Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Bao cao tong ket thi hanh Luat nuoi con nuoi nuoc ngoai pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.91 KB, 15 trang )

B/ VỀ NUÔI CON NUÔI CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
I. CÁC MẶT THÀNH CÔNG
Nghị định 68/2002/NĐ-CP ngày 10/07/2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi
hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn nhân gia đình có yếu tố
nước ngoài (sau đây gọi là Nghị định 68/2002/NĐ-CP) là văn bản pháp luật quan trọng
đánh dấu sự thay đổi lớn về cơ chế giải quyết vấn đề nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài.
Trình tự, thủ tục giải quyết cho trẻ em Việt Nam làm con nuôi người nước ngoài theo
Nghị định 68/2002/NĐ-CP, bước đầu đã tiệm cận với cơ chế quốc tế trong lĩnh vực này,
góp phần để các cơ quan nhà nước kiểm soát chặt chẽ hơn việc cho trẻ em làm con nuôi ở
nước ngoài.
Trên cơ sở báo cáo sơ kết của các địa phương và ý kiến đóng góp tại Hội nghị sơ
kết toàn quốc cho thấy việc thực hiện Nghị định 68/2002/NĐ-CP trong thời gian qua đã
có những mặt thành công sau:
1. Tạo ra cơ chế xử lý vấn đề nuôi con nuôi quốc tế minh bạch hơn so với thời
kỳ trước đây
Nghị định 68/2002/NĐ-CP có bước phát triển quan trọng so với Nghị định 184/CP
ngày 30/11/1994 trong việc cải cách cơ chế, quy trình, thủ tục, hồ sơ giấy tờ giải quyết
cho trẻ em làm con nuôi người nước ngoài theo hướng minh bạch hơn, rõ ràng và cụ thể
hơn, cũng như tiệm cận dần với cơ chế quốc tế, bước đầu đáp ứng những nguyên tắc cơ
bản của Công ước Lahay. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, Nghị định 68/2002/NĐ-CP đã tạo ra cơ sở pháp lý quan trọng cho việc
giải quyết cho trẻ em Việt Nam làm con nuôi ở nước ngoài, theo đó chỉ giải quyết cho trẻ
em Việt Nam làm con nuôi ở những nước ký kết với Việt Nam điều ước quốc tế về hợp
tác nuôi con nuôi. Như vậy, cơ sở pháp lý quan trọng để giải quyết vấn đề nuôi con nuôi
quốc tế là điều ước quốc tế giữa Việt Nam và nước ngoài hữu quan. Đối với những nước
chưa ký kết điều ước quốc tế, chỉ giải quyết trong một số trường hợp ngoại lệ có tính
nhân đạo, theo pháp luật Việt nam. Việc giải quyết cho trẻ em làm con nuôi nước ngoài
trên cơ sở các Hiệp định song phương, có thể coi như một bước tập dượt cần thiết trong
tiến trình tham gia Công ước Lahay về nuôi con nuôi.
Thứ hai, Nghị định 68/2002/NĐ-CP quy định trách nhiệm theo dõi, quản lý vấn đề
con nuôi quốc tế cho một cơ quan đầu mối là Cơ quan con nuôi quốc tế của Bộ Tư pháp


1
(tức là Cục Con nuôi). Cơ quan này đồng thời đảm nhiệm chức năng của Cơ quan Trung
ương về con nuôi quốc tế theo các Hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi giữa Việt Nam với
các nước. Với sự thành lập cơ quan này và gắn với trách nhiệm thẩm tra hồ sơ của người
xin nhận con nuôi, đã bước đầu thực hiện trung ương hóa về thủ tục giải quyết cho trẻ em
làm con nuôi người nước ngoài mà trước đây, theo Nghị định 184/CP, tất cả các khâu đều
giao cho Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh (Sở Tư pháp) giải quyết.
Thứ ba, đối tượng trẻ em được cho làm con nuôi người nước ngoài cũng được quy
định rõ ràng hơn, cụ thể hơn và chặt chẽ hơn trước đây (chủ yếu bao gồm trẻ em có hoàn
cảnh đặc biệt từ cơ sở nuôi dưỡng được thành lập hợp pháp). Với sự kiểm tra chặt chẽ
của các cơ quan có thẩm quyền của địa phương và trung ương đối với hồ sơ của trẻ em,
đã dần dần tạo ra sự minh bạch hơn về nguồn gốc của trẻ em. Điều này góp phần hạn chế
một cách đáng kể các hành vi làm sai lệch hồ sơ về nguồn gốc của trẻ em để cho làm con
nuôi người nước ngoài, góp phần bảo vệ tốt hơn quyền của trẻ em. Các thông tin về trẻ
em được theo dõi, quản lý khá thống nhất từ địa phương đến trung ương.
Thứ tư, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan nhà nước ở địa phương với nhau và với
cơ quan trung ương đã được kiện toàn một bước. Nhiều tỉnh đã ban hành Quy chế phối
hợp liên ngành giữa các cơ quan Tư pháp, Lao động - Thương binh và Xã hội, Công an,
Văn phòng Uỷ ban nhân dân tỉnh trong việc giải quyết hồ sơ nuôi con nuôi quốc tế, tạo ra
sự kiểm tra thường xuyên hơn đối với hoạt động nuôi con nuôi quốc tế tại địa phương, có
ý nghĩa tích cực trong việc phòng chống các hành vi vi phạm pháp luật nhằm mục đích
trục lợi.
Đồng thời, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan địa phương và trung ương (thông
qua đầu mối là Cục Con nuôi) đã thúc đẩy công tác quản lý và điều hành thống nhất giữa
trung ương và địa phương, nhằm tháo gỡ kịp thời các vướng mắc trong khâu quản lý,
đảm bảo yêu cầu đối ngoại.
Thứ năm, công tác xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp luật hướng dẫn giải
quyết việc nuôi con nuôi quốc tế đã được Bộ Tư pháp và các Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh
đặc biệt quan tâm. Để hướng dẫn thi hành Nghị định 68/2002/NĐ-CP và Nghị định
69/2006/NĐ-CP, ngày 16 tháng 12 năm 2002 Bộ trưởng Bộ Tư pháp đã ban hành Thông

tư 07/2002/TT-BTP và ngày 08/12/2006 ban hành Thông tư 08/2006/TT-BTP hướng dẫn
thực hiện các quy định về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài. Trong quá trình thực hiện
các văn bản pháp luật này, khi phát sinh những vấn đề bất cập, Bộ Tư pháp đều phối hợp
với các Bộ, ngành hữu quan và chỉ đạo Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh kịp thời xử lý, bảo đảm
chặt chẽ và phúc đáp yêu cầu của thực tiễn đặt ra.
Thứ sáu, cơ chế phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam với các
cơ quan/tổ chức nước ngoài trong quá trình thực hiện Hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi
cũng được cải tiến đáng kể, đặc biệt là với các Đại sứ quán, lãnh sự quán và cơ quan
quản lý nhập cư của các nước, đã tạo điều kiện để nước ta thực hiện được đầy đủ các cam
2
kết theo Hiệp định. Định kỳ hàng năm hoặc 2 năm Nhóm hỗn hợp gồm chuyên gia của
nước ta và các nước ký kết Hiệp định nhóm họp để kiểm điểm tình hình thực hiện Hiệp
định, cùng nhau bàn bạc để tháo gỡ các khó khăn và vướng mắc, nhằm đảm bảo thực thi
nghiêm chỉnh các Hiệp định, tăng cường hợp tác nuôi con nuôi với các nước.
Như vậy, có thể nói rằng Nghị định 68/2002/NĐ-CP (và Nghị định 69/2006/NĐ-
CP) đã tạo ra một cơ chế với nhiều điểm mới so với Nghị định 184/CP trước đây, tạo
thuận lợi hơn cho việc giải quyết vấn đề con nuôi quốc tế. Đây chính là bước chuyển tiếp
quan trọng để chuẩn bị cho việc áp dụng cơ chế xử lý vấn đề nuôi con nuôi quốc tế theo
Công ước Lahay về bảo vệ trẻ em và hợp tác nuôi con nuôi quốc tế mà nước ta đang
chuẩn bị tham gia. Chính cơ chế này đã cho phép tạo ra quy trình, thủ tục minh bạch hơn
trong việc xử lý vấn đề nuôi con nuôi quốc tế.
2. Tìm được mái ấm gia đình thay thế cho nhiều trẻ em
Do đối tượng trẻ đủ điều kiện cho làm con nuôi và thủ tục, trình tự giải quyết được
quy định cụ thể, rõ ràng hơn trong Nghị định 68/2002/NĐ-CP, nên tính đến thời điểm lập
báomcáo này, trong hơn 05 năm qua đã trên 6.000 trẻ em tìm được mái ấm gia đình thay
thế, theo cơ chế kiểm soát chặt chẽ giữa Việt Nam và nước nhận thông qua các Hiệp định
hợp tác về nuôi con nuôi đã được ký kết.
Việc tìm mái ấm gia đình cho các trẻ em nêu trên cũng là đem lại tiếng cười và
niềm hạnh phúc cho nhiều gia đình cha mẹ nuôi, trong đó có một số lượng đáng kể các
gia đình người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Đây là việc làm nhân đạo để tăng cường

hơn nữa sự hợp tác hữu nghị giữa Việt Nam với các nước, thiết lập nên mối quan hệ thân
thiện với các dân tộc trên thế giới và góp phần quan trọng thực hiện chính sách của Đảng
về đại đoàn kết dân tộc đối với người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Qua các báo cáo về tình hình phát triển của trẻ em được cho làm con nuôi ở nước
ngoài và kết quả khảo sát nhiều nước nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi, trực tiếp thăm
hàng trăm gia đình và gặp mặt hàng ngàn trẻ em cùng gia đình cha mẹ nuôi ở các nước
khác nhau, đều thấy rằng con nuôi Việt Nam hội nhập nhanh với môi trường nước nhận,
được chăm sóc chu đáo. Ở nhiều nơi con nuôi Việt Nam đứng đầu lớp về học lực; nhiều
em phát triển được tài năng trong lĩnh vực âm nhạc, thể dục, thể thao, văn hoá, văn nghệ,
tin học. Các gia đình cha mẹ nuôi rất tự hào về con nuôi Việt Nam và họ luôn ý thức
hướng cho trẻ em tìm hiểu về cội nguồn quê hương đất nước, nơi trẻ em sinh ra. Tại
nhiều nước đã lập ra các Hội con nuôi Việt Nam và lớp dạy tiếng Việt cho trẻ em. Nhiều
cháu nói được tiếng Việt và có sự hiểu biết về quê hương đất tổ. Nhiều gia đình đã đưa
con nuôi về Việt Nam thăm lại cơ sở nuôi dưỡng nơi trẻ em đã được chăm sóc, thăm các
danh lam thắng cảnh của Việt Nam. Nhiều gia đình đã lưu giữ ảnh, kỷ vật và đồ lưu niệm
từ Việt Nam để qua đó, giúp cho trẻ em có ý thức về nguồn gốc của mình. Đồng thời,
thông qua hiệp hội nuôi con nuôi và các gia đình xin con nuôi Việt Nam, nhiều gia đình
3
nước ngoài khác cũng muốn đến Việt Nam để xin con nuôi, vì họ cho rằng thủ tục giải
quyết nuôi con nuôi ở Việt Nam không mất nhiều thời gian như ở nhiều nước hiện nay;
các cơ quan nhà nước đều bảo đảm sự thuận lợi, an toàn và họ rất có thiện cảm với trẻ em
Việt Nam.
Cùng với đó, thời gian qua cũng có nhiều trẻ em khuyết tật, tàn tật, bị bệnh hiểm
nghèo, được các tổ chức con nuôi đưa ra nước ngoài chữa trị và sau đó được giải quyết
cho làm con nuôi (thông qua thủ tục tại Đại sứ quán Việt Nam tại nước sở tại). Điều đó
không những đã góp phần giảm bớt chi phí, thời gian cho đương sự, mà còn thể hiện sự
cải cách đáng kể các thủ tục hành chính trong lĩnh vực này.
3. Cải thiện đời sống của trẻ em tại nhiều cơ sở nuôi dưỡng
Một trong những mặt thành công của Nghị định 68/2002/NĐ-CP là đã xoá bỏ cơ
chế cha mẹ nuôi trực tiếp hỗ trợ nhân đạo cho cơ sở nuôi dưỡng (theo Nghị định 184/CP

trước đây), tạo ra cơ chế mới về hỗ trợ của tổ chức con nuôi nước ngoài cho cơ sở nuôi
dưỡng thông qua dự án nhân đạo. Theo thông báo của các địa phương, hiện cả nước có
91/378 cơ sở nuôi dưỡng có quyền cho trẻ em làm con nuôi ở nước ngoài. Đây là những
cơ sở nuôi dưỡng được thành lập hợp pháp, chủ yếu do Sở Lao động Thương binh và Xã
hội (cấp tỉnh) quản lý, là nơi tiếp nhận các dự án hỗ trợ nhân đạo từ các tổ chức con nuôi
nước ngoài. Chỉ có một số ít các cơ sở nuôi dưỡng là Sở Y tế hoặc Phòng Lao động
thương binh và xã hội (cấp huyện) quản lý.
Qua báo cáo của các địa phương và các Văn phòng con nuôi nước ngoài tại Việt
Nam cho thấy, việc thực hiện các dự án hỗ trợ nhân đạo từ hoạt động hợp tác nuôi con
nuôi quốc tế đã tạo điều kiện cho nhiều cơ sở nuôi dưỡng, sau một thời gian đã trở nên
khang trang hơn; điều kiện chăm sóc trẻ em tốt hơn do nhận được nguồn hỗ trợ nhân đạo
từ các tổ chức con nuôi nước ngoài hoạt động tại địa bàn. Mức hỗ trợ nuôi dưỡng trẻ em
nhiều nơi đạt khoảng 1 triệu đồng/1 trẻ/tháng. Nhiều cơ sở nuôi dưỡng có hệ thống cung
cấp nước sạch, trẻ được ăn uống đầy đủ hơn, có các tiện nghi cần thiết để chăm sóc trẻ sơ
sinh. Số lượng các cháu bị bệnh hay bị chết do điều kiện vệ sinh không tốt hay bệnh tật ở
các cơ sở nuôi dưỡng này đã giảm hẳn.
Nhiều địa phương quản lý tương đối chặt chẽ các khoản hỗ trợ nhân đạo, công
khai các khoản thu, khoản chi, hàng năm các khoản hỗ trợ nhân đạo đều được kiểm toán.
Kết quả các đợt kiểm tra, kiểm toán được thông báo cho Cục Con nuôi. Đa số các khoản
hỗ trợ nhân đạo được chi đúng đối tượng, tuân thủ các quy định của pháp luật về tiếp
nhận và sử dụng các khoản hỗ trợ phi chính phủ.
Ngoài ra, nhiều trẻ em tại các cơ sở nuôi dưỡng và ngoài cộng đồng còn được
khám chữa bệnh miễn phí do có sự hỗ trợ từ các tổ chức con nuôi và các tổ chức nhân
đạo nước ngoài khác, được cung cấp thuốc chữa bệnh. Nhiều trẻ tàn tật được cung cấp xe
4
lăn, các dụng cụ thiết yếu cho trẻ tàn tật, trẻ bị bệnh tim được can thiệp kịp thời, chăm
sóc tốt.
Theo báo cáo chưa đầy đủ, từ 2003 - 6/2008, tổng số 69 Văn phòng con nuôi nước
ngoài đã hỗ trợ nhân đạo (bằng tiền và vật chất) cho gần 100 cơ sở nuôi dưỡng khoảng
160 tỷ đồng, trong đó riêng năm 2007 đạt gần 60 tỷ đồng. Các Văn phòng con nuôi nước

ngoài hỗ trợ nhiều, gồm có: Dillon International (Hoa Kỳ): 10,2 tỷ đồng; AC (Thuỵ
điển): 9,8 tỷ đồng; Destinees (Pháp): 9 tỷ đồng; AC (Đan Mạch): 8,9 tỷ đồng; CHI (Hoa
Kỳ): 8,2 tỷ đồng; TDH (Canada): 8,1 tỷ đồng; Comexseo (Pháp): 8 tỷ đồng; NAAA
(Italia): 7,93 tỷ đồng; ODA Marseille (Pháp): 7,8 tỷ đồng; Holt International (Hoa Kỳ):
7,4 tỷ đồng; WCI (Hoa Kỳ): 6,2 tỷ đồng; VORF (Hoa Kỳ): 6 tỷ đồng; Danadopt (Đan
Mạch): 5,32 tỷ đồng); PLAN (Hoa Kỳ): 5 tỷ đồng; PSBI (Hoa Kỳ): 4,5 tỷ đồng; CB
(Canada): 4,4 tỷ đồng; CAA (Hoa Kỳ): 3,9 tỷ đồng; Helping Hand (Ailen): 3,7 tỷ đồng;
IAAP (Hoa Kỳ): 3,1tỷ đồng; Faith International (Hoa Kỳ): 3 tỷ đồng.
4. Cải tiến một bước trình tự, thủ tục giải quyết cho trẻ em làm con nuôi người
nước ngoài
Theo Nghị định 68/2002/NĐ-CP, thì thủ tục trình tự giải quyết việc nuôi con nuôi
quốc tế được cải tiến một bước đáng kể so với Nghị định 184/CP trước đây. Thời hạn giải
quyết việc nuôi con nuôi quốc tế được rút từ 6 tháng trước đây xuống còn 4 tháng; thời
gian xử lý ở từng khâu của các cơ quan liên quan được quy định rõ ràng, hợp lý hơn,
ngắn hơn; các giấy tờ được thiết kế theo mẫu dễ dàng cho việc thực hiện.
Trách nhiệm của các cơ quan nhà nước (Cục Con nuôi, Sở Tư pháp, Công an tỉnh,
Văn phòng Uỷ ban nhân dân tỉnh, Cơ sở nuôi dưỡng) được quy định cụ thể hơn, rõ ràng
hơn ở từng khâu liên quan trong toàn bộ quá trình xử lý hồ sơ của người xin con nuôi và
hồ sơ của trẻ em.
Về phía Cục Con nuôi, thời hạn giải quyết hồ sơ đã được tuân thủ khá tốt, thậm
chí còn được rút ngắn hơn so với luật định. Cục đã phân công, theo dõi và đôn đốc việc
thực hiện của các chuyên viên trong Cục, đồng thời cũng đôn đốc các cơ quan hữu quan
khác ở trung ương và địa phương đảm bảo thời hạn giải quyết. Các giấy tờ trong hồ sơ
của người xin con nuôi được kiểm tra, xem xét kỹ theo quy định pháp luật của nước nhận
và Hiệp định. Các giấy tờ trong hồ sơ của trẻ em cũng được kiểm tra trên cơ sở quy định
của pháp luật Việt Nam. Bất kỳ một nghi vấn nào trong hồ sơ đều được xem xét và yêu
cầu địa phương giải trình.
Ở địa phương tuỵêt đại đa số các Sở Tư pháp đã có bộ phận chuyên trách xử lý về
hồ sơ con nuôi quốc tế (thuộc Phòng Hộ tịch do Giám đốc Sở hoặc Phó Giám đốc Sở trực
tiếp phụ trách); cán bộ tư pháp và cơ sở nuôi dưỡng trẻ em tại địa phương hàng năm đều

được Cục Con nuôi tập huấn về nghiệp vụ.
5
Việc cấp hộ chiếu cho trẻ em xuất cảnh Việt Nam đã được cải tiến một bước. Nếu
trước đây nhiều địa phương giải quyết việc cấp hộ chiếu trong thời hạn 20 ngày, thì gần
đây rút xuống còn 05 ngày. Cục Con nuôi đã phối hợp chặt chẽ với A.18 Bộ Công an để
hướng dẫn cho đương sự về thủ tục xin cấp hộ chiếu cho trẻ em sau khi được giải quyết
cho làm con nuôi, đảm bảo rút ngắn thời hạn cấp hộ chiếu để tạo thuận lợi cho trẻ em
xuất cảnh. Kể cả việc cấp thị thực “nóng” tại cửa khẩu cho một số cha mẹ nuôi người
nước ngoài vì lý do đột xuất cũng đã được quan tâm hơn.
Thời hạn cha mẹ nuôi đến Việt Nam để làm lễ giao nhận con nuôi và làm các thủ
tục khác để đưa con nuôi về nước cũng được rút ngắn đáng kể (khoảng trên dưới 03
tuần), phù hợp với thời gian nghỉ phép của họ. Đây là điều kiện thuận lợi để cha mẹ nuôi
có thể thu xếp công việc đến Việt Nam mà không ảnh hưởng lớn đến công việc làm ăn ở
nước ngoài.
5. Công tác kiểm tra, thanh tra được tăng cường một bước
Công tác kiểm tra, thanh tra là công tác được đặc biệt quan tâm kể từ khi thực hiện
Nghị định 68/2002/NĐ-CP. Công tác này đã góp phần uốn nắn kịp thời những lệch lạc,
xử lý các vi phạm, nâng cao ý thức pháp luật và tinh thần trách nhiệm của những người
hoạt động trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế.
Hàng năm, Bộ Tư pháp đều phối hợp cùng các cơ quan khác ở trung ương như Bộ
Công an, Lao động - Thương binh và Xã hội tiến hành kiểm tra tình hình nuôi con nuôi
quốc tế ở các địa phương. Ngoài ra, các cuộc kiểm tra đột xuất cũng được Cục Con nuôi
tiến hành khi phát hiện có những vấn đề phức tạp phát sinh. Nội dung các cuộc kiểm tra
khá toàn diện, đặc biệt về việc xác minh nguồn gốc trẻ em; việc bảo đảm các thủ tục, hồ
sơ, giấy tờ (nhất là những giấy tờ liên quan đến việc tiếp nhận trẻ em vào cơ sở nuôi
dưỡng); việc sử dụng các khoản hỗ trợ nhân đạo. Ngoài ra, Bộ Tư pháp cũng yêu cầu các
địa phương hàng năm tự tiến hành kiểm tra, xác minh làm rõ các vướng mắc, bất cập, vi
phạm để báo cáo về Bộ xử lý.
Hàng năm, Bộ Tư pháp có kế hoạch kiểm tra định kỳ các Văn phòng con nuôi
nước ngoài trên phạm vi cả nước để kịp thời phát hiện và uốn nắn các lệch lạc, qua đó

thấy được những khó khăn, vướng mắc của các Văn phòng con nuôi nước ngoài để có
giải pháp tháo gỡ. Ngoài ra, các tỉnh cũng đều có kế hoạch tổ chức kiểm tra định kỳ hoạt
động của các cơ sở nuôi dưỡng và hoạt động của Văn phòng con nuôi nước ngoài trên
phạm vi địa bàn tỉnh. Kết quả kiểm tra được thông báo cho Bộ Tư pháp. Thanh tra Bộ Tư
pháp đã phối hợp với các cơ quan chức năng tiến hành thanh tra định kỳ và đột xuất một
số địa phương, nhất là những nơi có dấu hiệu vi phạm hoặc thực hiện chưa tốt pháp luật
về nuôi con nuôi quốc tế.
6
Hoạt động kiểm tra, thanh tra đã góp phần đáng kể trong công tác quản lý, nhất là
việc xử lý, ngăn ngừa các vi phạm trong lĩnh vực giải quyết các vụ việc về nuôi con nuôi
quốc tế trong thời gian qua.
6. Hoạt động hợp tác quốc tế về nuôi con nuôi được mở rộng
Một trong những thay đổi quan trọng của Nghị định 68/2002/NĐ-CP là yêu cầu
hoạt động nuôi con nuôi quốc tế được tiến hành trên cơ sở điều ước quốc tế về hợp tác
nuôi con nuôi giữa Việt Nam và các nước. Nghị định 184/CP trước đây không có yêu cầu
này. Cùng với việc mở rộng ký kết, thực hiện các Hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi,
công tác hợp tác quốc tế về nuôi con nuôi được Bộ Tư pháp đặc biệt quan tâm. Hoạt động
hợp tác về nuôi con nuôi quốc tế được xác định là hoạt động có tính chất nhạy cảm, do
đó, cần bảo đảm phù hợp với đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước
trong lĩnh vực này. Trong các hoạt động đối ngoại, các bên luôn tôn trọng, hiểu biết lẫn
nhau, tuân thủ các nguyên tắc đối ngoại nhà nước và đối ngoại nhân dân.
Với tư cách là Cơ quan trung ương theo các Hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi
quốc tế, Cục Con nuôi - Bộ Tư pháp thường xuyên trao đổi thông tin và phối hợp hoạt
động với Cơ quan trung ương về con nuôi quốc tế của các nước ký kết và các nước hữu
quan khác, kịp thời tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc để triển khai thực hiện tốt các quy
định của Hiệp định và xử lý các vụ việc liên quan đến nuôi con nuôi có yếu tố nước
ngoài.
Việc trao đổi với các Đại sứ quán, Lãnh sự quán tại Việt Nam của các nước ký kết
Hiệp định về các vấn đề nuôi con nuôi cũng được duy trì thường xuyên, kịp thời phối hợp
xử lý các vấn đề tác nghiệp liên quan đến hồ sơ nuôi con nuôi và các thủ tục, trình tự liên

quan đến việc giải quyết nuôi con nuôi. Trong thời gian qua, Cục Con nuôi - Bộ Tư pháp
đã tổ chức 3 cuộc đối thoại trực tiếp tại Hà Nội với các nhân viên lãnh sự của các nước
ký kết để trao đổi về các vấn đề mà phía nước ngoài đặt ra nhằm tháo gỡ các vướng mắc
trong quá trình giải quyết các vấn đề phát sinh trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế.
II. NHỮNG TỒN TẠI, BẤT CẬP
Bên cạnh những thành công như nêu trên, Hội nghị cũng nhận thấy việc thực hiện
các quy định về nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài theo Nghị định 68/2002/NĐ-CP
trong vòng 05 năm qua cho thấy còn có một số tồn tại, bất cập cần tháo gỡ, nhằm đảm
bảo cơ chế nuôi con nuôi quốc tế chặt chẽ hơn và minh bạch hơn như sau:
1. Nhận thức chưa đúng về vấn đề nuôi con nuôi
Mặc dù việc cho trẻ em làm con nuôi người nước ngoài đã tiến hành gần hai chục
năm nay, song trong một số cơ quan nhà nước, kể cả ở Trung ương và địa phương còn có
sự nhận thức chưa đúng về vấn đề nuôi con nuôi nói chung và nuôi con nuôi quốc tế nói
7
riêng; thậm chí còn mơ hồ về tính nhân đạo, nhân văn của lĩnh vực con nuôi quốc tế,
cũng như về các vấn đề pháp lý có liên quan.
Nuôi con nuôi quốc tế là vấn đề nhạy cảm, hệ trọng liên quan đến số phận của
những trẻ em có hoàn cảnh thiệt thòi phải sống xa quê hương, đất nước nơi mình sinh ra,
hậu quả của nó còn kéo dài hàng chục năm sau đó. Vì vậy, trên phương diện pháp luật,
Nhà nước phải xử lý hàng loạt các vấn đề liên quan đến con nuôi, cha mẹ nuôi, cha mẹ
đẻ, những người và tổ chức có liên quan khác và trong đó, quan trọng hơn cả là liên quan
đến quyền và lợi ích của trẻ em.
Một quyết định không được cân nhắc kỹ lưỡng, thiếu chính xác, một hành vi thiếu
tính nhân đạo hoặc trục lợi sẽ gây hậu quả khôn lường không những đối với trẻ em,
người xin con nuôi, tổ chức con nuôi mà thậm chí đến quan hệ giữa nước cho con nuôi và
nước nhận con nuôi. Một nhận thức không đúng về vấn đề nuôi con nuôi có thể dẫn đến
việc một cá nhân có thể góp phần làm sai lệch giấy tờ về nguồn gốc của trẻ, một công
chức nhà nước hoặc một cán bộ có chức quyền ở địa phương có thể tiếp tay cho những
hành vi trục lợi liên quan đến việc đạo diễn cho trẻ em làm con nuôi, xâm hại đến các
quyền và lợi ích cơ bản của trẻ em, gây ra hậu quả khôn lường cho xã hội.

2. Làm sai lệch nguồn gốc trẻ em
Thực tiễn thi hành Nghị định 68/2002/NĐ-CP cho thấy hiện tượng một số địa
phương đã làm sai lệch nguồn gốc của trẻ em để cho làm con nuôi. Việc làm sai lệch
nguồn gốc trẻ em, đã làm ảnh hưởng đến tính trung thực, minh bạch trong hồ sơ giấy tờ
và có thể dẫn đến sự vi phạm các quyền của trẻ em, nhất là trẻ sơ sinh. Qua vụ án đã
được khởi tố tại Nam Định và một số địa phương khác thời gian gần đây đã cho thấy tính
phức tạp trong việc kiểm soát các giấy tờ liên quan đến nguồn gốc đích thực của trẻ em.
Nguyên nhân là do sự buông lỏng quản lý ở các cơ sở nuôi dưỡng, chạy theo lợi ích vật
chất kinh tế trong việc giới thiệu trẻ em làm con nuôi, thậm chí có sự cấu kết giữa cơ sở
nuôi dưỡng và những kẻ môi giới bất hợp pháp bên ngoài để đưa trẻ em từ các nơi khác
về cơ sở nuôi dưỡng và hợp thức hoá bằng hồ sơ trẻ em bị bỏ rơi để cho làm con nuôi
người nước ngoài.
Các cơ quan có thẩm quyền của địa phương, nhất là chính quyền cấp xã, cần tăng
cường kiểm tra, thực hiện đúng các quy định về việc xác định nguồn gốc của trẻ em, nhất
là trẻ bị bỏ rơi, chống mọi biểu hiện làm sai lệch nguồn gốc trẻ em, ngăn ngừa sự cấu kết,
tiếp tay với những người môi giới bất hợp pháp để đưa trẻ em có nguồn gốc không rõ
ràng vào cơ sở nuôi dưỡng để cho làm con nuôi người nước ngoài.
Mặc dù Điều 32 của Nghị định 76/2006/NNĐ-CP ngày 02/8/2006 có quy định xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tư pháp (như hành vi vi phạm của cá nhân trong
việc khai báo gian dối để đăng ký việc cho, nhận con nuôi; tẩy xoá, sửa chữa làm sai lệch
nội dung giấy tờ, lợi dụng giới thiệu trẻ em làm con nuôi nhằm mục đích vụ lợi, làm dịch
8
vụ môi giới cho hoặc nhận con nuôi trái pháp luật), song các quy định này lại ít đi vào
đời sống và không khả thi. Bởi trên thực tế, mức phạt chưa đủ mạnh để răn đe, nên các
sai sót về hồ sơ giấy tờ chỉ được các cơ quan chuyên môn nhắc nhở và chưa xử phạt một
trường hợp vi phạm nào. Nhìn chung, thủ tục phát hiện, xem xét để xử lý các vi phạm
hành chính về lập hồ sơ cho trẻ em, làm giả giấy tờ, tài liệu nhằm mục đích trục lợi còn
chưa có tính khả thi.
3. Chưa bảo đảm ưu tiên việc nuôi con nuôi trong nước trước khi cho trẻ em
làm con nuôi ở nước ngoài

Một trong những hạn chế của pháp luật về hôn nhân gia đình nước ta nói chung và
Nghị định 68/2002/NĐ-CP nói riêng là còn thiếu các quy định đảm bảo sự gắn kết giữa
nuôi con nuôi trong nước và nuôi con nuôi quốc tế theo hướng ưu tiên nuôi con nuôi
trong nước; nuôi con nuôi nước ngoài chỉ được coi là biện pháp thay thế cuối cùng khi
không thể tìm được mái ấm cho trẻ em ở trong nước. Đây là một yêu cầu quan trọng của
Công ước Lahay về bảo vệ trẻ em và hợp tác nuôi con nuôi quốc tế mà Việt Nam đang
chuẩn bị ký. Nhưng hiện nay yêu cầu này chưa được bảo đảm thực thi nghiêm túc ở nước
ta, do còn thiếu các biện pháp kiên quyết và hữu hiệu.
Theo Nghị định 68/2002/NĐ-CP, trước khi giải quyết cho làm con nuôi người
nước ngoài, cơ sở nuôi dưỡng có trách nhiệm thông báo 30 ngày trên phương tiện thông
tin đại chúng cấp tỉnh (trên báo chí, đài phát thanh, truyền hình) về việc tìm mái ấm gia
đình trong nước cho trẻ em. Nhưng trên thực tế, nhiều nơi chỉ làm một cách hình thức,
chiếu lệ, không bảo đảm đích thực của việc tìm mái ấm gia đình trong nước cho trẻ em.
Thậm chí có nơi chỉ nộp giấy xác nhận đã thông báo trên đài phát thanh hoặc trên vô
tuyến truyền hình, còn thực tế có thông báo hay không, lại không có sự kiểm tra.
Ngoài ra, Nghị định 69/2006/NĐ-CP (sửa đổi Nghị định 68/2002/NĐ-CP) cũng
không quy định phải thông báo tìm mái ấm gia đình cho trẻ em mồ côi, trẻ em được cha
mẹ đưa vào cơ sở nuôi dưỡng, do đó, chưa tạo ra sự thống nhất về việc tìm mái ấm gia
đình cho trẻ em nói chung, trước khi giải quyết cho làm con nuôi người nước ngoài.
Như vậy, có thể nói, bản thân pháp luật hiện hành của nước ta về lĩnh vực này
cũng chưa có các quy định nhằm bảo đảm ưu tiên việc nuôi con nuôi trong nước đối với
trẻ em, cho nên các cơ quan nhà nước, các cơ sở nuôi dưỡng trẻ em cũng chưa thực sự
quan tâm đến việc này, mà chỉ chú ý vào việc cho trẻ em làm con nuôi ở nước ngoài.
Tâm lý “hướng ngoại” ấy phần nào còn bị ảnh hưởng bởi những lợi ích vật chất/kinh tế
trong việc cho trẻ em làm con nuôi ở nước ngoài mà chưa chú ý đến việc thu xếp mái ấm
gia đình cho trẻ em ở trong nước.
4. Chưa quản lý chặt chẽ các hoạt động của Văn phòng con nuôi nước ngoài
tại Việt Nam
9
Thời gian qua trên phạm vi cả nước có 69 Văn phòng con nuôi nước ngoài được

cấp phép hoạt động, trong đó 42 văn phòng của Hoa Kỳ. Do pháp luật các nước quy định
khác nhau về quyền và nghĩa vụ của tổ chức con nuôi nước ngoài, nhất là về nguyên tắc
hoạt động (phi lợi nhuận hay lợi nhuận), nên các tổ chức con nuôi nước ngoài đến Việt
Nam hoạt động cũng với các phương thức khác nhau, mặc dù tất cả các tổ chức này chỉ
được hoạt động nhân đạo, phi lợi nhuận tại Việt Nam theo giấy phép của Bộ Tư pháp
cấp.
Các nước ký kết Hiệp định hợp tác về nuôi con nuôi với nước ta, trừ Hoa Kỳ, đều
có Cơ quan trung ương về nuôi con nuôi quốc tế. Việc cho phép tổ chức con nuôi vào
Việt Nam hoạt động là do Cơ quan trung ương nước ngoài hữu quan cấp phép. Trong khi
đó, ở Hoa Kỳ các tổ chức con nuôi Hoa Kỳ là do chính quyền các bang cấp phép và quản
lý (Hoa Kỳ có khoảng 3.000 tổ chức con nuôi). Nhiều tổ chức con nuôi sang Việt Nam
mang tính tự phát, không có sự kiểm soát và giới thiệu của một cơ quan trung ương ở cấp
liên bang. Các tổ chức con nuôi Hoa Kỳ do chính quyền bang cấp phép và quản lý theo
pháp luật của từng bang. Pháp luật về nuôi con nuôi, trình tự cấp phép và quản lý tổ chức
nuôi con nuôi của các bang lại rất khác nhau. Điều này gây không ít khó khăn cho các cơ
quan của nước ta trong việc đánh giá, xem xét cấp phép và quản lý. Khi các tổ chức Hoa
Kỳ vào đã quá nhiều (42) buộc phía Việt Nam phải tạm ngưng (còn rất nhiều tổ chức
muốn vào hoạt động tại Việt Nam). Việc số đông các tổ chức con nuôi vào Việt Nam
hoạt động đã tạo ra sự cạnh tranh với các tổ chức con nuôi của các nước khác và làm cho
tình hình giải quyết việc nuôi con nuôi ngày càng trở nên phức tạp hơn, khó kiểm soát.
Văn phòng con nuôi của các nước hoạt động tại Việt Nam một mặt phải tuân theo
pháp luật Việt Nam, mặt khác phải tuân theo pháp luật của nước nhận. Nhiều nước có các
quy định rất khác nhau về hoạt động của tổ chức con nuôi nước ngoài, nhất là các quy
định về tài chính. Nhiều tổ chức lại có khả năng tài chính mạnh, cơ chế xử lý tài chính
mềm dẻo liên quan đến việc giải quyết nuôi con nuôi quốc tế. Trong nhiều trường hợp họ
dùng tiền mặt để hỗ trợ cơ sở nuôi dưỡng. Trong khi đó các quy định của pháp luật nước
ta về hỗ trợ nhân đạo, quản lý việc tiếp nhận, sử dụng các khoản hỗ trợ nhân đạo còn
thiếu và chưa cụ thể, chưa rõ ràng; không có quy định về việc cấm sử dụng tiền mặt; kỷ
luật tài chính nói chung còn chưa chặt chẽ. Đây chính là những sơ hở, thiếu sót về mặt
pháp lý, nên chưa bảo đảm được sự minh bạch, công khai và sử dụng đúng mục đích các

khoản hỗ trợ nhân đạo.
Trong thực tiễn cả tổ chức con nuôi nước ngoài và các cơ sở nuôi dưỡng đều chưa
thực hiện báo cáo đầy đủ và đúng về các khoản hỗ trợ nhân đạo cho Bộ Tư pháp. Thậm
chí các báo cáo của phía tổ chức con nuôi nước ngoài và phía địa phương Việt Nam rất
khác nhau. Điều này gây rất nhiều khó khăn cho việc quản lý, thống kê, theo dõi các
khoản hỗ trợ nhân đạo và giám sát việc sử dụng các khoản hỗ trợ đó.
10
Theo quy định hiện hành, trách nhiệm kiểm tra, thanh tra việc sử dụng các khoản
hỗ trợ nhân đạo của tổ chức con nuôi nước ngoài cho cơ sở nuôi dưỡng thuộc về các cơ
quan chức năng của tỉnh/thànhphố. Nhưng trên thực tế, hoạt động thanh kiểm tra tài
chính còn rất yếu, chưa được quan tâm đúng mức ở nhiều địa phương. Mặc dù một số địa
phương cũng đã tổ chức kiểm tra định kỳ, song chưa phát hiện ra những sai phạm của các
tổ chức con nuôi nước ngoài.
5. Thủ tục, trình tự giải quyết việc nuôi con nuôi còn bất cập
Mặc dù Nghị định 68/2002/NĐ-CP đã có nhiều cải cách trong trình tự thủ tục giải
quyết việc nuôi con nuôi, song vẫn còn một số tồn tại bất cập cần được khắc phục.
Trước hết đó là sự bất cập về thủ tục giới thiệu trẻ em làm con nuôi. Trên thực tế,
việc quản lý các dữ liệu về trẻ em có đủ điều kiện để giới thiệu làm con nuôi hiện nay là
do cơ sở nuôi dưỡng trực tiếp thực hiện. Mặc dù theo yêu cầu của pháp luật hiện hành,
các cơ sở nuôi dưỡng của địa phương vẫn gửi danh sách trẻ em có đủ điều kiện làm con
nuôi người nước ngoài về Bộ Tư pháp. Nhưng trên thực tế, đó mới thuần túy chỉ là sự
cung cấp danh sách về số lượng và họ tên của trẻ em (danh sách trích ngang), chưa kèm
theo hồ sơ đầy đủ để bảo đảm trẻ em đã có đủ điều kiện để cho làm con nuôi. Đồng thời,
việc gửi danh sách cho Cơ quan Trung ương cũng chỉ là hình thức để thông báo, bởi thực
chất, Cơ quan Trung ương không thực hiện việc giới thiệu trẻ em làm con nuôi, mà các
cơ sở nuôi dưỡng đã phối hợp với các tổ chức con nuôi nước ngoài giới thiệu trẻ em cho
các gia đình xin nhận con nuôi. Quyền giới thiệu trẻ em nào là do cơ sở nuôi dưỡng quyết
định.
Việc kiểm tra hồ sơ của trẻ em được giới thiệu làm con nuôi cũng chỉ được thực
hiện có tính hình thức. Mặc dù trên thực tế, nhiều địa phương giao toàn bộ trách nhiệm

chuẩn bị hồ sơ trẻ em cho cơ sở nuôi dưỡng và chuyển cho Sở Tư pháp kiểm tra, nhưng
Sở Tư pháp cũng chỉ kiểm tra về hình thức, chiếu lệ rồi làm công văn gửi Cục Con nuôi.
Để bảo đảm an toàn về hồ sơ của trẻ em, nhiều địa phương đã chuyển tất cả hồ sơ của trẻ
em cho cơ quan Công an tỉnh xác minh, cho ý kiến. Nhưng trong đại đa số các trường
hợp, cơ quan Công an cũng chỉ cho ý kiến dưới góc độ an ninh, chưa chú ý đến việc xác
minh làm rõ về nguồn gốc thực tế của trẻ em. Sau khi có ý kiến của cơ quan Công an, thì
Sở Tư pháp chuyển hồ sơ cho Cục Con nuôi.
Do có quy định “cắt khúc” về trách nhiệm của các cơ quan như vậy, cho nên nếu
có sai sót về hồ sơ của trẻ em, thì không cơ quan nào chịu trách nhiệm hoàn toàn, mà đều
có sự liên đới.
6. Thiếu sự đồng bộ trong cơ chế phối hợp giữa các cơ quan liên quan
11
Một trong những bất cập của việc thi hành Nghị định 68/2002/NĐ-CP là thiếu sự
đồng bộ trong cơ chế phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc giải quyết hồ sơ
nuôi con nuôi. Ủy ban nhân dân cấp xã nhiều nơi chưa thực hiện đúng các quy định của
Nghị định 158/2005/NĐ-CP về việc lập biên bản về tình trạng trẻ em bị bỏ rơi, mà sau đó
chỉ cử cán bộ ký biên bản cho đủ thủ tục. Trong nhiều trường hợp còn chưa có sự tham
gia của Công an xã. Sự phối hợp giữa các cơ quan thuộc chính quyền địa phương cũng
còn hạn chế. Thậm chí có nơi chính quyền địa phương còn thông đồng với những người
trung gian, môi giới trong việc thu gom trẻ em, làm sai lệch hồ sơ của trẻ em để trục lợi.
Ở các cơ quan cấp tỉnh, nhiều nơi chưa ban hành quy chế phối hợp giữa các cơ
quan tư pháp, công an, lao động thương binh xã hội hoặc tuy có ban hành, nhưng thực tế
chỉ mang tính hình thức. Mối quan hệ giữa Sở Tư pháp và Sở Lao động - Thương binh và
Xã hội ở một số tỉnh còn chưa chặt chẽ. Trong khi Sở LĐTBXH quản lý các vấn đề về
tiếp nhận, nuôi dưỡng, chăm sóc trẻ em, chịu trách nhiệm về “đầu vào, đầu ra” hồ sơ của
trẻ, thì Sở Tư pháp chỉ chịu trách nhiệm về các vấn đề pháp lý trong hồ sơ của trẻ em để
giới thiệu làm con nuôi. Nhiều vấn đề liên quan đến lai lịch, nguồn gốc của trẻ em thì Sở
Tư pháp không thể biết được, nếu không được Sở LĐTBXH hoặc cơ sở nuôi dưỡng cung
cấp đầy đủ và trung thực. Ngoài ra, công tác quản lý của cơ quan cấp tỉnh ở một số địa
phương đối với các cơ sở nuôi dưỡng trẻ em cấp huyện, do cấp huyện thành lập, cũng

còn nhiều sơ hở.
Ở cấp trung ương còn thiếu sự hợp tác thường xuyên và chặt chẽ giữa Bộ Tư pháp
và Bộ LĐTBXH trong việc chỉ đạo các vấn đề liên quan đến chức năng của cả hai bộ
trong lĩnh vực con nuôi quốc tế (như hoạch định chính sách về nuôi con nuôi quốc tế, về
cơ sở bảo trợ xã hội, về các vấn đề liên quan đến quản lý tài chính, hỗ trợ nhân đạo cho
cơ sở nuôi dưỡng trẻ em). Thậm chí, trên một số vấn đề cụ thể, Bộ Lao động Thương
binh và xã hội cho rằng, lĩnh vực con nuôi quốc tế đã được Chính phủ giao cho Bộ Tư
pháp chịu trách nhiệm, nên không có ý kiến.
7. Còn thiếu sự minh bạch trong việc tiếp nhận và sử dụng các khoản hỗ trợ
nhân đạo của tổ chức, cá nhân nước ngoài
Yêu cầu về sự minh bạch tài chính liên quan đến việc tiếp nhận và sử dụng các
khoản hỗ trợ nhân đạo của tổ chức con nuôi nước ngoài cho cơ sở nuôi dưỡng luôn được
các quốc gia đặt ra. Trên thực tế ở nước ta, các khoản hỗ trợ nhân đạo phần lớn là do cơ
sở nuôi dưỡng tiếp nhận và quản lý. Cơ sở nuôi dưỡng sử dụng các khoản hỗ trợ nhân
đạo này và có trách nhiệm báo cáo cơ quan có thẩm quyền của địa phương theo quy định.
Nhưng qua kiểm tra tại một số địa phương cho thấy, cơ chế tiếp nhận, quản lý và sử dụng
các khoản hỗ trợ nhân đạo này khá lỏng lẻo. Phần lớn các khoản hỗ trợ này được thực
hiện bằng tiền mặt, chỉ một số ít các tổ chức thực hiện bằng chuyển khoản. Các báo cáo
của cơ sở nuôi dưỡng về việc sử dụng các khoản hỗ trợ nhân đạo này chưa đầy đủ và
chính xác. Công tác quản lý các tổ chức con nuôi nước ngoài trong công tác hỗ trợ nhân
12
đạo cũng còn nhiều hạn chế. Do đó, cần tạo ra sự minh bạch hoá trong vấn đề này để bảo
đảm việc sử dụng các khoản hỗ trợ nhân đạo đúng mục đích vì lợi ích của trẻ em.
C/ GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC
Sau 5 năm thực hiện pháp luật về nuôi con nuôi nói chung cho thấy, chúng ta đã
thu được nhiều kết quả, song cũng còn nhiều khiếm khuyết, tồn tại. Do đó, cần đề ra các
giải pháp khắc phục để bảo đảm tốt hơn nữa quyền của trẻ em được cho làm con nuôi,
cũng như chuẩn bị tích cực cho việc tham gia Công ước Lahay về bảo vệ trẻ em và hợp
tác nuôi con nuôi quốc tế.
Các giải pháp cơ bản là:

1. Cần tạo ra sự gắn kết/liên thông giữa nuôi con nuôi trong nước và nuôi con
nuôi quốc tế, trong đó ưu tiên tìm mái ấm gia đình trong nước cho trẻ em; việc cho trẻ
em làm con nuôi ở nước ngoài chỉ được coi là giải pháp thay thế cuối cùng, khi không thể
tìm được mái ấm gia đình trong nước cho trẻ em. Muốn vậy, cần tăng cường hơn nữa
công tác xây dựng, hoàn thiện thể chế pháp luật, đồng thời đẩy mạnh công tác tuyên
truyền, phổ biến pháp luật trong nhân dân nhằm nâng cao nhận thức của toàn xã hội về
vấn đề nuôi con nuôi trong nước, từ đó hướng đến mục tiêu bảo vệ, chăm sóc trẻ em. Đây
cũng là yêu cầu có tính nguyên tắc khi chúng ta chuẩn bị tham gia Công ước Lahay về
nuôi con nuôi.
Các cơ quan có thẩm quyền trong nước, nhất là các cơ sở nuôi dưỡng trẻ em, phải
tiến hành tất cả các biện pháp thích hợp để tìm mái ấm gia đình cho trẻ em ở trong nước.
Chỉ sau khi đã chứng minh rằng, không tìm được mái ấm cho trẻ em ở trong nước, thì
mới giải quyết cho trẻ em làm con nuôi người nước ngoài. Các giấy tờ, trình tự, thủ tục
liên quan đến tìm mái ấm cho trẻ em ở trong nước cần được hoàn thiện theo hướng chặt
chẽ hơn, khắt khe hơn với những yêu cầu cao hơn.
Cùng với đó, Bộ Lao động Thương binh và xã hội cần có sự chỉ đạo đối với tất cả
các Ủy ban nhân dân tỉnh để rà soát lại tất cả các cơ sở nuôi dưỡng trẻ em trên toàn quốc,
bảo đảm các cơ sở nuôi dưỡng phải có đủ các điều kiện để tiếp nhận, chăm sóc và nuôi
dưỡng trẻ em theo quy định của pháp luật. Đồng thời, kiên quyết đóng cửa các cơ sở nuôi
dưỡng không đủ điều kiện, hoặc chỉ thành lập ra để nhằm mục đích “thu gom” trẻ em cho
làm con nuôi người nước ngoài, đặc biệt là các cơ sở không phải do ngành Lao động -
Thương binh và Xã hội quản lý.
2. Hoàn thiện cơ chế minh bạch về thủ tục, trình tự giải quyết việc nuôi con
nuôi, nhất là sự minh bạch về các vấn đề tài chính có liên quan đến nuôi con nuôi quốc tế
13
để có thể kiểm soát được từ trung ương xuống địa phương, chống sự lạm dụng vì mục
đích vụ lợi.
Một trong những giải pháp để thực hiện minh bạch về tài chính trong lĩnh vực con
nuôi là cần hoàn thiện các quy định về phí, lệ phí giải quyết việc nuôi con nuôi trên cơ sở
phù hợp với yêu cầu đòi hỏi của Công ước Lahay về nuôi con nuôi mà Việt Nam chuẩn

bị tham gia. Một điều cần lưu ý nữa là, cần tách bạch hai hoạt động hỗ trợ nhân đạo và
giải quyết việc nuôi con nuôi thành hai hoạt động biệt lập, không phải là điều kiện của
nhau trong công tác quản lý. Có như vậy mới có thể kiểm tra, giám sát tốt việc thực hiện
pháp luật về nuôi con nuôi, cũng như theo dõi, kiểm tra việc sử dụng đúng pháp luật các
khoản thu từ phí, lệ phí giải quyết việc nuôi con nuôi trong phạm vi cả nước.
3. Tăng cường vai trò của Cơ quan con nuôi Trung ương
Tăng cường vai trò của Cơ quan Trung ương trong lĩnh vực nuôi con nuôi là hết
sức cần thiết, một mặt, nhằm đáp ứng yêu cầu khi tham gia Công ước Lahay, mặt khác
nhằm tập trung quản lý thống nhất lĩnh vực nuôi con nuôi vào một đầu mối.
Cơ quan con nuôi Trung ương cần được củng cố, tăng cường cả về số lượng và
chất lượng để có thể đảm nhiệm được trọng trách nặng nề hơn trong điều kiện nước ta
tham gia Công ước Lahay. Trong cơ chế xử lý vấn đề nuôi con nuôi, Cơ quan con nuôi
Trung ương phải là đầu mối trong việc tìm mái ấm gia đình cho trẻ em, chịu trách nhiệm
về hồ sơ của cha mẹ nuôi, bảo đảm trẻ em có đủ điều kiện để cho làm con nuôi theo quy
định của pháp luật và đã có sự tự nguyện đồng ý của những người có quyền cho con
nuôi. Trong khuôn khổ Công ước Lahay, Cơ quan Trung ương phải trực tiếp tiến hành
mọi biện pháp thích hợp nhằm: i) cung cấp các thông tin pháp luật, số liệu thống kê và
biểu mẫu chuẩn về nuôi con nuôi; ii) báo cáo về tình hình thực thi Công ước và trong
chừng mực có thể, loại bỏ mọi trở ngại đối với việc thực hiện Công ước. Đây là hai
nhiệm vụ tối quan trọng mà Cơ quan Trung ương phải trực tiếp thực hiện, không được ủy
quyền cho cơ quan nào. Đồng thời, trong khuôn khổ pháp luật nước mình, Cơ quan
Trung ương có trách nhiệm “loại bỏ mọi trở ngại đối với việc thực thi Công ước”. Đây
cũng là công việc nặng nề và phức tạp, đòi hỏi sự cương quyết, nghiêm túc, tinh thần
trách nhiệm cao của bộ máy cán bộ công chức làm việc trong lĩnh vực nuôi con nuôi.
Ngoài ra, Cơ quan con nuôi Trung ương còn có trách nhiệm trực tiếp hoặc phối
hợp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền khác tiến hành mọi biện pháp thích hợp nhằm
ngăn chặn việc thu lợi bất chính liên quan đến nuôi con nuôi hoặc ngăn chặn mọi hành vi
khác trái với mục đích của Công ước. Đây là một nhiệm vụ không đơn giản đối với Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay, khi mà các hoạt động trung gian, môi giới bất hợp pháp,
các hành vi tham nhũng, đưa và nhận hối lộ trong lĩnh vực con nuôi quốc tế diễn ra ngày

càng tinh vi hơn và nghiêm trọng hơn.
14
4. Tăng cường cơ chế phối hợp giữa các cơ quan nhà nước
Tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước ở Trung ương và địa
phương để bảo đảm việc giải quyết cho trẻ em làm con nuôi trong và ngoài nước một
cách chặt chẽ, đúng pháp luật luôn là yêu cầu của bất cứ một sự cải cách nào. Đó là sự
phối hợp giữa các bộ, ban, ngành ở Trung ương từ công tác hoạch định và thực thi chính
sách, pháp luật về nuôi con nuôi, đến việc xử lý từng vụ việc cụ thể. Đồng thời, cũng cần
quy định rõ trách nhiệm cụ thể của từng cơ quan đối với từng khâu trong toàn bộ quy
trình giải quyết, qua đó cũng xác định được rõ hơn sự phối hợp giữa các ngành là để xử
lý vấn đề gì.
Nguyên tắc của sự phối hợp này cần được thể hiện trong dự thảo Luật Nuôi con
nuôi để từ đó xác định một cơ chế xử lý thống nhất, phù hợp với nguyên tắc khi Cơ quan
Trung ương thực hiện thẩm quyền trong khuôn khổ Công ước Lahay, có thể phối hợp với
các cơ quan công quyền để nhằm bảo đảm thực thi Công ước, lọai bỏ mọi trở ngại đối
với việc thực thi Công ước.
5. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra nhằm phát hiện, ngăn chặn kịp thời
những hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực nuôi con nuôi, nhất là lĩnh vực nuôi con
nuôi có yếu tố nước ngoài. Công tác thanh tra, kiểm tra cần được tiến hành thường
xuyên, định kỳ và có trọng tâm, trọng điểm, tránh hình thức, đối phó. Nội dung thanh tra,
kiểm tra cần tập trung vào việc tuân thủ các quy định pháp luật khi lập hồ sơ cho trẻ em
(từ khi được tiếp nhận vào cơ sở nuôi dưỡng đến khi được giới thiệu làm con nuôi); hoạt
động nhân đạo, phi lợi nhuận của các tổ chức con nuôi nước ngoài tại Việt Nam./.
15

×