn thiện hành lang pháp lí cho việc thực hiện BHXH, tạo điều
kiện cho BHXH được thực hiện rộng rãi, mở rộng đối tượng và tiến tới dần
hoàn thiện các chế độ theo quy định của ILO. Cần thay đổi các quy định về

các thủ tục hành chính sao cho thuận tiện cho cả người lao động và quá trình
xét duyệt của cán bộ BHXH. Đề nghị Chính phủ mở rộng danh mục đầu tư,
hạn mức đầu tư, mở rộng hoạt động đầu tư tăng trưởng để tăng thu cho quỹ
BHXH Việt Nam. Bên cạnh đó Nhà nước cũng nên có các hình thức khuyến
khích và ưu đãi cho hoạt động đầu tư của ngành, các chính sách ưu đãi về
thuế.
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp
- Cần đưa ra những quy định sử phạt nghiêm khắc đối với những sai
phạm của đối tượng trốn tham gia, trốn đóng hay nợ đọng. Có những biện
pháp xử phạt nghiêm minh đối với các trường hợp vi phạm làm giả giấy tờ
để hưởng các chế độ BHXH nhằm trục lợi cho bản thân.
- Đưa ra những quy định phân rõ quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan
quản lí Nhà nước, cơ quan quản lí sự nghiệp BHXH để phù hợp và tiện trong
quá trình thực hiện các chế độ và các hoạt động khác.
3.2. Kiến nghị về phía BHXH.
- Xây dựng bộ máy quản lí với các cán bộ có năng lực và trình độ
chuyên môn. Phân cấp chức năng quản lí theo các cấp cụ thể đối với mỗi
đơn vị cấp quản lí. Tích cực thức hiện việc đào tạo và nâng cao năng lực cán
bộ trong ngành, thường xuyên thực hiện việc đánh giá lại đội ngũ cán bộ,
viên chức của nganh.
- Cần đẩy mạnh công tác kiểm tra, kiểm soát kịp thời phát hiện những
sai trái để có hình thức sử phạt hoặc báo cáo lên các ban ngành có liên quan.
Bên cạnh đó cần có những hình thức kỉ luật nghiêm khắc đối với cán bộ của
ngành có những sai phạm nghiêm trọng. Nên xây dựng phong trào thi đua,
khen thưởng để kịp thời động viên các cán bộ có những thành tích trong
công tác.
- Đẩy mạnh công tác nghiên cứu cũng như trang bị các máy móc hiện
đại giúp cho công việc vừa nhanh chóng vừa tiết kiệm được chi phí. Thực
hiện công tác tuyên truyền sâu rộng trong quần chúng nhân dân. Nội dung
tuyên truyền phải thể hiện được các chính sách mới, hình thức tuyên truyền

phải sâu rộng và dễ hiểu, phù hợp với các loại đối tượng.
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp
- Cần phối hợp với các ban ngành chức năng có liên quan đến BHXH để
kết hợp thực hiện công tác có hiệu quả. Đặc biệt với một số ban ngành sau:
Liên đoàn lao động Việt Nam để đảm bảo quyền lợi tham gia BHXH của
người lao động; Ngành thuế để phối hợp kiểm tra quỹ lương của doanh
nghiệp cũng như sự tham gia BHXH cho người lao động của các doanh
nghiệp đó; Hệ thống ngân hàng để truy thu BHXH từ tài khoản của các đơn
vị có tài khoản tại các ngân hàng; Với các trường đại học trong vấn đề đào
tạo cán bộ.
- Xây dựng những báo cáo tài chính BHXH hàng năm và các dự toán tài
chính trong những năm tiếp theo. Đồng thời phải dự tính được các thông số
thông qua thống kê về số lượng, cơ cấu, độ tuổi, Từ đó phải dự toán được
quá trình hưởng, khoản hưởng, mức hưởng, thời gian hưởng để triển khai
thực hiện điều chỉnh các mức đóng góp, tỉ lệ hưởng cho từng giai đoạn sao
cho phù hợp. Đây cũng là căn cứ để BHXH đề nghị thay đổi chính sách cho
phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội trong thời gian tới.




KẾT LUẬN:

Cùng với sự đổi mới nền kinh tế, BHXH cũng được thực hiện đổi mới
từ năm 1995. Với sự đổi mới trong quản lí BHXH cũng lập ra cơ chế tài
chính mới với quỹ BHXH có thu và được quản lí độc lập với NSNN. Quỹ
này do chính người lao động và người sử dụng lao động đóng góp tạo nên
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp
dùng chủ yếu để chi trả cho các chế độ nhằm bù đắp cho những rủi ro mà
người lao động gặp phải. Để tạo lập và quản lí hợp lí quỹ BHXH, đảm bảo

khả năng chi trả, BHXH cần có hoạt động quản lí tài chính của mình sao cho
hợp lí. Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động này tôi đã chọn đề tài:
“ Công tác quản lí tài chính BHXH Việt Nam thực trạng và giải pháp”
Trong chuyên đề thực tập của mình tôi muốn làm rõ vai trò, nội dung
chính và những yếu tố tác động đế công tác quản lí tài chính của nước ta.
Nghiên cứu thực trạng của công tác này đang được thực hiện tại BHXH Việt
Nam và những kinh nghiệm quản tổ chức quản lí tài chính BHXH ở một số
nước trên thế giới. Trên cơ sở phân tích các nội dung chính của hoạt động
quản lí tài chính BHXH ở Việt Nam: hoạt động quản lí thu, chi, đầu tư tăng
trưởng quỹ và cân đối quỹ. Với việc phân tích, tổng hợp đánh giá thông qua
các số liệu của BHXH Việt Nam giai đoạn 1995- 2004 để từ đó đưa ra
những kết quả đạt được, những tồn tại cần khắc phục và rút ra những bài học
kinh nghiệm. Trên cơ sở phân tích đó có đưa ra những giải pháp và một số
kiến nghị để khắc phục tình trạng tồn tại của BHXH Việt Nam trong thời
gian tới.
Trong quá trình thực hiện đề tài tôi nhận được rất nhiều sự giúp đỡ,
những ý kiến đóng góp từ giáo viên hướng dẫn Tiến sĩ Phạm Thị Định và
anh chị thuộc phòng Hành chính- Tổng hợp của BHXH Việt Nam. Tôi xin
chân thành cảm ơn sự giúp đỡ đặc biệt nay.
Cuối cùng mong nhân được sự đóng góp từ các ban độc giả cho đề tài
này.


×