§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp
3. Quản lí hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ.
Hiện nay BHXH Việt Nam có quản lí quỹ dựa trên các tài khoản mở
tại ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam và tại Kho bạc
Nhà nước. Theo quy định hiện nay thì số dư trong quỹ BHXH được dùng để
đầu tư tăng trưởng nhằm mục đích bảo tồn và tăng trưởng quỹ. Đây cũng là
một hoạt động hữu hiệu để đảm bảo chi mà không phải tăng thu, hơn nữa
đây cũng là một nguồn thu rất lớn của BHXH Việt Nam. Đối với hoạt động
đầu tư tăng trưởng quỹ phải đảm bảo được yêu cầu an toàn, bảo tồn được giá
trị và có hiệu quả về kinh tế- xã hội. Năm 1996 hoạt động đầu tư mới chỉ
dừng lại ở việc nhận lãi suất 0,3% theo quy định hưởng lãi suất không kì hạn
thì đến năm 1997 các biện pháp bảo toàn và tăng trưởng quỹ đã được mở
rộng, hiện nay hoạt động này gồm có:
+ Mua trái phiếu, tín phiếu, kì phiếu, công trái của Kho bạc Nhà nước
và các ngân hàng thương mại của Nhà nước.
+ Cho NSNN, Quỹ hỗ trợ đầu tư phát triển, các ngân hàng thương mại
của Nhà nước, ngân hàng chính sách vay.
+ Đầu tư vào một số dự án có nhu cầu về vốn do Thủ tướng Chính
phủ quyết định.
Nhìn chung công tác đầu tư tăng trưởng quỹ đã được triển khai thực
hiện ở BHXH Việt Nam, đây cũng là mảng hoạt động quan trọng và bước
đầu đã đem lại những hiệu quả nhất định. Tại BHXH Việt Nam hoạt động
này do Ban kế hoạch- tài chính thưc hiện, theo những đánh giá chung thì số
tiền lãi đã có những đóng góp đáng kể vào chi tiêu xây dựng cơ sở vật chất
kĩ thuật, tríc lập Quỹ khen thưởng, phúc lợi . Hoạt động đầu tư được tiến
hành quản lí để đảm bảo được hoạt động theo đúng danh mục, quản lí quá
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp
trình xây dựng và thẩm định để đưa ra những phương án khả thi và có hệu
quả nhất. Kết quả hoạt động đầu tư quỹ BHXH Việt Nam qua những năm
vừa qua được thể hiện ở bảng 5.
Bảng 5: Lãi hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH Việt Nam.
Năm Lãi thu trong năm
(triệu đồng)
Tăng trưởng lãi
(triệu đồng)
Tỉ lệ tăng trưởng
lãi (%)
1997 209.800 209.800
1998 472.579 262.779 78,84
1999 665.715 193.136 40,86
2000 824.164 158.449 23,80
2001 870.942 46.778 5,68
2002 1.300.100 360.100 41,35
2003 1.911.000 611.000 47,00
2004 2.197.302 268.302 14,04
( Nguồn BHXH Việt Nam)
Từ bảng trên ta có thể thấy được tình hình thực hiện của công tác đầu
tư tăng trưởng quỹ đã có những bước tiến đáng kể. Tuy năm 2001là năm
hoạt động có số lãi tăng lên là nhỏ nhất nhưng những năm gần đây số lãi đầu
tư đang tăng dần, đặc biệt là năm 2004 số lãi đầu tư đã lên tới 2.197.302
triệu đồng. Như vậy, đầu tư chiếm một vị trí quan trọng trong tổng thu
BHXH và đặc biệt trong những năm tới chắc chắn vai trò của hoạt động đầu
tư còn phải lớn hơn nữa. Ba năm gần đây tỉ lệ tăng trưởng lãi đầu tư của
BHXH là tương đối cao, ổn định ở mức tỉ lệ là sấp sỉ 40%. Riêng có năm
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp
2004 vừa qua tỉ lệ lãi đầu tư chưa cao vì tình hình giá cả trong nước có nhiều
biến động. Tỉ lệ lạm phát tăng khá cao, thị trường tài chính biến động mạnh.
Sang đầu năm 2005 Nhà nước ta đã có những biện pháp đối với thì trường
tiền tệ. Hiện nay NHNN đang sử dụng chính sách tiền tệ thắt chặt, nâng lãi
suất đầu tư của Việt Nam đồng. Có thể trong năm 2005 này số thu lãi đầu tư
của BHXH Việt Nam sẽ cao hơn.
3. Quản lí hoạt động cân đối quỹ BHXH.
Sau Nghị định 12/CP được thực hiện, quỹ BHXH Việt Nam mới
chính thức đi vào hoạt động và được quản lí thống nhất, hạch toán độc lập
với NSNN. BHXH là một chính sách xã hội, hệ thống BHXH hoạt động
không vì mục tiêu lợi nhuận mà hoạt động vì mục tiêu xã hội, do vậy quỹ
BHXH hoạt động và được bằng thu chi hợp lí (tthu bù chi). Để quản lí tốt
việc cân đối thu chi quỹ trước hết ta phải quản lí tốt các hoạt động thu, chi
BHXH và cả hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ. Trên lí thuyết là như vậy
song quá trình thực hiện quả là khó khăn bởi thứ nhất là đặc trưng của ngành
này là thu trước chi sau, các khoản chi ta không thể xác định chính xác ngay
khi triển khai để xác định mức thu cho hợp lí. Hơn nữa điều kiện kinh tế xã
hội thì luôn luôn vận động không ngừng, các biến cố có thể xảy ra mà chúng
ta không thể điều kiển được.
Đặc biệt là ở Việt Nam hiện nay, BHXH được hoạt động theo nguyên
tắc tài chính PAYGO đối với chế độ hưu trí. Tức là các khoản thu trong năm
sẽ dùng để chi trả cho các khoản chi trong năm đó. Nhìn chung hệ thống tài
chính BHXH theo cơ chế PAYGO hầu như không có hoặc có rất ít các
khoản tích luỹ cho các giai đoạn sau, việc quản lí là rất đơn giản. Đối với cơ
chế quản lí tài chính này, chu kì thực hiện được chia làm 3 giai đoạn sau:
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp
- Giai đoạn thanh niên: là giai đoạn khoảng 20 năm sau khi bắt đầu áp
dụng cơ chế nay (ở Việt Nam là khoảng thời gian từ 1995- 2015). Giai đoạn
này chưa có nhiều người về hưu, số người tham gia tăng, như vậy là số
người phụ thuộc ít, tỉ lệ thay thế cao dẫn đến tỉ lệ đóng góp thấp.
- Giai đoạn già hoá: là khoảng 30 năm tiếp theo giai đoạn thanh niên (ở
Việt Nam là khoảng thời gian từ 2015- 2045). Giai đoạn này số người về
hưu tăng, tỉ lệ phụ thuộc tăng, để đảm bảo cân đối thu chi người ta có thể
dùng hai cách hoặc giảm tỉ lệ thay thế hoặc là tăng tỉ lệ đóng góp.
- Giai đoạn già hoá hoàn toàn: là giai đoạn khoảng trên 50 áp dụng chế
độ PAYGO như vậy ở Việt Nam là khoảng từ 2045 trở đi. Giai đoạn này tỉ
lệ phụ thuộc tăng lên rất cao và tỉ lệ đóng góp buộc phải tăng lên.
Theo dự báo thì BHXH Việt Nam đến khoảng năm 20036 là bắt đầu
chuyển sang giai đoạn già hoá (tức là thu không đủ chi, số dư quỹ sẽ âm).
Dự tính, quỹ BHXH Việt Nam sẽ phát triển đến tận năm 2022, tại đây số dư
quỹ sẽ lớn nhất. Nếu tỉ lệ tham gia BHXH thực hiện theo xu thế như hiện
nay thì đối tượng tham gia BHXH đến năm 2020 vào khoảng 15 triệu người,
đến năm 2030 là 22,4 triệu người và năm 2040 là khoảng 31 triệu người.
Tương đương với đó, số dư dự kiến của BHXH Việt Nam vào năm 2022 là
khoảng 200.000 tỷ đồng, sau đó sẽ giảm dần và đến năm 2036 dự kiến sẽ
âm. Do vậy vấn đề nêu ra hiện nay là quỹ BHXH đang tồn dư lớn, BHXH
Việt Nam ngay từ lúc này nên thực hiện các biện pháp, hoạch định chính
sách cho tương lai thâm hụt quỹ không xa.
Chế độ quản lí tài chính như vậy có ưu điểm là đơn giản song lại cũng
có nhiều nhược điểm cần khắc phục như sự tồn tại quỹ, quyền lợi của người
lao động và ngay cả những tác động không tốt đến nền kinh tế. Tuy nhiên ở
nước ta, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy đây là lựa chọn chuyển cơ chế
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp
quản lí tài chính sang cơ chế quản lí có đầu tư. Thực hiện các hoạt động đầu
tư để giảm những hạn chế của cơ chế quản lí này. Như vậy đầu tư là việc
làm rất quan trọng đối với việc cân đối quỹ BHXH cả hiện nay và trong
tương lai. Thu từ đầu tư có thể giúp bảo toàn giá trị quỹ và giúp chúng tăng
trưởng bù đắp được sự mất giá của đồng tiền do lạm phát. Chúng ta có thể
thấy được hoạt động cân đối quỹ BHXH Việt Nam được thực hiện trong
những năm qua:
Bảng 6: Tình hình cân đối quỹ BHXH Việt Nam từ 1995- 2004.
( triệu đồng)
Năm Số dư năm
trước
Số thu trong
năm
Tổng thu Tổng chi
Số dư cuối
năm
1995 0 788486 788486 41954 746532
1996 746532 2569733 3316265 383150 2933115
1997 2933115 3724269 6657384 693525 5963862
1998 5963862 4394569 10358431 971630 9386801
1999 9386801 4867167 14253968 1200351 13053635
2000 13053635 6032387 19086022 1606783 17479239
2001 17479239 7229810 24709049 2381915 22327134
2002 22327134 8117437 30444571 2606542 50165163
2003 50165163 13565660 63730823 6150010 57580813
2004 57580813 15365802 73046615 7021000 66025615
( Nguồn BHXH Việt Nam)
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp
Bảng cân đối cho ta cái nhìn tổng quan về hoạt động tài chính của
BHXH Việt Nam. Chúng ta có thể nhận thấy số dư quỹ hiện nay của chúng
ta đang rất lớn vì tình hình thu vào nhiều mà chi thì ít do có sự hỗ trợ rất lớn
từ NSNN. Qua đó ta nhận thấy, đối với tình hình như hiện nay hoạt động
đầu tư tăng trưởng quỹ cần phát huy hơn nữa. Số dư quỹ cuối năm tăng lên
đều đặn, số dư tính đến tháng 12/2004 lên tới 66025615 triệu đồng, đây là
con số rất lớn so với năm 1995. Tốc độ tăng tổng thu quỹ lớn hơn tổng chi
quỹ, đây là lí do khiến cho số dư quỹ tăng cao. Hơn nữa như chúng ta biết
BHXH Việt Nam đang trong giai đoạn đầu của cơ chế PAYGO nên việc số
dư quỹ cao là hoàn toàn hợp lí. Điều cần thiết hiện nay là cần có những biện
pháp hợp lí nhằm khắc phục những nhược điểm của chế độ quản lí tài chính
này. Số dư quỹ ngày càng tăng, theo tỉ lệ tăng số dư quỹ như hiện nay có lẽ
chỉ khoảng năm 2030 là số dư quỹ đạt được mức 200.000 tỷ đồng, mức cao
nhất theo dự báo.
III. Đánh giá chung về công tác quản lí tài chính BHXH Việt Nam.
1. Những kết quả đạt được.
1.1. Hình thành hệ thống pháp lí làm cơ sở cho cơ chế quản lí tài chính
BHXH:
Từ ngay sau 1995, Chính phủ đã ban hành hàng loạt các Nghị định về
BHXH quy định và hoàn thiện dần các quy chế quản lí cũng như hoạt động
của ngành nói chung và của tài chính BHXH nói riêng. Đây chính là nền
tảng, là định hướng quan trọng trong quá trình thực hiện chính sách BHXH.
Hơn nữa trong quá trình hoạt động hệ thống pháp lí của BHXH Việt Nam
luôn được sửa đổi bổ xung cho phù hợp với sự thay đổi của điều kiện kinh
tế, xã hội. Hệ thống BHXH Việt Nam ngày càng phát triển với số người
tham gia BHXH tăng, năm 1995 mới có 2.275.998 người tham gia BHXH
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp
thì tính cho đến cuối năm 2004 số người tham gia đã lên tới 6.344.508 người
(tăng gần 3 lần). Như vậy là chính sách đổi mới là hoàn toàn phù hợp và
phát huy được hiệu quả hoạt động. Điều này thể hiện trong kết quả đạt được
trong mọi mặt, song trong khuôn khổ của đề tài chỉ xin đề cập đến khía cạnh
quản lí tài chính của BHXH Việt Nam.
1.2. Hình thành quỹ BHXH được quản lí tập trung và độc lập với NSNN.
Trước đây quỹ BHXH chỉ tồn tại trên danh nghĩa và hầu như không
có thu, nguồn chi trả cho các chính sách phụ thuộc vào NSNN. Hiện nay
BHXH đã hình thành nên quỹ BHXH, độc lập với NSNN. Thu BHXH từ hai
đối tượng là người lao động và người sử dụng lao động với quy định trích
nộp theo % lương của người lao động và quỹ lương của doanh nghiệp. Hoạt
động thu chi được thực hiện tương đối thuận lợi chi phí thấp mà hiệu quả
công việc cao. Việc phân cấp thu chi theo ba cấp, thu bằng chuyển khoản,
thực hiện chi trả thông qua đaị lí là rất phù hợp với điều kiện của Việt Nam
hiện nay. Mức chi BHXH dựa trên những căn cứ thực tế, mức lương tối
thiểu tính làm căn cứ đảm bảo được mức sống tối thiểu cho người lao động.
Tỉ lệ hưởng BHXH Việt Nam là tương đối cao so với các nước trên thế giới
thể hiện chức năng phân phối lại thu nhập của BHXH. Quỹ BHXH hiện nay
luôn tăng trưởng qua các năm, quỹ đang thay thế dần các khoản chi với tỉ
trọng chi từ quỹ BHXH tăng, giảm tỉ trọng chi từ NSNN. Việc ra đời và phát
triển quỹ BHXH Việt Nam là bước ngoặt lớn trong sự phát triểm của ngành
BHXH, đánh dấu sự chuyển biến về cơ chế quản lí.
1.3 . Công tác thu được phân cấp, tổ chức thu hợp lí an toàn qua hệ thống
tài khoản thu BHXH Việt Nam.
Cấp Trung ương, cấp khu vực, cấp cơ sở là ba phân cấp quản lí của hệ
thống BHXH Việt Nam dựa trên phân cấp hành chính. Trên cơ sở phân cấp
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp
này hoạt động thu, chi của BHXH được triển khai rộng khắp cả nước. Việc
thực hiện thu chủ yếu là thông qua chuyển khoản từ tài khoản của doanh
nghiệp vào tài khoản thu BHXH lập tại Kho bạc Nhà nước, hay ngân hàng
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt nam. Hình thức thu nộp trên vừa
đảm bảo tính an toàn, chính xác lại giúp cho các doanh nghiệp và cơ quan
BHXH thực hiện dễ dàng. Kết quả là số thu của BHXH Việt Nam năm sau
luôn tăng hơn năm trước, giảm tình trạng nợ đóng, trốn đóng, chậm đóng.
Từ đó quỹ BHXH được ổn định, thực hiện theo đúng kế hoạch quản lí, bảo
tồn và tăng trưởng quỹ, đảm bảo được khả năng chi trả của quỹ BHXH.
1.4 . Thực hiện chi trả các chế độ vừa nhanh chóng, kịp thời vừa đảm bảo
tính chính xác.
Hiện nay BHXH Việt Nam cũng như các ban ngành trong cả nước
đang thực hiện tốt công tác đơn giảm hoá thủ tục hành chính. Việc xét duyệt
các hồ sơ hưởng các loại chế độ đã dần được đổi mới, thủ tục nhanh chóng,
đơn giảm nhưng vẫn hiệu quả. Để tạo điều kiện thuận lợi cho các đối tượng
từ 1/1/2005 theo quy trình xét duyệt mới, việc xét duyệt hồ sơ được thực
hiện ở BHXH tỉnh bằng chương trình tin học, BHXH Việt Nam chỉ theo dõi,
chỉ đạo, hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện của BHXH tỉnh. Công tác chi
trả được thực hiện chủ yếu thông qua hệ thống đại lí là chủ sử dụng lao động
đối với các chế độ ngắn hạn, cán bộ xã phường với các chế độ dài hạn. Việc
chi trả hiện nay thực hiện kịp thời giúp người lao động đảm bảo cuộc sống
của họ. Quỹ BHXH đang có số chi chiếm tỉ trọng ngày càng cao, dần thay
thế NSNN trong vai trò chi trả các chế độ. Sau khi sát nhập BHYT sang
BHXH, công tác thu chi thực hiện đơn giản gọn nhẹ, giảm được chi phí quản
lí vì các đối tượng phải tham gia BHXH thì đồng thời cũng phải tham gia
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp
BHYT. Các khoản chi vào công tác nghiên cứu, ứng dụng công nghệ thông
tin vào quản lí BHXH đã làm giảm các loại chi phí quản lí khác.
1.5. Quỹ đã có thu từ hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ, giảm được nhược
điểm của cơ chế quản lí PAYGO.
Từ sau 1997 BHXH Việt Nam thực sự có thu từ hoạt động đầu tư tăng
trưởng quỹ. Đây là một hoạt động đóng vai trò vị trí thực sự quan trọng
không những làm tăng thu mà còn góp phần bảo toàn khả năng chi trả của
quỹ BHXH. Tuy thu từ đầu tư chưa cao song đảm bảo an toàn, không để xảy
ra thất thoát, nó đã thể hiện sự đúng đắn trong quản lí tài chính BHXH. Đặc
biệt như điều kiện nước ta hiện nay chỉ số giá tiêu dùng tương đối cao (tỉ lệ
lạm phát cao) có thể dẫn tới việc Nhà nước phải quy định lại mức lương tối
thiểu. Như vậy nếu không có sự đầu tư bảo toàn và tăng trưởng quỹ thì sự bù
thiếu cho những chênh lệch khi nộp và khi hưởng là không có. Hơn nữa,
hoạt động đầu tư còn mang lại không những lợi ích về mặt kinh tế mà cả về
mặt xã hội. Các dự án đầu tư có thể mang đến việc làm cho nhiều lao động
thất nghiệp giảm gánh nặng cho xã hội . Việc đầu tư đã được thực hiện
theo đúng danh mục đầu tư, đúng hạn mức đầu tư và đảm bảo an toàn, tăng
trưởng quỹ BHXH góp phần đảm bảo khả năng chi trả cho các chế độ.
2. Những tồn tại cần khắc phục và nguyên nhân.
2.1. Việc số người tham gia còn ít đặc biệt là tình trạng trốn tham gia, trốn
đóng, nợ đọng phí BHXH còn rất phổ biến.
Hiện nay theo quy định thì số lao động bắt buộc tham gia là rất lớn
song số người tham gia BHXH tính đến thời điểm này là chưa cao. Tình
trạng trốn tham gia BHXH của các đối tượng, đặc biệt là khối doanh nghiệp
ngoài quốc doanh, những công ty tư nhân, cổ phần, trách nhiệm hữu hạn vừa