Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

quá trình hình thành công tác quản lý tài chính bảo hiểm xã hội việt nam thực trạng và giải pháp p2 pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (215.07 KB, 9 trang )

§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp
như trong bảo hiểm thương mại mà còn có cả những rủi ro không mang tính
ngẫu nhiên như: tuổi già, thai sản,
Thứ hai là mức hưởng phải thấp hơn tiền lương làm căn cứ đóng
BHXH, nhưng phải đảm bảo được mức sống tối thiểu cho người hưởng
khoản trợ cấp đó. Việc quy định trên là hoàn toàn hợp lí và cũng là quy định
chung cho tất cả các nước, song thấp bao nhiêu còn tuỳ thuộc vào điều kiện
kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi nước trong mỗi thời kì khác nhau.
Thứ ba là phải tự chủ về tài chính, đây là nguyên tắc quan trọng trong
chính sách BHXH của các nước. Nếu chỉ hoàn toàn phụ thuộc vào Ngân
sách Nhà nước (NSNN) giống như giai đoạn trước cải cách năm 1995 của
nước ta thì đây thực sự là một gánh nặng lớn của đất nước. Việc thành lập
quỹ BHXH do các bên tham gia BHXH đóng góp và có sự hỗ trợ của Nhà
nước là hoàn toàn phù hợp. Quỹ này có thể quản lí theo các cách thức khác
nhau song độc lập với NSNN , NSNN chỉ bù thiếu hoặc tài trợ một phần tuỳ
thuộc vào quy định của mỗi nước khác nhau.
5. Các chế độ của BHXH.
Đối với mỗi nước có những hoàn cảnh kinh tế, chính trị, xã hội khác
nhau nên BHXH được tổ chức thực hiện theo những quy định riêng khác
nhau. BHXH được xây dựng dựa vào các nguyên tắc trên một cách thống
nhất trên toàn thế giới và phải tuân thủ các quy định sau của tổ chức Lao
động Quốc tế (ILO) về hệ thống chính sách BHXH. Trong Công ước 102
được ILO thông qua ngày 4/6/1952 có quy định những quy phạm tối thiểu
về an toàn xã hội đã đưa ra 9 chế độ sau:
- Chăm sóc y tế.
- Trợ cấp ốm đau.
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp
- Trợ cấp thất nghiệp.
- Trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
- Trợ cấp tuổi già.
- Trợ cấp thai sản.


- Trợ cấp tàn tật.
- Trợ cấp vì mất người trụ cột gia đình.
Các thành viên tham gia Công ước phải thực hiện ít nhất là 3 trong 9
chế độ nói trên, trong đó phải có nhất thiết 1 trong năm chế độ sau đây:
- Trợ cấp tuổi già.
- Trợ cấp thất nghiệp.
- Trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
- Trợ cấp tàn tật.
- Trợ cấp vì mất người trụ cột gia đình.
Mỗi chế độ trong hệ thống BHXH khi xây dựng phải dựa trên các cơ
sở điều kiện kinh tế, thu nhập, tiền lương, Đồng thời, tuỳ từng chế độ mà
còn phải tính đến các yếu tố sinh học, tuổi thọ bình quân, nhu cầu dinh
dưỡng, để quy định các mức đóng, mức hưởng, thời gian hưởng và đối
tượng hưởng cho hợp lí. Các chế độ BHXH có những đặc điểm chủ yếu sau
đây:
+ Các chế độ được xây dựng theo luật pháp của mỗi nước.
+ Hệ thống các chế độ mang tính chất chia sẻ rủi ro, chia sẻ tài chính.
+ Mỗi chế độ được chi trả đều căn cứ chủ yếu vào mức đóng góp của các
bên tham gia BHXH.
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp
+ Phần lớn các chế độ là chi trả định kì.
+ Đồng tiền được sử dụng làm phương tiện chi trả và thanh quyết toán.
+ Chi trả BHXH như là quyền lợi của mỗi chế độ BHXH.
+ Mức chi trả còn phụ thuộc vào quỹ dự trữ. Nếu quỹ dự trữ được đầu tư
có hiệu quả và an toàn thì mức chi trả sẽ cao và ổn định.
+ Các chế độ BHXH cần phải được điều chỉnh định kì để phản ánh hết
sự thay đổi của điều kiện kinh tế -xã hội.
6. Quỹ BHXH và phân loại quỹ BHXH.
6.1. Quỹ BHXH.
Như chúng ta đã tìm hiểu trong phần 1 ở trên thì sự ra đời của quỹ

BHXH là một bước ngoặt lớn đối với ngành BHXH trên toàn thế giới. Quỹ
BHXH là một quỹ tài chính độc lập, tập chung nằm ngoài NSNN và được
hình thành từ các nguồn sau đây:
- Người sử dụng lao động đóng góp,
- Người lao động đóng góp,
- Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm,
- Các nguồn khác (như cá nhân và tổ chức từ thiện ủng hộ, lãi từ các
hoạt động đầu tư quỹ nhàn rỗi).
Trách nhiệm tham gia đóng góp BHXH cho người lao động được
phân chia cho cả người lao động và người sử dụng lao động trên cơ sở quan
hệ lao động. Điều này không phải sự chia sẻ rủi ro, mà là lợi ích giữa hai
bên. Sự đóng góp một phần quỹ của người sử dụng lao động cho người lao
động sẽ tránh được những thiệt hại kinh tế do phải chi ra một khoản tiền lớn
khi có rủi ro xảy ra đối với người lao động mà mình thuê mướn. Đồng thời,
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp
nó còn góp phần giảm bớt mâu thuẫn, kiến tạo mối quan hệ tốt đẹp giữa chủ-
thợ. Về phía người lao động, sự đóng góp của họ vừa thể hiện sự tự gánh
chịu chính những rủi ro của chính mình, vừa có ý nghĩa ràng buộc nghĩa vụ
và quyền lợi một cách chặt chẽ.
Phần lớn các nước trên thế giới, quỹ BHXH đều được hình thành từ
các nguồn nêu trên. Tuy nhiên, phương thức đóng góp và mức đóng góp của
các bên tham gia BHXH có khác nhau tuỳ thuộc quy định của mỗi nước.
Hiện nay mức đóng góp BHXH của người lao động và người sử dụng lao
động hiện vẫn còn hai quan điểm. Quan điểm thứ nhất cho rằng, phải căn cứ
vào mức lương cá nhân và quỹ lương cơ quan, doanh nghiệp. Quan điểm thứ
hai lại cho rằng, phải căn cứ vào mức thu nhập cơ bản của người lao động
được cân đối chung trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân để xác định mức
đóng góp. Về mức đóng góp BHXH, mỗi nước lại có những quy định khác
nhau. Một số nước quy định người sử dụng lao động phải chịu toàn bộ chi
phí cho chế độ tai nạn lao động, Chính phủ trả chi phí y tế và trợ cấp gia

đình, các chế độ còn lại cả người lao động và người sử dụng lao động cùng
đóng góp mỗi bên một phần bằng nhau. Trong đó, một số nước khác lại quy
định, Chính phủ bù thiếu cho quỹ BHXH hoặc chịu toàn bộ chi quản lí
BHXH
Quỹ BHXH được sử dụng để chi trả chủ yếu cho hai mục đích sau:
thứ nhất là chi trả và trợ cấp cho các chế độ BHXH như đã nêu ở mục 5, còn
lại là chi trả cho chi phí sự nghiệp quản lí BHXH. Trong hai khoản chi đó thì
khoản chi thứ nhất là quan trọng và chiếm phần lớn trong quỹ BHXH. Các
khoản trợ cấp này cũng được quy định về mức trợ cấp và thời gian hưởng
một cách cụ thể và có sự khác biệt đối với từng chế độ. Tại những nước khác
nhau thì các khoản trợ cấp này cũng được quy định khác nhau.
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp
6.2. Phân loại quỹ BHXH:
Tuỳ theo mục đích và cách tổ chức của những hệ thống BHXH trên
thế giới mà quỹ BHXH được phân loại khác nhau:
- Phân loại theo các chế độ bao gồm: Quỹ hưu trí, tử tuất; Quỹ tai nạn
lao động và bệnh nghề nghiệp; Quỹ thất nghiệp; Quỹ ốm đau thai sản.
- Phân loại theo tính chất sử dụng bao gồm: Quỹ ngắn hạn để chi trả
cho các chế độ ngắn hạn như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động làm
mất khả năng lao động tạm thời; Quỹ dài hạn để chi trả trợ cấp cho
các chế độ như hưu trí, tử tuất.
- Phân loại theo đối tượng tham gia bao gồm: Quỹ cho công chức Nhà
nước, quỹ cho lực lượng vũ trang, quỹ cho lao động trong các doanh
nghiệp, quỹ cho các đối tượng còn lại.
Việc phân loại quỹ như trên cần được thực hiện và cân nhắc tránh
những tình trạng phân nhỏ quỹ dễ gây ra tình trạng mất tập trung, không có
sự bổ xung và hỗ trợ lẫn nhau. Việc phân chia quỹ không hợp lí sẽ dẫn tới
những ảnh hưởng xấu đến việc chi trả cho các đối tượng, đặc biệt là vấn đề
quản lí quỹ một cách hợp lí. Dựa trên các cách tổ chức thực hiện các chế độ
mà mỗi nước lại có những quy định khác nhau về các quỹ thành phần. Các

quỹ thành phần phải thực sự phù hợp với hệ thống BHXH đó.
II. Quản lí tài chính BHXH.
1. Khái niệm chung về quản lí tài chính BHXH.
Trước tiên chúng ta cần hiểu khái niệm về quản lí. Quản lí là những
hoạt động nhằm tác động một cách có tổ chức, có định hướng của chủ thể
quản lí vào một đối tượng quản lí nhất định để điều chỉnh các quá trình xã
hội và hành vi của con người từ đó có thể duy trì được tính ổn định của đối
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp
tượng. Đối tượng của quản lí ở đây là tài chính BHXH, tài chính BHXH là
một thuật ngữ thuộc phạm trù tài chính chỉ một mắt khâu tài chính tồn tại
độc lập trong hệ thống tài chính quốc gia. Tài chính BHXH tham gia vào
quá trình phân phối và sử dụng các nguồn tài chính nhằm đảm bảo cuộc
sống cho người lao động và gia đình họ khi gặp rủi ro từ đó đảm bảo sự ổn
định và phát triển kinh tế xã hội. Như vậy, nhìn rộng ra thì quản lí tài chính
BHXH là việc sử dụng tài chính BHXH như một công cụ quản lí xã hội của
Nhà nước. Nhà nước thông qua hoạt động tài chính BHXH để thực hiện
mục tiêu quản lí xã hội đó là đảm bảo ổn định cuộc sống cho nhân dân trước
những rủi ro làm giảm hoặc mất khả năng lao động hay khi về già, giúp
người lao động yên tâm lao động sản xuất, góp phần thúc đẩy sản xuất phát
triển. BHXH thể hiện tính ưu việt của mỗi quốc gia, mỗi thể chế xã hội . Còn
hiểu theo nghĩa hẹp thì quản lí tài chính BHXH là quản lí thu chi BHXH.
Như vậy quản lí tài chính BHXH chủ yếu liên quan tới việc làm thế nào để
hoạt động thu chi quỹ BHXH được thực hiện một cách bình thường trước
những biến động của môi trường. Biến động ở đây là những biến động về
đối tượng tham gia, đối tượng hưởng, biến động của môi trường sống, môi
trường kinh tế , những biến động tác động trực tiếp đến đời sống của người
lao động, đến việc thu chi quỹ BHXH, ảnh hưởng tới sự đầu tư tăng trưởng
quỹ BHXH. Nội dung của quản lí tài chính BHXH chủ yếu là sự lựa chọn và
xác định các chính sách, chế độ, quy chế về tài chính BHXH một cách hợp lí
và lấy đó làm căn cứ để ra quyết định cụ thể của thu chi BHXH thực hiện

mục tiêu của Nhà nước đặt ra.
Khi thực hiện quản lí tài chính BHXH cần chú ý hai nguyên tắc chủ
yếu sau:
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp
- Quá trình quản lí tài chính BHXH phải luôn được tính toán, so
sánh và cân đối trong trạng thái động: Bởi vì lượng tiền mặt của quỹ biến
động theo từng chế độ trợ cấp BHXH khác nhau, lượng lao động biến động
một cách thường xuyên nên trong quản lí, đặc biệt là khâu lập kế hoạch phải
chú trọng tới vấn đề này. Đây cũng là một đặc thù trong ngành Bảo hiểm nói
chung và BHXH nói riêng vì tính đảo ngược chu kì kinh doanh tức là thu phí
trước chi trả cho các chế độ sau. Tuy có sự hỗ trợ của NSNN, song quản lí
tài chính BHXH phải góp phần giảm gánh nặng cho NSNN và vẫn thực hiện
chính sách xã hội này một cách tốt nhất.
- Quỹ BHXH phải được bảo tồn và phát triển: Như trên đã đề cập thì
ngành Bảo hiểm có đặc thù thu phí trước, chi trả sau, thời gian đóng và thời
gian hưởng có thể kéo dài, đồng tiền có giá trị về mặt thời gian. Do vậy cần
đầu tư để bảo tồn và tăng trưởng quỹ một cách hợp lí. Để đảm bảo nguyên
tắc này cơ quan BHXH phải tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động thu chi
và quản lí quỹ thực hiện đầu tư phần quỹ nhàn rỗi một cách có hiệu quả và
tuân thủ các nguyên tắc sau:
+An toàn: Mục đích của quỹ là bảo đảm chi trả lương hưu và các trợ cấp
BHXH cho người lao động. Vì vậy, quỹ dù có đầu tư vào lĩnh vực nào cũng
phải đảm bảo an toàn cho khoản đầu tư đó. Đảm bảo an toàn là không chỉ
bảo toàn vốn đầu tư về danh nghĩa, mà còn là bảo toàn về cả giá trị thực tế,
điều này càng có ý nghĩa quan trọng trong thời kì lạm phát. Nói cách khác
thì đầu tư quỹ phải lựa chọn lĩnh vực để giảm thiểu rủi ro.
+ Hiệu quả: Đây là mục tiêu của việc đầu tư tăng trưởng quỹ do vậy
nguyên tắc này rất quan trọng và phải được đi liền với nguyên tắc thứ nhất.
Lãi đầu tư không chỉ góp phần đảm bảo khả năng thanh toán cho các khoản
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp

chi mà còn góp phần cho phép hạ tỉ lệ đóng góp của người lao động và
người sử dụng lao động.
+ Khả năng thanh toán (tính lưu chuyển của vốn): Đây cũng là yêu cầu
đặc thù của nghành do các khoản chi trả là phát sinh sau và kéo dài nên các
khoản đầu tư phải đảm bảo tính thanh khoản để dễ dàng chi trả cho các đối
tượng kịp thời. Đặc biệt tránh những khoản đầu tư dễ vướng vào những vấn
đề tồn khoản. Các hình thức đầu tư dễ thanh khoản và an toàn thường được
ưu tiên thực hiện trước.
+ Có lợi ích kinh tế, xã hội: Là một quỹ tài chính để thực hiện chính sách
xã hội, do đó trong quá trình đầu tư phải lưu ý đến việc nâng cao phúc lợi
cho người dân, phải ra sức cải thiện chất lượng chung cho đời sống dân cư
của đất nước. Các hình thức, hạng mục đầu tư phải đặt vấn đề hiệu quả kinh
tế xã hội lên hàng đầu. Hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH khác với
các hoạt động đầu tư khác với mục tiêu lợi nhuận làm đầu vì BHXH chính là
một chính sách quan trọng trong hệ thống An sinh xã hội của mỗi nước.
2. Nội dung quản lí tài chính BHXH.
Nhìn chung, quản lí tài chính BHXH bao gồm bốn nội dung cơ bản
sau:
- Quản lí thu BHXH.
- Quản lí chi BHXH.
- Quản lí hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ.
- Quản lí cân đối quỹ BHXH.
2.1. Quản lí thu BHXH.
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp
Quản lí thu giữ vai trò quan trọng và quyết định đến sự thành công
của quá trình thu BHXH, từ đó quyết định đến sức mạnh quỹ BHXH để đảm
bảo cho việc chi trả cho các chế độ trợ cấp. Trước tiên chúng ta phải nắm
được nội dung thu gồm hai khoản thu từ người lao động và người sử dụng
lao động. Đây là khoản thu lớn nhất và đóng vai trò quan trọng, quyết định.
Các khoản thu khác như: thu từ các quỹ của các tổ chức, cá nhân từ thiện

hay sự hỗ trợ của NSNN là nhỏ, NSNN chỉ bù đắp cho những trường hợp
cần thiết. Hơn nữa đây là khoản thu mà tổ chức BHXH cũng không thể tự
điều chỉnh được vì nó mang tính thụ động. Do vậy mà công tác quản lí thu
chỉ tập chung vào nguồn thu từ hai đối tượng chính người lao động và người
sử dụng lao động. Nội dung của quản lí thu lại tập chung vào ba đối tượng
chính sau đây:
Quản lí đối tượng tham gia BHXH: Đây là việc đầu tiên mà mỗi tổ
chức BHXH khi thực hiện quan tâm đến, thường các đối tượng này được
quy định rõ trong các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước. Hơn thế
nữa BHXH cũng hoạt động trên nguyên tắc san sẻ rủi ro và tuân theo quy
luật số đông bù số ít nên việc tham gia đầy đủ của các đối tượng tham gia
BHXH là việc rất quan trọng. Quản lí đối tượng tham gia cần thực hiện các
công việc sau:
+ Quản lí số lượng đăng kí tham gia BHXH.
+ Quản lí đối tượng bắt buộc tham gia BHXH theo quy định.
+ Quản lí công tác cấp sổ BHXH: Vì đây là căn cứ xác định quá trình
đóng góp, ngành nghề lao động, thời gian lao động, tên người lao động và
một số thông tin khác.

×