Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Tính khoa học và minh bạch đằng sau xét nghiệm doping Nguyễn Văn Tuấn Vụ vận docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (183.46 KB, 5 trang )

Tính khoa học và minh bạch đằng sau xét nghiệm
doping
Nguyễn Văn Tuấn
Vụ vận động viên Đỗ Thị Ngân Thương có kết quả dương tính do sử dụng
thuốc lợi tiểu Furosemide, vi phạm qui ước thi đấu của Thế vận hội Olympic đã
gây ra nhiều tranh cãi. Phần lớn dư luận nhắm vào trách nhiệm của các quan
chức thể thao, nhưng hình như chẳng ai chất vấn tính khoa học đằng sau những
xét nghiệm doping của cơ quan chức năng thuộc Thế vận hội Olympic. Trong
thực tế, cách làm việc và phương pháp xét nghiệm của họ thiếu tính minh bạch, và
thậm chí phản khoa học.
***
Sự nghiệp của một vận động viên có thể được kết thúc chỉ vì một kết quả
xét nghiệm. Hội đồng y khoa của Thế vận hội Olympic công bố một danh mục
gồm hơn 200 loại thuốc thuộc 9 nhóm hóa dược bị cấm sử dụng trong các kì thi
đấu thể thao. Nếu kết quả xét nghiệm của một vận động viên cho thấy nồng độ
của các hóa dược này trong máu hay nước tiểu vượt quá một giá trị tham chiếu
(hay vượt quá “ngưỡng bình thường”) thì sự nghiệp của vận động viên có có thể bị
gián đoạn, thậm chí kết thúc. Nếu vận động viên đã đạt huy chương thì huy
chương sẽ bị tước bỏ. Do đó, diễn giải kết quả xét nghiệm rất quan trọng, vì nó có
ảnh hưởng trực tiếp đến sự nghiệp của một vận động viên.
Vấn đề xác suất
Diễn giải kết quả xét nghiệm và phán quyết một vận động viên vi phạm hay
không vi phạm sử dụng thuốc cấm (sẽ gọi tắt là “doping”) là một vấn đề xác suất.
Thật vậy, trước một kết quả xét nghiệm của một vận động viên, câu hỏi quan trọng
là: với kết quả này, xác suất mà vận động viên này vượt ngưỡng bình thường (tức
doping) là bao nhiêu?
Xác suất này tùy thuộc vào hai thông số: tỉ lệ doping trong cộng đồng vận
động viên, và độ chính xác của phương pháp xét nghiệm. Không ai biết có bao
nhiêu vận động viên doping, nhưng các chuyên gia có vẻ nhất trí rằng con số đó
thấp hơn 5%. Độ chính xác của phương pháp xét nghiệm được thể hiện qua hai
chỉ số: độ nhạy và độ đặc hiệu. Độ nhạy là xác suất mà phương pháp xét nghiệm


cho ra kết quả dương tính nếu đối tượng thật sự doping. Độ đặc hiệu là xác suất
mà phương pháp xét nghiệm cho ra kết quả âm tính nếu đối tượng thật sự không
doping.
Do đó, nếu độ nhạy là 90%, thì sẽ có 10% sai (tức 10% vận động viên đích
thực “phạm tội” doping nhưng kết quả âm tính). Ngược lại, nếu độ đặc hiệu là
95%, thì vẫn có 5% vận động viên “vô tội” nhưng bị xét nghiệm cho là dương
tính. Trong thực tế và theo kinh nghiệm của người viết bài này, rất hiếm phương
pháp xét nghiệm nào có độ nhạy và độ đặc hiệu trên 90%.
Hãy lấy một ví dụ để minh họa cho vấn đề. Chẳng hạn trong cộng đồng thể
thao có 5% vận động viên doping, và phương pháp xét nghiệm có độ nhạy và đặc
hiệu cao đến 95% [1]. Nếu một vận động viên có kết quả dương tính, thì xác suất
mà vận động viên này thật sự doping chỉ 50%. Ngay cả khi độ nhạy và đặc hiệu ở
mức 99% (chưa từng thấy trong thực tế) thì xác suất mà vận động viên doping
cũng chỉ 84%, tức chưa đủ độ tin cậy để phán quyết. Chúng ta cần phải có một
xác suất 100% hay ít ra là 99.99% mới có thể kết luận doping chính xác.
Cả hai chỉ số độ nhạy và đặc hiệu phải được phát triển từ các thử nghiệm
lâm sàng với một số lượng đối tượng lớn. Nhưng trong thực tế, không ai biết cơ
quan chức năng có thử nghiệm lâm sàng hay không và kết quả ra sao. Thật vậy,
cho đến nay chúng ta vẫn không biết độ chính xác của các phương pháp xét
nghiệm mà cơ quan chức năng của Thế vận hội Olympic sử dụng là bao nhiêu. Đã
có nhiều người chất vấn, nhưng Cục chống doping thế giới (World Anti-doping
Agency, còn gọi là WADA) vẫn không chịu công bố các dữ liệu này. Luật sư
Howard Jacob (Mĩ), người biện hộ cho một vận động viên Mĩ bị kết tội sử dụng
thuốc trái qui ước Thế vận hội, nhận xét về cách làm việc của WADA như sau:
“Giống như là một qui trình bí mật do họ dựng lên. Họ nói nếu ai đó có kết quả
vượt một ngưỡng nào đó, xác suất dương tính giả là 1 phần tỉ, nhưng chúng ta
chẳng bao giờ thấy dữ liệu nào làm cơ sở cho phán quyết đó.” [2]
Dao động sinh học và gien
Tất cả các hormones và chỉ số sinh hóa trong cơ thể chúng ta dao động
hàng ngày, hàng giờ, thậm chí hàng phút. Nghiên cứu của người viết bài này vừa

công bố tháng qua cho thấy nồng độ hormones dao động rất lớn ở mỗi cá nhân và
giữa các cá nhân. Chẳng hạn như hormone tăng trưởng (IGF1) trong máu của tôi
hôm nay có thể là 100 ng/L, nhưng ngày mai có thể là 80 hay 130 ng/L, mặc dù tôi
chẳng sử dụng thuốc kích thích nào. Đó là dao động sinh học bình thường trong
mỗi cá nhân.
Ngoài ra, nồng độ IGF1 của tôi có thể rất khác với một người khác cùng độ
tuổi đến 2 hay 3 lần, dù cả hai đều không sử dụng thuốc nào có ảnh hưởng đến
IGF1. Đó là dao động gữa các cá nhân trong một cộng đồng. Điều này cho thấy
việc xác định giá trị tham chiếu hay ngưỡng để phán quyết một kết quả xét nghiệm
là bình thường hay bất bình thường cần phải điều chỉnh cho độ dao động của chính
cá nhân đó và độ khác biệt tự nhiên giữa các cá nhân trong một cộng đồng. Không
có giá trị tham chiếu, kết quả xét nghiệm chỉ là những con số vô nghĩa.
Nồng độ chu chuyển và bài tiết của các chỉ số sinh hóa chịu sự ảnh hưởng
của gien. Trong một nghiên cứu vừa công bố, các nhà nghiên cứu Thụy Điển cho
một nhóm đàn ông bình thường uống một liều lượng 500 mg testosterone, và sau
đó vài ngày, họ xét nghiệm nồng độ testosterone trong nước tiểu. Kết quả cho
thấy có đến 40% không có dấu hiện gia tăng testosterone, nhưng trong số 60% còn
lại thì nồng độ testosterone tăng đến 2 lần. Tại sao có sự khác biệt lớn như thế
giữa các đối tượng? Tại vì số 40% đàn ông không tăng testosterone do họ mang
trong người biến thể của gien UGT2B17. Phát hiện này cho thấy nếu không xét
đến gien, kết quả xét nghiệm và diễn giải kết quả có thể rất sai lầm.
Trường hợp của Ngân Thương
Câu chuyện của Ngân Thương quả là một trường hợp đáng tiếc. Rất có thể
Ngân Thương thiếu thông tin hay có cố vấn sai, nên đã sử dụng thuốc này làm
giảm cân một cách không cần thiết, vì thí nghiệm trên ngựa cho thấy Furosemide
chỉ giảm cân khoảng 3-5%. Furosemide là một loại thuốc dùng để điều trị bệnh
suy tim và phù, có chức năng bài đẩy mạnh bài tiết muối và nước từ thận. Từ năm
1988, Furosemide nằm trong danh sách cấm sử dụng trong các cuộc thi đấu tại
Thế vận hội Olympic. Thật ra, Ngân Thương không phải là người đầu tiên bị phạt
vì sử dụng furosemide; trước đây (tính từ Thế vận hội Hán Thành 1988) đã có 6

vận động viên vi phạm qui ước này.
Cho đến nay, không ai biết các giá trị tham chiếu mà cơ quan chức năng
của Thế vận hội sử dụng trong việc phán quyết rằng Ngân Thương vi phạm
doping. Cũng không ai biết phương pháp xét nghiệm Furosemide của cơ quan
chức năng Thế vận hội 2008 chính xác ở độ nào. Cũng có thể Ngân Thương mang
trong người một biến thể gien có liên quan đến quá trình chuyển hóa của
Furosemide ảnh hưởng đến kết quả xét nghiệm.
Viết trên tập san khoa học Nature gần đây, Gs Donald Berry (Đại học
Texas) cho rằng qui trình xét nghiệm và phán quyết của cơ quan chức năng về
doping Thế vận hội Olympic là một cái hộp đen và phản khoa học. Ông viết:
“Đây là một cái hộp đen, mà trong đó có những người nho nhỏ chạy vòng quanh,
và chúng ta không biết họ làm cái gì. Chúng ta cần một không khí mới. Chẳng
những cách làm việc của họ phản khoa học, mà thái độ của họ càng phản khoa
học” [3].
Mục tiêu của việc xét nghiệm doping là nhằm đảm bảo tính công bằng
trong các cuộc tranh tài thể thao. Vận động viên cũng có thể đòi hỏi sự công bằng
từ cơ quan chức năng của Thế vận hội trong việc xét nghiệm và dữ liệu liên quan
đến xét nghiệm. Không thể nào chấp nhận một phán quyết mà không tìm hiểu cái
khoa học đằng sau phương pháp xét nghiệm. Dù sao đi nữa, để công bằng cho
Ngân Thương, chúng ta đòi hỏi cơ quan chức năng phải công bố kết quả và trình
bày dữ liệu cho công chúng quốc tế biết qui trình và phương pháp khoa học trong
xét nghiệm để vấn đề minh bạch hơn.
Chú thích:
[1] Về cách tính, gọi p là tỉ lệ doping trong cộng đồng, sens là độ nhạy, và spec là
độ đặc hiệu, thì xác suất doping nếu có kết quả dương tính là:


    
specpsensp
sensp

doping


11
.
[2] Xem “Shaky science casts doubt on doping results” của Brian Alexander trên
MSNBC News ngày 6/8/2008.
[3] Berry DA. The science of doping. Nature. 2008 Aug 7;454(7205):692-3.


×