Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

UNG THƯ GAN NGUYÊN PHÁT-LÀM SAO THOÁT KHỎI CỬA TỬ THẦN doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.09 KB, 7 trang )

UNG THƯ GAN NGUYÊN PHÁT-LÀM
SAO THOÁT KHỎI CỬA TỬ THẦN?

Ung thư tế bào gan nguyên phát (HCC) gần đây đã được xem như là một trong
những bệnh lý ác tính đang gia tăng ở Mỹ và trên thế giới . HCC xảy ra chủ yếu ở
bệnh gan mạn tính, bao gồm xơ gan và viêm gan virus mạn. Vì vậy để hạn chế ung
thư gan , phải chú ý vào các đối tượng nguy cơ trên , phải theo dõi , điều trị , ngăn
ngừa từ xa……………

I.DỊCH TỂ
HCC xảy ra dường như thường xuyên ở những nước đang phát triển trên
khắp thể giới. Tỉ lệ cao nhất được báo cáo ở Trung Quốc, đông nam Á, và một
phần Sahara châu phi. Ở những vùng này hầu hết có liên quan đến nhiễm viêm
gan virus B (HBV). HCC thường được chẩn đoán ở lứa tuổi 30 40 ở những
nước này, và hầu hết điều không tránh khỏi cái chết. Vì vậy, bệnh này có một ảnh
hưởng kinh tế quan trọng, như nó ảnh hưởng đặc biệt đến những người đàn ông ở
độ tuổi đang làm việc của họ.
Cho đến gần đây, HCC vẫn được coi là một bệnh hiếm hay không thường xuyên ở
Mỹ, và do đó ít trung tâm có kinh nghiệm trong việc quản lý điều trị căn bệnh ác
tính này. Tuy nhiên, một sự gia tăng 80%đến 90% trong tỉ lệ mắc bệnh và tử vong
của bệnh này đã được quan sát hơn 2 thập niên qua ở nước này, và nhiều trung tâm
chuyên về gan đã phải giải quyết với số lượng lớn những bệnh nhân HCC. Ước
chừng xấp xỉ 10.000 đến 12.000 trường hợp mới xảy ra mỗi năm ở Mỹ và trong
khi tỉ lệ mắc mới gia tăng ở nam giới vẫn tiếp tục, thì tuổi đỉnh điểm xảy ra HCC
có thể 50—60 đã được quan sát ở những nước đang phát triển.
II.NHỮNG YẾU TỐ NGUY CƠ ĐỐI VỚI HCC
Những yếu nguy cơ cơ bản ở Mỹ thì khác nhau hơn những vùng tỉ lệ mắc bệnh
cao. Ước chừng khỏang 50% những trường hợp HCC ở Mỹ có liên quan đến
nhhiễm virus viêm gan C mãn, và khỏang 15% nhiễm HBV mạn . Một số yếu tố
nguy cơ còn lại thì không được biết. Nhiều bệnh nhân HCC có xơ gan, trong một
vài trường hợp liên quan với bệnh gan rượu hay (hiếm khi) một vài người được


biết từ bệnh gan chuyển hóa như hemochromatosis (bệnh gan ứ sắt) hay khiếm
khuyết alpha-1-antitrypsin. Gần đây , có người cho rằng một tỉ lệ đáng kể những
trường hợp HCC ở Mỹ liên quan đến bệnh gan nhiễm mỡ không do rượu (NAFD:
noalcoholic fatty liver disease) .
Những người với yếu tố nguy cơ cao nhất của HCC bao gồm những người với xơ
gan (do bất kỳ lý do nào), nhiễm HBV mạn tính với bằng chứng có tổn thương gan,
hay viêm gan C mạn với xơ gan. Những yếu tố nguy cơ thêm vào có thể xảy ra
bao gồm nam giới, lớn tuổi (> 45 tuổi), có sử dụng rượu có ý nghĩa hay tiền sử gia
đình có HCC.
III.ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ CHẨN ĐÓAN HCC
Những đặc điểm lâm sàng điển hình của HCC bao gồm đau hạ sườn phải và sụt
cân ở một bệnh nhân được biết có xơ gan. Khám bệnh, những bệnh nhân này có
thể có gan lớn, sờ đau. HCC được chẩn đóan ở những cá thể không triệu chứng và
được phát hiện bởi kỹ thuật hình ảnh gan như siêu âm, CT, hay MRI. Một sinh
thiết có thể cần để có sự chẩn đóan chắc chắn. Việc đo mức alpha fetoprotein
(AFP) trong huýêt thanh được dùng để bổ sung cho chẩn đóan, nhưng nó vẫn
thường tăng ở những bệnh nhân có bệnh gan mãn tính bởi viêm gan virus B, C
hay những nguyên khác. Mức AFP > 400 ng/ml thì xem xét chẩn đóan HCC khi
có một khối tổn thương đặc thù được tìm thấy qua những phát hiện bằng hình ảnh.
IV.NHỮNG QUAN ĐIỂM ĐIỀU TRỊ ĐỐI VỚI HCC
Ngày nay có nhiều quan điểm điều trị tốt có khả năng đối với bệnh nhân HCC.
Việc ghép gan xuất hiện đã giúp đưa ra tiên lượng tốt nhất cho sự sống còn của
bệnh nhân, nhưng nó giới hạn đối với những bệnh nhân có khối u < 5 cm đường
kính, và có ít hơn 3 khối u, không có bằng chứng của việc di căn ngòai gan, kèm
theo thể trạng còn tốt. Phẫu thuật cắt bỏ thì rất hiệu quả để tiệt trừ HCC, nhưng nó
bị giới hạn bởi sự hiện diện và sự trầm trọng của bệnh gan có sẵn, và ít hơn 5% số
bệnh nhân có thể chọn được phương pháp này. Vì vậy, những bệnh nhân xơ gan
có thể chỉ chấp nhận được việc cắt bỏ gan ít, và việc phẫu thuật có thể khó khăn
hoặc không thể nếu khối u có cả cấu trúc mạch máu chính ở trong hoặc gần gan.
Thật không may, tỉ lệ phát triển của HCC mới thì hơi cao sau khi phẫu thuật cắt bỏ,

có lẽ bởi vì bệnh vẫn tồn tại (xơ gan) nên gan vẫn tiếp tục có khả năng phát triển
HCC mới.
Những kỹ thuật không xâm lấn được phát triển gần đây mà được coi là hiệu quả
tương tự như phẫu thuật cắt bỏ khối u thì chưa được sử dụng rộng rãi. Những kỹ
thuật giải quyết này bao gồm tiêm alcohol và cắt bỏ u bằng sóng radio. Việc
thuyên tắc bằng cách bơm hóa chất thông qua một catheter trực tiếp vào trong
động mạch cung cấp máu cho khối u gan. Sau đó động mạch này thường được bít
bằng cách thuyên tắc với những cái nút được bơm thông qua cùng catheter. Ung
thư tế bào gan bị đẩy lùi rõ ràng về kích thước trong quá trình điều trị thuyên tắc
bằng hóa chất, và những nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng sự sống sót của bệnh nhân
được kéo dài ra khi dùng kỹ thuật này. Quan trọng là việc thuyên tắc bằng hóa
chất cho thấy được hiệu quả ở những bệnh nhân không cắt bỏ được HCC. Cuối
cùng, việc điều trị HCC được thành công hơn trong những năm gần đây bởi vì có
sự liên kết nhiều phương pháp và nhiều bác sĩ chuyên khoa, với liên kết những
bệnh viện chuyên khoa hay những tổ chức ung thư bao gồm những bác sĩ chuyên
khoa gan, bác sĩ phẫu thuật, những bác sĩ chuyên khoa ung thư, và những người
phụ tá trong việc ghi nhận những phức tạp trong việc điều trị những bệnh nhân
này .
V.SÀNG LỌC VÀ NGĂN NGỪA HCC
Được chứng minh tốt là hình ảnh của gan với kiểm tra bằng siêu âm phối hợp với
việc đo đều đặn AFP huyết thanh cho phép những chẩn đóan HCC tại giai đọan
sớm, và hình thức theo dõi này đã được đưa vào trong những thực hành tiêu chuẩn.
Tuy nhiên, không có bằng chứng rõ ràng rằng cứu sống được bệnh nhân HCC là
có thể cải thiện cuộc sống cho bệnh nhân vì mức độ tốn kém và bệnh nhân phải
đếm cuộc sống từng ngày. Tuy nhiên, những bệnh nhân được coi có nguy cơ đối
với HCC thì thường được sàng lọc trong hy vọng phát hiện HCC ở giai đọan sớm
khi những kỹ thuật điều trị tốt vẫn còn có khả năng.
Bởi vì nguyên nhân cơ bản của HCC thông thường đã được xác định, nên ung thư
này được quan tâm đến mục đích là những nghiên cứu phòng ngừa ung thư. Trong
thực tế, việc hướng dẫn rộng khắp của chương trình tiêm chủng cho trẻ em tòan

cầu chống lại HBV thật sự có một tác dụng làm giảm số lượng những trường hợp
HCC ở một vài nước, như Đài Loan.
Không may là không có vắc xin tương tự có tác dụng cho HCV; tuy nhiên, số
lượng những trường hợp mới của nhiễm HCV đã giảm ở Mỹ hơn thập niên cuối
này thông qua những phương tiện sức khỏe cộng đồng hiệu quả thay đổi. Một số
lượng lớn những cá nhân với viêm gan C mạn và những bệnh gan khác vẫn duy trì
yếu tố nguy cơ của HCC. Những nghiên cứu hồi cứu gần đây, hầu hết từ Nhật đã
cho rằng việc dùng interferon như điều trị viêm gan C mạn tính liên quan đến việc
giảm đáng kể nguy cơ ở HCC giữa những bệnh nhân đạt được đáp ứng virus duy
trì. Những thuận lợi được đánh giá trong những nghiên cứu hồi cứu ở những đất
nước phía tây. Thật thú vị, việc điều trị chống virus thời gian dài của viêm gan
virus B mạn với lamivudine có thể cũng làm giảm nguy cơ HCC.
VI.TÓM TẮT- NHỮNG TÁC ĐỘNG ĐỐI VỚI THỰC HÀNH LÂM SÀNG
1. HCC đang gia tăng ở Mỹ và những nước đã phát triển khác.
2. Sự gia tăng tỉ lệ mắc bệnh có thể tính do bởi sự xuất hiện của viêm gan C.
3. Những yếu tố góp phần khác có thể là sự gia tăng nhập cư từ những nước
nơi việc nhiễm HBV và HCC là thường xuyên và một sự gia tăng tỉ lệ mắc
NAFLD.
4. Những quan sát bằng hình ảnh của gan như siêu âm, CT, MRI, đại diện cho
chỗ dựa chính của chẩn đoán. Mức AFP huyết thanh có thể có ích nhưng
thường nhầm lẫn ở những bệnh nhân viêm gan C mạn và xơ gan.
5. Mặc dù nó chưa là vấn đề được chứng minh, việc theo dõi đối với HCC có
thể nên thực hiện ở những bệnh nhân ở nhóm nguy cơ qua việc kiểm tra
siêu âm đều đặn và xác định AFP huyết thanh.
6. Những điều trị tiềm năng đối với HCC bao gồm ghép gan, phẫu thuật cắt bỏ,
loại bỏ bằng cách tiêm alcohol hay sóng radio.
7. Vắc xin chống lại HBV được xem để ngăn ngừa HBV liên quan HCC.
8. Điều trị thời gian dài chống virus đối với HBV được xem là một nghiên
cứu tiền cứu để giảm nguy cơ HBV liên quan đến HCC.
9. Điều trị chống virus đối với HCC được gợi ý, nhưng chưa có chứng minh,

để giảm nguy cơ HCV liên quan đến HCC.

×