Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

y học gia đình - Chương 2: Vòng đời người: mối liên quan trong chǎm sóc sức khỏe ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (257.14 KB, 20 trang )

Chương 2: Vòng đời người: mối liên quan trong
chǎm sóc sức khỏe
Philip.D.Sloane và Peter Curtis
Tất cả các bác sĩ gia đình và các bác sĩ đa khoa khác nên là những người nghiên
cứu sự phát triển của người. Sự hiểu biết về những thách thức của từng giai đoạn
sống và sự tác động của các sự kiện trong đời sống lên sức khỏe thể chất và tâm lý
sẽ làm tǎng khả nǎng của người thầy thuốc để giúp bệnh nhân. Sự hiểu biết của
chúng ta về vòng đời người có chiều hướng gia tǎng với kinh nghiệm bởi vì bản
thân cuộc sống là người thầy lớn nhất. Nhưng người học viên nhạy cảm và quan
tâm lại có thể thu nhận được những điều sâu sắc ngoài kinh nghiệm sống của
chính mình thông qua mối quan hệ với gia đình, bởi sự hiểu biết về đời sống và
gia đình của các đồng nghiệp, người bệnh, sinh viên, người đồng cảnh, và thông
qua nghệ thuật (đọc sách, xem chiếu bóng, coi vô tuyến truyền hình ).
Phạm vi của sự phát triển con người thì rộng. Sự đa dạng của các lĩnh vực khoa
học đã đóng góp cho sự hiểu biết của chúng ta về lĩnh vực này, sự đóng góp lớn
nhất có lẽ từ tâm lý học, từ phát triển của trẻ em, của lão khoa cũng như của y học.
Chính do có cuộc cách mạng trong khoa học - kỹ thuật nên sự hiểu biết của chúng
ta, viễn cảnh của sự giao tiếp, hành vi, cách sống và các mối quan hệ đã thay đổi
nhiều kể từ công trình mở đường của Freud và các người cùng thời. Chương này
chỉ cung cấp phần giới thiệu tóm tắt vài vấn đề quan trọng trong y học gia đình.
Chương 3, 9, 10, 14, 15, 16 và 18 cung cấp những bổ sung chi tiết.
Trường hợp ví dụ
Bà A.G 29 tuổi đến khám vì bị "cảm lạnh". Bà ta kể rằng bà đã bị 4 lần nhiễm
trùng đường hô hấp trên trong vòng 6 tháng qua. Bà đã xây dựng gia đình được 6
nǎm và đã có hai con 2 và 4 tuổi. Nguyên là người phụ tá, hiện nay bà ở nhà với
các con và để tǎng thêm thu nhập cho gia đình bà trông thêm ba đứa trẻ.
Câu hỏi nghiên cứu
Những stress nào trong đời sống làm cơ sở cho quyết định của bà A.G đi khám
bệnh vì bị "lạnh"?
Trường hợp thảo luận
Trong những cuộc gặp chǎm sóc sức khỏe ban đầu, lời kể bệnh thường không


phản ánh được tình trạng hệ trọng của bệnh. Vấn đề "lý do thực tế để đi khám
bệnh" thường bao gồm những vấn đề của sự phát triển của cá nhân người bệnh
hoặc của những mối liên quan giữa các hệ thống xã hội và gia đình, ở đó người
bệnh sinh sống.
Bố mẹ của những đứa trẻ thường phát hiện ra rằng cả gia đình bị nhiễm bệnh hô
hấp khi những đứa trẻ đi vườn trẻ, mẫu giáo hoặc đến trường. Như vậy bà A.G bị
cảm lạnh có thể do chǎm sóc những đứa trẻ khác. Vấn đề tiềm ẩn có lẽ có tính chất
dịch tễ, và người bác sĩ có thể đảm bảo cho người bệnh bằng cách xác định rằng
xung quanh còn có nhiều trẻ con mắc bệnh hô hấp.
Mặt khác, cũng rất có thể là các stress tiềm ẩn trong đời sống dẫn đến những lời
than phiền của bà A.G. Một đôi vợ chồng có con khi tuổi đôi mươi có thể chịu
stress do cùng một lúc phải tự lo kinh tế cho mình, phát triển mối quan hệ vợ
chồng, nuôi dạy con cái. Hơn nữa, giai đoạn 28-32 tuổi tương ứng với tuổi 30
chuyển tiếp: ở thời kỳ này các người trưởng thành trẻ tuổi có khuynh hướng đánh
giá lại và có nhiều câu hỏi về cuộc sống. Những stress này có thể dẫn đến những
trắc trở vợ chồng, điều này giải thích tại sao tuổi 28-30 là thời điểm thường xảy ra
ly thân và ly dị. Những stress như vậy có thể làm tǎng khả nǎng nhiễm bệnh do ức
chế chức nǎng tế bào T, nhưng những stress này cũng có thề dẫn đến việc đi khám
bệnh vì những điều phàn nàn nhỏ nhặt bởi vì người bệnh cần trao đổi với ai đó về
tình hình cuộc sống của mình. Như vậy, người thầy thuốc gia đình thǎm khám cho
bà A.G vì những phàn nàn về hô hấp cũng nên hỏi han bà về những lo toan, những
stress trong cuộc sống của bà, tập trung vào các vấn đề hôn nhân và sự thỏa mãn
trong cuộc sống.
VòNG ĐờI NGƯờI
Mặc dù có sự đa dạng về con người , dân tộc và các nhân tố vǎn hóa giữa các
người bệnh, có những kiểu mẫu và kinh nghiệm chung cho nhiều cá thể ở các thời
điểm đặc trưng của vòng đời sống. Trong đời sống, nhiều trường hợp, người bệnh
đến khám bệnh vì những vấn đề liên quan đến vòng đời (Bảng 2.1 ).
Bảng 2.1: Các thǎm khám liên quan với vòng đời chung
Các sự kiện của đời sống

thường liên quan đến thǎm
khám
Các ví dụ về các biến cố liên
quan với vòng đời thường được
thǎm khám bởi bác sĩ gia đình
Các thǎm khám để giữ sức
khỏe liên quan với vòng
đời
- Đẻ
- Vào trường tiểu học, trung
học (thǎm khám trước khi
nhập học)
- Xây dựng gia đình (thǎm
khám trước hôn nhân)
- Du lịch quốc tế (tiêm
chủng, đơn thuốc)
- Chậm lớn
- Đái dầm
- Nhà trường và các vấn đề hành
vi ở trẻ em
- Dậy thì/ kinh nguyệt
- Bệnh lây truyền qua đường
tình dục
- Chǎm sóc trước sinh
- Thǎm khám cho trẻ khỏe
mạnh
- Thǎm khám trước tuổi
học đường
- Thǎm khám để tham gia
điền kinh

- Thǎm khám trước hôn
- Bệnh cấp và mạn tính
- Nằm bệnh viện .
- Chết
- Tránh thai
- Thai nghén
- Tai nạn giao thông
- Ly dị
- Thất nghiệp
- Ngược đãi vợ chồng
- Về hưu
- Trầm cảm
- Vợ hoặc chồng bị chết
- Thích ứng với sự ốm yếu
nhân
- Đánh giá thể lực cho
người học nghề
- Thǎm khám theo báo
hiểm y tế
- Thǎm khám định kỳ hàng
nǎm
- Thǎm khám trước khi đi
du lịch nước ngoài.
Người bác sĩ gia đình dùng hiểu biết về sự phát triển bình thường để hướng dẫn
phòng bệnh và giáo dục sức khỏe. Họ cũng sử dụng kiến thức để dự đoán, xác
định và điều trị những vấn đề tâm lý xã hội, những vấn đề thường dẫn người bệnh
đi khám bệnh. Cuối cùng, các bác sĩ gia đình cho lời khuyên, như đi thǎm khám
trước khi xây dựng gia đình, thǎm khám ở tuổi dậy thì và thǎm khám cho người
cao tuổi. Thông thường, những biểu hiện gay cấn như không hành kinh là cơ hội
để thầy thuốc gia đình cho lời khuyên về hành vi bình thường và về sự phát triển.

Quan điểm của người bác sĩ gia đình về sự phát triển của người nên bao gồm cả
các nhân tố sinh lý học và tâm lý xã hội. Thường thường sự thay đổi của cơ thể và
sự biến đổi tâm lý xã hội đi cùng với nhau. Ví dụ sự phát triển tình dục ở tuổi thiếu
niên và sự biến đổi hormon có liên quan với những thay đổi lớn của hành vi. Mọi
nhân tố này tác động đến cá nhân, đến gia đình và đến sự đi thǎm khám.
Stress và sự thay đổi là hiện tượng bình thường. Thông thường những "biến động"
có tính chất stress đánh dấu sự chuyển đổi cần thiết từ một giai đoạn này sang giai
đoạn khác của đời sống. Do người bệnh không phải bao giờ cũng hiểu rõ mối liên
quan giữa stress và sức khỏe, người bác sĩ gia đình thường cần phát hiện ra những
vấn đề đằng sau những lời than phiền của người bệnh. Hiểu biết về nhiệm vụ
chung mà người ta phải đối đầu trong suốt đời giúp thầy thuốc xác định được các
câu hỏi cần hỏi và những vấn đề cần khai thác mỗi khi thǎm khám.
Sự phát triển trong quá trình thai nghén
Giai đoạn trước sinh là giai đoạn nhanh và có nhiều kịch tính nhất của sinh lý phát
triển. Bắt đầu bằng một tế bào duy nhất (trứng đã thụ tinh), phôi thai lớn lên và
biệt hóa trong vòng 40 tuần để thành trẻ sơ sinh. Đồng thời, người mẹ trải qua
nhiều triệu chứng và những thay đổi của cơ thể. Nhiều thay đổi có thể dự đoán
trước và là bình thường, nhưng sẽ là nỗi lo của người bệnh nếu không được giải
thích chu đáo. Hơn nữa, những sai lệch khỏi ngưỡng bình thường được thầy thuốc
tìm kiếm vì chúng có thể là đầu mối cho những vấn đề của thai nghén.
Bảng 2.2 giới thiệu một số giai đoạn quan trọng trong chu kỳ trước sinh và thảo
luận về ý nghĩa y học của chúng.
Bảng 2.2: Các mốc được lựa chọn của sự sinh trưởng và phát triển trong giai
đoạn trước sinh và nǎm đầu tiên của đời sống.
GIAI ĐOạN TRước SINH Nǎm đầu tiên của đời sống
Tuổi Các mốc Các vấn đề chǎm Tuổi từ Các mốc Các vấn đề chǎm
sau
vòng
kinh
cuối

sóc y tế khi đẻ sóc y tế
3-4 tuần

Phôi làm tổ Chảy máu âm đạo
nhẹ thường đi kèm
với phôi làm tổ
0-7
ngày
Thiết lập cầu
nối mẹ con
Môi trường bệnh
viện và gia đình có
thể tác động đến
cầu nối
3-5 tuần Mức HCG
bắt đầu tǎng
Test thai sớm
dương tính, nôn và
mệt
2-4 tuần Có thể theo
dõi sự cử
động bằng
mắt qua 10-
20?
Xét nghiệm sàng
lọc về thị giác sớm
có thể thực hiện
4-12
tuần
Cơ quan

chính được
tạo thành
Tác động của
thuốc, của độc tố
lên thai mạnh nhất
2-3
tháng
Biết cười khi
có kích thích
từ xung
quanh
Có thể thấy sự
tương tác bố mẹ -
con
15-20
tuần
Thai lớn từ
4,5 inch tới 9
inch về chiều
dài, từ
khoảng 2,5
aoxơ tới 8
aoxơ về trọng
lượng
Người mẹ thấy
thai máy lần đầu
(khoảng 15 tuần
với con dạ và 18
tuần với con so)
4 tháng Biết quay đầu

về nơi có
tiếng động
Có thể sàng lọc
các vấn đề về nghe
22 tuần Huyết áp của
mẹ đạt ở mức
thấp nhất vì
có sự thay đổi
tuần hoàn do
thai nghén
Không có giảm
huyết áp, ở giữa
quá trình thai
nghén, nghĩ đến có
thể gây nên chứng
tiền sản giật về sau
5-8
tháng
Biết ngồi
không cần
chỗ dựa
Ngồi là một cách
đo sự phát triển
vận động đơn giản
28 tuần Thai dài
khoảng 14
inch và nặng
khoảng 2 đến
2.5 pound
Người bố có thể

thấy thai cử động
khi đặt tay lên
bụng người mẹ.
Đa số thai được đẻ
sau tuần thứ 28 sẽ
sống sót với sự
chǎm sóc chu đáo
12
tháng
Có thể nhận
biết tên của
mình, nói
được vài từ
như "mẹ"
Phát triển kỹ nǎng
ngôn ngữ, cho
thấy sự nghe có
hiệu quả, xã hội
hóa, và sự phát
triển của não.
28-40
tuần
Thai và tử
cung lớn
nhanh
Sự bǎn khoǎn và
mệt mỏi của người
mẹ tǎng lên, rất
mong muốn chuẩn
bị nhà cho bé ra

đời (làm tổ)
9-14
tháng
Tập đi một
mình
Thường om xòm
trước khi đi. Sự
tập đi làm tǎng
nguy cơ các tai
nạn, hoặc nguy cơ
ǎn uống.
Những thay đổi tâm lý xã hội ở bố mẹ đi kèm với sự phái triển của cái thai đang
lớn. Sự nhận thức được đứa trẻ đang phát triển này đi từ một cảm nhận mơ hồ đến
sự hiểu biết cụ thể về tâm tính, về hoạt động và về sự yêu ghét. Người mẹ do ngày
càng thấy đáp ứng của thai nhi và chu kỳ hoạt động và nằm yên của thai nên gắn
bó nhiều hơn và sớm hơn người bố, vì người bố thường không quan niệm đầy đủ
về đứa trẻ như là một con người cho mãi đến khi sinh. Hơn nữa, thường có những
thay đổi trong quan hệ tình dục vợ chồng và trong vai trò của họ trong quá trình
thai nghén và sau khi sinh. Thǎm khám trước sinh có thể giúp cho cặp vợ chồng
thích ứng với thai nghén và chuẩn bị để nuôi con.
Trong quá trình thǎm khám trước sinh, người bác sĩ gia đình thực hiện các hoạt
động khác nhau liên quan với sự phát triển phôi thai. Việc tính tuổi thai được thực
hiện và xác định dựa trên những mốc phát triển: kích thước tử cung, thời điểm lần
đầu nghe thấy tiếng tim thai đập, thời điểm bà mẹ cảm thấy thai cử động. Giám sát
sức khỏe thai nhi phần lớn là so sánh tốc độ lớn của tử cung so với thai nghén bình
thường. Chương 14 bàn luận chi tiết hơn về chỉ dẫn chǎm sóc trước sinh.
Thời thơ ấu và thời vị thành niên
Cũng như trong chǎm sóc trước sinh, đánh giá sự phát triển đóng vai trò quan
trọng trong chǎm sóc trẻ em và các trẻ vị thành niên. Bố mẹ thường quan tâm đến
sự phát triển của con cái; ở tuổi học đường, trẻ em thường tự biểu hiện bằng các

vấn đề trong lớp học. Vì vậy, sự hiểu biết về hành vi bình thường ở các lứa tuổi
khác nhau là rất quan trọng đối với người bác sĩ thực hiện việc chǎm sóc cho trẻ
em và cho trẻ vị thành niên.
Các chuẩn được xác định với nhiều thông số phát triển khác nhau. Ví dụ: chiều
cao và cân nặng ở các giai đoạn khác nhau được trình bày trong "biểu đồ sinh
trưởng". ở cơ sở khám bệnh, chiều cao và cân nặng của trẻ (ở trẻ con đo vòng đầu)
được ghi lại sau mỗi lần thǎm khám, so chỉ số của người được thǎm khám với
những trẻ Mỹ khác. Tiếp theo, bác sĩ nên sàng lọc một cách không chính thức
những vấn đề phát triển bằng sự quan sát tác động qua lại của trẻ và bằng nói
chuyện với bố mẹ.
Thường thường theo dõi sự phát triển được dùng để nhắc nhở người bác sĩ các vấn
đề của các giai đoạn đặc trưng (xem hình 2.1 để làm ví dụ cho phiếu). Các lĩnh
vực có thể được đánh giá là sự phát triển vận động đơn giản, sự phát triển vận
động khéo léo, ngôn ngữ, hòa nhập cộng đồng, khả nǎng tập trung vào
công việc, các kỹ nǎng, quan tâm và các vấn đề về hành vi (Bảng 2.3).
Bảng 2.3: Phạm vi phát triển để đánh giá trong thǎm khám nhi khoa.
Phạm vi Ví dụ (thay đổi phụ thuộc vào tuổi)
Kỹ nǎng vận động đơn giản Lǎn, đi, chạy, chơi thể thao
Kỹ nǎng vận động khéo léo Xếp nhà, viết
Ngôn ngữ Tiếp khách, nói, viết
Quan hệ xã hội Với gia đình, với bạn bè, với trẻ em và người lớn ở các lứa
tuổi
Khả nǎng tập trung vào nhiệm vụ Khoảng thời gian đứa trẻ có khả nǎng miệt mài vào một
việc đặc trưng như đọc sách, chơi tennis
Thói quen Học làm vệ sinh, kiểu ǎn
Sự quan tâm Mặc quần áo đẹp, chơi thể thao, chương trình ti vi phù
hợp, bạn khác giới
Hành vi Tranh cãi với anh chị em, từ chối đi đến trường, trốn học,
dùng thuốc hoặc rượu
Những cái mốc phát triển thường được ghi chép ở các cơ sở y tế bởi y tá hoặc bởi

bác sĩ theo test phát triển Denver hoặc có cải biên. Hình 2.1 cung cấp một số ví dụ
về biểu đồ phát triển cho trẻ nhỏ. Ngoài sự phát triển thể chất, những vấn đề chung
nhất của phát triển trong nǎm đầu của đời sống bao gồm các kỹ nǎng về mối liên
hệ gia đình, về giao tiếp, và về tâm lý vận động.
Bố mẹ có thể được giúp đỡ để hiểu được sự phát triển của con mình với bản
hướng dẫn và thông tin về:
- Giấc ngủ
- Khóc và ý nghĩa
- Thực hành nuôi con
- Sự gần gũi về thân thể
- Nói chuyện với trẻ con
- Mối liên quan anh chị em
- Mối lo xa cách
- Mối liên quan của ông bà.
Giai đoạn chập chững đi (12-36 tháng) là thời gian hoạt động nhiều và hay tìm tòi.
Tǎng khả nǎng phối hợp cũng có nghĩa là có tiềm nǎng nguy hiểm ở trong nhà và
ở ngoài sân. Cùng với sự tǎng lên của kỹ nǎng giao tiếp và phát triển cá tính, cần
thưởng phạt đúng việc. Bố mẹ phải làm việc vất vả trong giai đoạn này để thống
nhất kỷ luật và các biện pháp kiểm tra có hiệu quả cũng như để giành "thời gian có
chất lượng" cho những đứa trẻ. Phạm vi của hướng dẫn và công việc gồm:
- Chơi (một mình và với người khác)
- Các việc thường ngày.
- Dạy làm vệ sinh
- Giao tiếp
- Xây dựng mô hình hành vi với anh chị em/ bố mẹ
- Trông trẻ
- Các vấn đề ǎn uống.
Sự phát triển trong giai đoạn tiền học đường và ở trường tiểu học (4- 12 tuổi) bao
gồm sự rèn luyện cách đọc, cách giao tiếp, cách hòa nhập, và tìm thú vui học tập.
Dù rằng nhà trường đã dạy những kỹ nǎng này trong nhiều môn, nhưng ở nhà bố

mẹ nên cố gắng làm gương và tham gia vào qui trình giáo dục. Nhiều người tin
rằng, những vấn đề còn tồn tại của hệ thống giáo dục của chúng ta một phần là do
sự khước từ của bố mẹ trong vai trò này. Phạm vi của hướng dẫn và công việc của
người bác sĩ là:
- Đặc tính về giới
- Biết phân biệt đúng, sai
- Hành vi gây gổ
- Tham gia vào hoạt động của gia đình
- Sự bất lực học tập
- Sự trưởng thành của nhân cách
Tuổi dậy thì làm cho cơ thể có những thay đổi (vú phát triển, kinh nguyệt, lông cơ
thể, giọng trầm). Những người ở tuổi vị thành niên thường tự mình nhận thức
trước những thay đổi của cơ thể và thường có nhiều câu hỏi về những thay đổi đó.
Với những thay đổi này của cơ thể, hình thành nên nhiệm vụ của sự phát triển một
con người độc lập, đặc trưng bởi sự hướng nghiệp. Đạo đức, tín ngưỡng, giới tính,
khả nǎng xác định giới hạn đều dựa trên những mục tiêu và giá trị này. Tính độc
lập của đứa trẻ khiến cho chúng xem xét giá trị và những lời khuyên của bố mẹ.
Xung đột với bố mẹ thường xảy ra, đây là bước bình thường mà sau đó được giải
quyết bằng sự chấp nhận lại nhiều lời khuyên của bố mẹ. Mối quan hệ với bạn
cùng lứa là quyết định ở tuổi vị thành niên và sự làm theo bạn thường đi kèm với
sự thử dùng ma túy, quan hệ tình dục và uống rượu. Cách tiếp cận chi tiết hơn với
tuổi vị thành niên được trình bày ở chương 9.
Trường hợp ví dụ
Bà M vợ của một bác sĩ trẻ mới chuyển đến nơi ở và hiện đang thực tập ở một
thành phố nhỏ, bà đang có mang. Đứa con trai bà ta được đỡ bởi thầy thuốc gia
đình. Bà là một người mẹ tuyệt vời và gắn bó với con Richard của bà. Nhưng qua
18 tháng sau, Richard biểu hiện chậm lớn (giảm từ 65 phân vị xuống 20 phân vị)
cũng như chậm trí tuệ và có vấn đề về ngủ. Phân tích dinh dưỡng đơn giản, phân
tích nước tiểu và máu, không có biểu hiện bất thường. Ngoài các stress của sự bắt
đầu làm việc và chuyển đến ở thành phố mới, bà M kể rằng mọi thứ trong gia đình

đều tết. Thầy thuốc gia đình có cơ sở để đưa Richard vào bệnh viện để thực hiện
các thǎm khám khác, nhưng trước khi việc này được thực hiện, bác sĩ M bị tạm
giữ vì lái xe trong khi say, gây tác hại đến tài sản. Khi được hỏi về rắc rối này, bà
M ỉu đi và buồn rầu chấp nhận rằng chồng bà ta là người nghiện rượu nặng đã vài
nǎm và đôi khi đánh bà sau khi uống. ông M được đưa vào chương trình điều trị
tại nhà, có kết quả tết, đồng thời khi đó Richard bắt đầu trở lại trọng lượng và phát
triển đúng các mốc chuẩn.
Trường hợp thảo luận
Đa số các vấn đề về sinh trưởng và phát triển ở Mỹ không do bệnh tật gây nên mà
do những vấn đề tâm lý xã hội như stress, ngược đãi, thiếu sự thương yêu dẫn đến
suy dinh dưỡng. Hoặc nguyên phát (như ở các nước thuộc thế giới thứ ba) hoặc
thứ phát (như ở nước này) suy dinh dưỡng gây nên những hậu quả nghiêm trọng
và thường không hồi phục được đến các kỹ nǎng vận động và trí tuệ. Không có
tầng lớp xã hội nào, nghề nghiệp nào tránh được những vấn đề gia đình, xã hội
hoặc nghiện ngập, những vấn đề đó tác động sâu sắc đến sự trưởng thành và hành
vi. Sự hiểu biết của người thầy thuốc về những vấn đề bình thường hoặc không
bình thường trong mọi giai đoạn rất cần thiết để giúp cho người bệnh và gia đình
họ.
Giai đoạn trưởng thành sớm và trung niên
Những nghiên cứu sớm về phát triển của người tập trung vào giai đoạn thơ ấu.
Nhưng càng ngày càng có nhiều bằng chứng rằng sự thay đổi và tiến hóa còn tiếp
tục qua giai đoạn trưởng thành và có thể gặp trong các giai đoạn ước đoán trước
(bảng 2.4).
Bảng 2.4: Các giai đoạn của đời sống và sự chuyển tiếp của giai đoạn trưởng
thành
Tuổi Giai đoạn đời
sống
Chuyển tiếp
(=CT)
Nhiệm vụ / mục tiêu / vấn đề

17-
22
CT trưởng thành
sớm
Thiết lập sự độc lập với gia đình; xác định mục
tiêu cá nhân và giá trị; Chọn nghề; thử thách
đầu tiên với bạn khác giới.
22-
29
Trưởng thành
sớm
Khởi đầu nghề nghiệp, làm bố mẹ sớm, hoặc trì
hoãn sinh sản; vai trò cân bằng cá chân bạn
khác giới; các quan hệ dìu dắt có thể có ích.
28-
33
CT ở tuổi 30 Sự đánh giá lại việc chọn lựa ban đầu cồ thể
dẫn đến hoặc là sự thay đổi hoặc là tái uỷ thác.
Không nghề nghiệp có thể dẫn đến sự chán nản,
rượu chè, xung đột hoặc bạc đãi vợ chồng.
30-
39
ổn định Thiết lập chỗ đứng trong xã hội do thành công
nghề nghiệp, nuôi dạy con, quan hệ trong cộng
đồng, thích ứng với bạn khác giới và con cái.
33-
45
Khủng hoảng
giữa cuộc đời
Đánh giá lại mục tiêu và hoạt động sống, những

điều chỉnh đầu tiên cho những dấu hiệu sớm
của tuổi già, thay đổi nghề nghiệp, khủng hoảng
hôn nhân phổ biến, hoàn thành sự sinh đẻ.
45-
60
Trung niên Chuyển từ người hành nghề sang dạy các người
khác. Tạo điều kiện cho trẻ con được tự do. Tái
thiết lập gia đình sau khi các con cái rời khỏi
nhà. Niềm vui trong sự biểu lộ tình cảm cá nhân
và sự trưởng thành là phổ biến trong số phụ nữ
giành tất cả thời gian làm mẹ.
47-
55
CT ở tuổi 50 Đánh giá lại cuộc đời, có thể có sốc ở những
người có ít thay đổi trong độ tuổi 30 và 40. Mãn
kinh gây nên những đáp ứng sinh lý, tâm lý ở
phụ nữ.
58-
68
CT ở tuổi 60
sớm
Dự đoán trước sự về hưu. Đồng nhất hơn với
gia đình và vǎn hóa; chấp nhận cuộc đời.
65-
79
Người già còn
trẻ "những nǎm
vàng"
Hài lòng với đời sống ở mức độ cao, giữ liên hệ
với gia đình, trở thành ông bà; khả nǎng tuân

thủ thời gian nhàn rỗi và lợi ích cộng đồng, sự
lo âu về bảo vệ sức khỏe và độc lập.
70-
84
CT phụ thuộc cơ
thể
Bệnh mãn tính và sự ốm yếu làm giảm khả
nǎng độc lập; cần có sự giúp đỡ cho các hoạt
động hàng ngày, sự phụ thuộc làm tǎng sự tin
cậy vào gia đình.
75+
Người già cao
tuổi "người già
ốm yếu"
Sự chết của vợ hoặc chồng, bạn bè, anh chị em
chấp nhận sự thay đổi của cơ thể; sự khó chịu
của cơ thể; sự tiếp xúc xã hội đáng kể với sự hỗ
trợ của mỗi cơ sở chǎm sóc sức khỏe, mong
muốn đóng góp kinh nghiệm sống cho người
khác, đặc biệt cho người trẻ hơn, sắp sẵn cho
chết.
Trong số những nghiên cứu có ảnh hưởng nhất về phát triển ở giai đoạn trưởng
thành phải kể đến công trình của Levinson, được phổ biến bởi Sheehy. Levinson
coi giai đoạn trưởng thành như là một chuỗi các thời kỳ ổn định được chia ra bởi
các giai đoạn chuyển tiếp (khủng hoảng) của sự phát triển, trong khi đó con người
hay đánh giá lại cuộc đời mình, khi đó cả xung đột và thay đổi đều hay gặp. Theo
Levinson, sự chuyển tiếp phát triển xảy ra bởi vì không có một cuộc đời nào có thể
hoàn thành mọi hướng của mình (mơ ước, mục tiêu, tham vọng). Chọn con đường
sống bao gồm sự khước từ những khả nǎng khác. Các giai đoạn chuyển tiếp xảy ra
khi người ta kiểm tra lại cuộc sống của mình, thấy có sự lựa chọn lại.

Tuổi vị thành niên kết thúc với giai đoạn chuyển tiếp trưởng thành sớm (17-22
tuổi). Trong giai đoạn này mỗi cá thể phải cải tiến hoặc kết thúc mối liên hệ với bố
mẹ và tổ chức (như đặt tên tôn giáo) và bắt đầu khai thác thế giới người trưởng
thành. Sự chọn nghề nghiệp, quan hệ yêu đương, quan hệ bạn bè, đánh giá và cách
sống là những phần của cùng một quá trình; sự chuyển tiếp này được nối tiếp bởi
giai đoạn đầu trưởng thành (22-28 tuổi) trong giai đoạn này mỗi cá thể dựa vào
những sự lựa chọn ban đầu này.
Giai đoạn chuyển tiếp tiếp theo là giai đoạn chuyển tiếp tuổi 30 diễn ra giữa 28 và
33 tuổi. Trong giai đoạn này con người kiểm tra lại một cách tích cực cuộc đời
mình. Kết quả sẽ hoặc là sự thay đổi (nghề mới, hôn nhân hoặc ly dị), hoặc là sự
chuyển tiếp phẳng lặng hơn, ở đó cá thể tiếp tục dựa vào những cái đã xây từ tuổi
20. Giai đoạn chuyển tiếp này được nối tiếp bởi giai đoạn ổn định, khi đó người ta
tập trung vào việc thiết lập vị trí trong xã hội. Thường thường con người tập trung
"vun xới" cho nghề đã được chọn và vợ chồng tập trung vào việc nuôi dạy con.
Những người không có con tập trung vào việc thực hiện công việc, giao lưu bạn bè,
công tác xã hội. Giai đoạn chuyển tiếp tiếp theo xảy ra ở tuổi 33-45 đối với nữ và
37-45 đối với nam. Khủng hoảng giữa đời bao gồm sự chạm trán với những hạn
chế của cuộc đời, theo nghĩa của cả sức lực và khả nǎng thực thi, người ta không
hoàn thành được những mục đích của đời mình. Đối với cả nam và nữ, khủng
hoảng này thường xảy ra do sự tích tụ những dấu hiệu của tuổi già, mọi việc đã
qua từ sự tǎng chức của một người trẻ hơn ở cơ quan đến việc phát sinh bệnh tật
làm cản trở sự tham gia vào môn thể thao ưa thích, đến việc qua đời của bố mẹ.
Do có nhiều sự kiện nên trong giai đoạn này con người thường tự đánh giá lại đời
mình, luôn cảm thấy có ít thời gian để hoàn thành mục tiêu của mình. Rất nhiều
vấn đề ràng buộc, mục tiêu, kết quả của hoạt động dẫn đến sự gián đoạn nghề
nghiệp, gián đoạn quan hệ cá nhân. Đây là thời điểm thường xảy ra sự thay đổi
nghề nghiệp, chấm dứt hôn nhân, tâm trạng chán nản. Đối với phụ nữ không có
con, phần quan trọng của cuộc khủng hoảng ở tuổi trung niên là sự cần thiết phải
có con, vì rằng tần số hội chứng Down, vô sinh và nguy cơ thai nghén tǎng nhanh
sau tuổi 35.

Sau những lựa chọn, những người ở lứa tuổi giữa 40 bước vào giai đoạn trung
niên. Đối với một số người, giai đoạn này là thời gian của sự hài lòng. Nhưng đối
với những người khác không có khả nǎng để giải quyết vừa ý những xung đột của
họ, đây là thời gian của sự từ chức, sự chán nản. Chuyển vào giai đoạn sau 40 và
50 con người trước đây leo trên thang nghề nghiệp giờ đây cố dìu dắt nghề cho
người khác thường chuyển sang vị trí quản lý. Trong số cặp vợ chồng đã có con,
người đàn ông có chiều hướng chú trọng đến những quyền lợi lớn của gia đình và
mối quan hệ cá nhân còn người đàn bà chú trọng đến tình cảm và sự trưởng thành.
Giai đoạn trung niên tiếp tục cho đến khoảng 60 tuổi. Nhưng trọng giai đoạn này,
giai đoạn chuyển tiếp nhẹ nhàng hơn xảy ra, đó là giai đoạn chuyển tiếp ở tuổi 50,
trong giai đoạn này con người lại đánh giá cuộc sống của mình. Đối với những
người ít có thay đổi trong độ tuổi 40, giai đoạn này có thể là thời gian có nhiều
khủng hoảng và thay đổi. Đối với phụ nữ, sự chuyển tiếp được báo hiệu bằng một
hiện tượng sinh lý quan trọng: mãn kinh.
Sự thay đổi của hormon và của cơ thể của mãn kinh xảy ra trong vài nǎm, với tuổi
trung bình mãn kinh là 48. Người phụ nữ khi mãn kinh đã có quan niệm đây là kết
thúc của những hấp dẫn, của sự có ích và của tình dục. Đa số phụ nữ đã vượt qua
thành công những quan niệm này, hơn nữa sau mãn kinh họ cảm thấy tự do hơn để
làm gì đó cho họ và họ hài lòng với cuộc sống của họ.
Sự chuyển tiếp khác có xu hướng xảy ra vào trước tuổi 60, vì người ta đoán trước
sự về hưu và tuổi già. Nhiệm vụ của giai đoạn này là sự tiếp nhận quá trình của
cuộc đời và thật cố gắng để hoàn thành phần việc trong gia đình, công việc vǎn
hóa, lịch sử. Sự chấp nhận cuộc sống cũng dẫn đến sự chấp nhận cái chết không
thể tránh được. Kết quả của sự hoàn thành thắng lợi của giai đoạn chuyển tiếp này
là tiếp cận cái chết "cộng với giá trị cho sự sống."
Giai đoạn cao tuổi
Thành công của tuổi già bao gồm sự kết hợp giữ được sức khỏe tết và điều chỉnh
được những mất mát. Mục tiêu và sự thích thú vẫn là có sức khỏe tốt dù tuổi đã
già. Những nghiên cứu của những nǎm 70 và 80 về những người trưởng thành
thắng lợi đã chỉ ra rằng những người cao tuổi muốn có công việc thường xuyên

bao gồm sự rèn luyện thân thể đều đặn, tiếp xúc xã hội, hoạt động sản xuất bằng
nghề nghiệp, hoặc phục vụ cộng đồng và ǎn uống tốt. Những ví dụ về sự mất mát
của cơ thể mà người cao tuổi phải điều hòa là giảm thính giác, giảm khả nǎng chịu
đựng, ốm yếu do bệnh tật. Sự mất mát có tính xã hội thay đổi từ sự về hưu (mất
vai trò của người lao động và kết quả của lao động trong sản xuất cho xã hội) tới
việc rời đến chỗ ở mới (rời từ nhà vào cǎn hộ), tới việc mất bạn bè, anh chị em do
bị chết.
Đối với người thầy thuốc gia đình, cần thiết phân biệt người già còn trẻ, những
người này tương tự người trưởng thành của tuổi trung niên muộn, với người già
cao tuổi, những người này cơ thể bị suy yếu nhiều. Đối với nhiều người giai đoạn
già còn trẻ thật sự là "những nǎm vàng". Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng những
người ở tuổi 65-74 cảm thấy hài lòng với cuộc sống hơn so với những người ở tuổi
khác. Điều này xảy ra là vì dù rằng có những hạn chế của sức lực, những người già
còn trẻ có khả nǎng làm nhiều việc mà họ thích thú, được tự do khỏi tiền bạc và
sức ép thời gian, và (sau đó) nhận thức được rằng họ phải sống hàng ngày cho chết
họ hơn là hướng về tương lai. Vấn đề sức khỏe là vấn đề chung của nhóm tuổi này,
những người già còn trẻ có trách nhiệm cao với việc giáo dục sức khỏe và những
lời dặn dò của thầy thuốc.
Sự chuyển tiếp tới giai đoạn phụ thuộc thể chất là đặc trưng khi bước vào giai
đoạn già cao tuổi. Có thay đổi đáng kề về tuổi, nhưng đa số những người 80 tuổi
bắt đầu giai đoạn này. Nhiều cặp vợ chồng vẫn khoẻ mạnh khi gần 75 tuổi nhưng
sang tuổi 80 tuổi, ít cặp không, có ít nhất là một người bị yếu đau hay chết. Đối
với những người già cao tuổi, điều quan trọng là giữ được độc lập và cải thiện mối
liên hệ với các thành viên trong gia đình. Sự ốm yếu là gánh nặng cho gia đình, và
chết dần là vấn đề còn trọng đại hơn là cái chết; ở với gia đình và sự chia sẻ kinh
nghiệm sống cho người khác đặc biệt có giá trị. Thầy thuốc và các cán bộ khác
làm việc chǎm sóc sức khỏe có vai trò nổi bật trong đời sống của các người già
cao tuổi vì vấn đề sức khỏe là trung tâm của giai đoạn sống này. Sự chân thực, cởi
mở của người thầy thuốc về sự ốm yếu, sự chết, sự hấp hối thường được hoan
nghênh.

CáC GIAI ĐOạN SốNG Và TáC ĐộNG CủA BệNH MạN TíNH
Bệnh tật mạn tính thường tác động mạnh đến mỗi cá thể ở từng giai đoạn đời sống.
Sự hoàn thành có hiệu quả những nhiệm vụ của sự phát triển thường thường bị
ngǎn trở, khó thực hiện để làm cho cá thể tiến tới giai đoạn sau của đời sống. Kết
quả dẫn đến sự trầm cảm, lo âu phụ thuộc và gây stress cho gia đình.
Bệnh tật ở trẻ con tác động sâu sắc đến cả đứa trẻ và gia đình. Trẻ con thường
tránh sự phụ thuộc và bố mẹ vấp phải khó khǎn và thường phải kéo dài quá trình
điều chỉnh. Sự thay đổi mục tiêu sống và vai trò của nhiều thành viên gia đình
thường là cần thiết để thích ứng với bệnh tật như bệnh hồng cầu liềm, xơ hóa nang,
hoặc bệnh tự kỷ có thể dẫn đến sự trầm cảm, tan vỡ hôn nhân, tật uống rượn, bệnh
tật của những thành viên khác trong gia đình.
ở giai đoạn muộn hơn của đời sống, việc đối đầu với bệnh tật đặc biệt khó khǎn
nếu chúng xảy ra trong các giai đoạn chuyển tiếp. Ví dụ: nhồi máu cơ tim cấp tính
ở nam giới, tuy không phổ biến, xảy ra trong giai đoạn khủng hoảng ở khoảng
giữa cuộc đời, hoặc nhiều hơn ở giai đoạn chuyển tiếp của tuổi 50. Bản thân bệnh
tật, với sự phụ thuộc tạm thời vào những điều khác, và mối đe dọa của sự chết
hoặc sự ốm yếu thường xuyên đều dồn đến tự nghi ngờ. Phản ứng của người bệnh
thay đổi. Một số người có thể phủ nhận sự trầm trọng của vấn đề, trở nên không
phục tùng y lệnh, nhấn mạnh đến việc làm lại bài tập thế dục mạnh, và khả nǎng
tình dục. Một số khác có thể đi vào tình trạng trầm cảm, bởi sự sợ hãi là tiếp tục
hoạt động nhiều sẽ dẫn đến cơn đau tim khác.
Trong chǎm sóc cho mọi người bệnh, người bác sĩ gia đình phải cảm nhận từng
giai đoạn của đời sống và những vấn đề tiềm ẩn có thể phát sinh. Khi chǎm sóc
người bị bệnh nặng, người thầy thuốc phải đánh giá tác động của người bệnh đến
người bệnh và gia đình. Một phần của quá trình này bao gồm sự hiểu biết các nhu
cầu và các nhiệm vụ phát triển của người bệnh và của từng thành viên trong gia
đình. Thường thường, lời khuyên xung quanh các vấn đề này giúp ích cho người
bệnh và gia đình thích ứng tốt hơn với bệnh tật.
CƠ HộI TRONG MỗI lầN THǍM KHáM
Các giai đoạn phát triển của đời sống thường đi cùng với việc đi thǎm khám ở các

cơ sở của bác sĩ gia đình. Thường thường, lý do của người bệnh đi thǎm khám là
hoàn chỉnh một giấy tờ thǎm khám cần có như giấy chứng nhận trước khi kết hôn,
hoặc giấy tiêm chủng. Vào lúc khác, người bệnh có vấn đề về sức khỏe nhưng
cũng có thể có vấn đề liên quan đến sự chuyển tiếp đời sống. Biết được, xác định
được, điều hành được sự phát triển liên quan với sức khỏe, với các vấn đề tâm lý
xã hội là một trong những chìa khóa để bảo vệ sức khỏe. Các vấn đề này được mở
rộng trong phần thứ hai của sách này. Tiêu điểm của người bệnh dù có như thế nào,
người thầy thuốc gia đình vẫn có thể cung cấp sự chǎm sóc dễ cảm nhận hơn,
thích đáng hơn, nếu người thầy thuốc tiếp cận người bệnh trong viễn cảnh của sự
phát triển của con người.
TàI LIệU THAM KHảO
1. Comfort A: A Good Age. New York, Crown Publishers, 1976.

×