Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Một vụ Madoff trong y khoa: Lại một ngôi sao y khoa rơi rụng! Nguyễn Văn Tuấn Giáo pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.8 KB, 6 trang )

Một vụ Madoff trong y khoa:
Lại một ngôi sao y khoa rơi rụng!
Nguyễn Văn Tuấn
Giáo sư Scott S. Reuben, 51 tuổi, là một chuyên gia và giám đốc bộ môn
gây mê của Trung tâm Y khoa Baystate (bang Illinois, Mĩ), và trường Y thuộc Đại
học Tufts. Ông là một “ngôi sao” trong chuyên ngành gây mê, với những công
trình nghiên cứu giảm đau sau phẫu thuật. Ông đã công bố 72 công trình nghiên
cứu khoa học trên các tập san y khoa hàng đầu trong ngành gây mê như
Anesthesiology, Anesthesia and Analgesia, Journal of Clinical Anesthesia, v.v…
Do đó, không ngạc nhiên khi thấy những công trình nghiên cứu này gây tiếng
vang và ảnh hưởng đến chuyên ngành gây mê ở Mĩ.
Một trong những lĩnh vực nghiên cứu ông theo đuổi và có ảnh hưởng lớn là
“trường phái điều trị đa phương” bằng cách sử dụng nhiều thuốc chống đau để
giảm tối đa những phẫu thuật mang tính xâm phạm. Từ năm 2000, bằng các
nghiên cứu của mình, ông thuyết phục các bác sĩ giải phẫu chấn thương chỉnh hình
sử dụng các thuốc như Celebrex, Vioxx, và Bextra để giảm đau (thay vì sử dụng
các NSAIDs trước đó. Ông còn cho rằng phối hợp các thuốc trên và thuốc can
thiệp hệ thần kinh (neuropathic agents) có hiệu quả cao hơn thuốc mô phỏng theo
thuốc phiện (opioids). Có người cho rằng nhờ những nghiên cứu của Reuben mà
những thuốc giảm đau như Celebrex, Vioxx có thị trường hàng tỉ đô-la mỗi năm.
Những nghiên cứu của Reuben đã bị đồng nghiệp đặt dấu hỏi và nghi ngờ
từ lâu. Một số đồng nghiệp rất ngạc nhiên thấy tất cả kết quả nghiên cứu của ông
đều có kết quả quá “đẹp”, chẳng có nghiên cứu nào của ông có kết quả “âm tính”
cả! Trong khi đó nhiều người khác cố lặp lại những kết quả này đều thất bại.
Trong khoa học, kết quả nghiên cứu đã công bố mà nhiều người khác lặp lại
không được là một tín hiệu cho thấy nghiên cứu đó có vấn đề.
Những nghi ngờ của đồng nghiệp trong giới gây mê đã có cơ sở. Mới đây,
11/3/2009, giáo sư Reuben thú nhận rằng trong suốt từ 1996 đến nay, có khoảng
21 công trình ông chỉ giả tạo dữ liệu, chứ chẳng có nghiên cứu nào cả! Thú nhận
này làm rúng động cộng đồng gây mê ở Mĩ và có lẽ cả thế giới, vì những ảnh
hưởng của nghiên cứu do giáo sư Reuben trình bày trong thời gian qua. Các tập


san lập tức rút lại những bài báo của ông. Nhưng các tập san này nhấn mạnh rằng
ông Reuben gian lận, chứ các đồng tác giả và cộng sự thì không.
Giới khoa học xem đây là một trường hợp gian lận khoa học lớn nhất trong
lịch sử y khoa Mĩ. Thật vậy, hiếm thấy trong lịch sử y khoa có một nhà khoa học
nào ngụy tạo số liệu trong một thời gian dài như thế, và nhờ những ngụy tạo đó mà
“leo” đến chức giáo sư y khoa! Chẳng những ngụy tạo dữ liệu, giáo sư Reuben
còn ngụy tạo cả … tác giả. Theo giáo sư Evan Ekman (chuyên gia phẫu thuật chấn
thương chỉnh hình ở Columbia) cho biết tên của ông xuất hiện trong 2 bài báo của
Reuben, nhưng ông Ekman chẳng biết gì cả! Thật là hi hữu!
Trường hợp gian lận của giáo sư Reuben không phải là trường hợp duy
nhất, và chắc chắn sẽ không phải là trường hợp sau cùng. Trong quá khứ đã có
nhiều vụ gian lận nổi tiếng, thậm chí có người phải đi tù (xem box). Còn nhớ
trước đây, vào năm 2004, tiến sĩ Hwang woo-suk tuyên bố rằng ông đã thành công
tạo ra dòng tế bào gốc từ phôi thai nhân bản, đem lại biết bao hi vọng cho bệnh
nhân nan y, nhưng đến cuối năm 2005, qua nhiều tháng điều tra chúng ta biết rằng
ông chỉ ngụy tạo dữ liệu! Năm ngoái, cũng ở Hàn Quốc, giáo sư Kim Tae kook
cũng bị phát giác là ngụy tạo dữ liệu và phân tích dữ liệu trong hai công trình công
bố trên tập san Science vào năm 2005 và Nature Chemical Biology vào năm 2006.
Trong thực tế, nhiều nhà khoa học cũng bịp bợm, lưu manh, và phạm tội
lường gạt. Họ cũng làm nghiên cứu giả dối, cũng che dấu sự thật, cũng chủ quan,
cũng đạo văn, ăn cắp ý tưởng của người khác, cũng bịa đặt số liệu, cũng cố tình
vặn vẹo số liệu theo ý muốn mình Trong một nghiên cứu trên 4.000 sinh viên
bậc tiến sĩ trong 99 trường đại học ở Mĩ, Giáo sư Judith P. Swazey cho biết có đến
44% sinh viên và 50% giáo sư đại học từng biết ít nhất một hành vi vi phạm đạo
đức nghiên cứu khoa học. Phần lớn những vi phạm này xảy ra trong các bộ môn
khoa học thực nghiệm như sinh học, vật lí, hóa học, v.v… Nhưng vi phạm nhiều
nhất vẫn là trong nghiên cứu y khoa.
Nhìn người lại nghĩ đến ta. Ở Việt Nam tuy chưa có những trường hợp
ngụy tạo số liệu khoa học được phát hiện, nhưng điều này không có nghĩa không
có những gian lận và giả tạo dữ liệu trong hoạt động khoa học ở nước ta. Trong

những năm gần đây, sự gian dối trong học đường ngày càng gia tăng, ở các lớp
trên xảy ra nặng và nhiều hơn lớp dưới, ở người lớn nghiêm trọng hơn ở thanh
thiếu niên. Các hiện tượng chạy điểm, chạy thầy, quay cóp, mua bán sử dụng
phao thi, v.v… xảy ra hàng năm. Những vụ đạo văn trong khoa học được phát
hiện gần đây ở Việt Nam là một tín hiệu cho thấy những vi phạm về đạo đức khoa
học chắc chắn xảy ra ở nước ta. Những lem nhem về số liệu đã gieo một sự nghi
ngờ của đồng nghiệp quốc tế đến những nghiên cứu về chất độc da cam ở nước ta.
Trung thực và liêm chính là những đặc tính số một trong nghiên cứu khoa
học, và công bố bài báo khoa học cũng như giảng dạy là raisons d'être (lí do để
tồn tại) của nhà khoa học. Nếu thế giới khoa bảng chỉ gồm những người gian trá
và thiếu trung thực thì cái thế giới đó không nên tồn tại. Một nhà khoa học có thể
lừa gạt nhiều người trong một lần, hay lừa gạt một người trong nhiều lần, nhưng
không thể nào lường gạt nhiều người trong nhiều lần. Khoa học là một ngành
nghề được xây dựng và tồn tại dựa trên tinh thần chân thực và liêm chính. Vì thế,
khoa học không thể nào dung túng tình trạng thiếu chân thực và vô liêm chính.
Chúng ta cần phải truy tìm và đào cho tận gốc những gian lận trong khoa
học.
Gian lận trong khoa học xảy ra ở bất cứ nước nào và bất cứ lúc nào. Có
khác chăng là các nước tiên tiến có cơ chế xử lí vấn đề đến nơi đến chốn, và có
nước (chẳng hạn như nước ta) chưa có cơ chế giải quyết các vấn đề vi phạm đạo
đức khoa học, và hệ quả là nhiều vụ việc bị “chìm xuồng”. Nếu trường hợp của
giáo sư Reuben là một kinh nghiệm, tôi nghĩ Việt Nam cần một qui ước về đạo
đức khoa học để ngăn ngừa và giải quyết các trường hợp gian lận trong nghiên
cứu khoa học.

Vài trường hợp giả tạo dữ liệu trong khoa học
Eric Poehlman là cựu giáo sư y khoa, Trường Đại học Vermont (Mĩ, chuyên
nghiên cứu béo phì. Với hơn 200 bài báo khoa học trên các tập san y khoa quốc tế,
ông là một “sao” lớn trong môi trường y khoa. Nhưng ông phạm phải một lỗi tày
trời: ngụy tạo dữ liệu.

Nhưng 10 công trình khoa học và bài giảng trong các hội nghị từ 1992 đến 2002
lại là những tác phẩm khoa học dựa vào số liệu do ông giả tạo để phù hợp với lí
thuyết của mình. Năm 1995, trong một hội nghị y khoa, Poehlman trình bày dữ
liệu mà ông báo cáo là thu thập từ một nghiên cứu đánh giá các đặc điểm về
chuyển hóa năng lượng ở phụ nữ trong thời gian trước và sau mãn kinh. Nhưng
trong thực tế, Poehlman chỉ theo dõi một bệnh nhân duy nhất, phần còn lại là ông
giả tạo số liệu. Ngoài ra, Poehlman còn giả tạo nhiều số liệu trong hơn 10 bài báo
khoa học khác. Chẳng những thế, Poehlman còn ngụy tạo số liệu mà ông cho là
“nghiên cứu sơ bộ” để thu hút tài trợ đến gần 3 triệu USD từ NIH (cơ quan tài trợ
cho phần lớn nghiên cứu y khoa ở Mĩ).
Sau nhiều năm điều tra, Trường đại học quyết định sa thải Poehlman và Nha liêm
chính trong nghiên cứu (ORI) truy tố ông ra tòa. Ngày 28/6/2006, Poehlman bị tòa
xử phạt một năm tù và phải hoàn trả cho Nhà nước 542.000 USD. Đây là trường
hợp nghiêm trọng nhất và lần đầu tiên trong lịch sử khoa học Mỹ một giáo sư gian
lận trong khoa học phải ngồi tù.
Jon Sudbo: mô phỏng số liệu
Năm 2005, Tập san y khoa Lancet (một tập san đứng vào hàng nhất nhì trên thế
giới) công bố một công trình nghiên cứu của bác sĩ Jon Sudbo, chuyên gia về ung
thư thuộc Bệnh viện Radium và Đại học Oslo (Na Uy). Trong bài báo, bác sĩ
Sudbo và 13 cộng sự viên báo cáo rằng họ đã tiến hành một nghiên cứu với 908
đối tượng, và kết quả cho thấy thuốc chống viêm NSAIDs có hiệu quả làm giảm
nguy cơ ung thư miệng. Phát hiện của bác sĩ Sudbo gây sự chú ý lớn của các
chuyên gia trong lĩnh vực ung thư bởi vì các loại thuốc NSAID được sử dụng rất
rộng rãi để giảm đau, nhất là đau thấp khớp, và tương đối rẻ, và nếu quả thật thuốc
có hiệu quả chống ung thư thì đó là một tin vui cho bệnh nhân: một thuốc mà đạt
hai mục tiêu. Sau khi công bố bài báo, Sudbo trở thành nổi tiếng trong giới
chuyên môn về “phát hiện” mà ít ai nghĩ đến đó.
Nhưng nghiên cứu của Sudbo hoàn toàn giả tạo. Sudbo giả tạo tất cả các số liệu
và bệnh nhân. Khi điều tra lại các số liệu gốc (tức cũng giả tạo), người ta mới phát
hiện trong số 908 đối tượng ma này, có đến 250 người có cùng ngày tháng năm

sinh! Tuy nhiên, điều đáng chú ý là trong phân tích, Sudbo đã giả tạo rất tài tình,
không để lộ một kẽ hở nào trong số liệu để người bình duyệt có thể đánh dấu hỏi.
Tổng biên tập tập san Lancet, Richard Horton, phải thú nhận là Sudbo quá thông
minh và tinh xảo đến độ ông có thể qua mặt tất cả 13 cộng sự viên là đồng tác giả
của bài báo, lường gạt tất cả các chuyên gia trong ngành đã bình duyệt bài báo,
lường gạt luôn cả một chuyên gia thống kê học cũng là người bình duyệt bài báo!
Hành động ngụy khoa học của bác sĩ Sudbo chỉ được phát hiện khi một nhà dịch tễ
học người Na Uy chú ý đến đoạn văn mà Sudbo cho biết nguồn bệnh nhân mà ông
nghiên cứu là trích từ một ngân hàng dữ liệu (database) về ung thư thuộc bệnh
viện Radium, bởi vì trong thực tế ngân hàng dữ liệu này không hiện hữu!
Đến nay, bác sĩ Sudbo đã thú nhận rằng ông ngụy tạo hoàn toàn các số liệu trong
bài báo đó bằng máy tính. Sudbo không chú ý đến ngày tháng năm sinh vì nghĩ
rằng không ai đòi hỏi xem số liệu gốc! Sudbo còn thú nhận rằng hai bài báo ông
công bố trước đó trên tập san New England Journal of Medicine và Journal of
Clinical Oncology cũng dựa vào số liệu do ông dựng lên.


×