Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

VỊ TRÍ VĂN HỌC CỦA VUA TRẦN NHÂN TÔNG 2 pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.13 KB, 6 trang )

VỊ TRÍ VĂN HỌC CỦA VUA TRẦN NHÂN TÔNG
2


Ngày nay, ta không biết đích xác vua Trần Nhân Tông đã viết hai tác phẩm ấy vào
thời điểm nào. Nhưng chắc chắn là Đắc thú lâm tuyền thành đạo ca, qua nội dung
của chính nó, phải được vua Trần Nhân Tông viết vào thời gian sau khi đã sống ở
núi Yên Tử, tức sau tháng 8 năm Kỷ Hợi (1299), năm mà ĐVSKTT đã ghi
“Thượng hoàng từ phủ Thiên Trường lại xuất gia vào núi Yên Tử tu khổ hạnh”, vì
bài ca này đã nói tới việc :

Yên bề phận khó
Kiếm chốn dưỡng thân
Khuất tĩnh non cao
Náu mình sơn dã
Vượn mừng hủ hỷ
Làm bạn cùng ta
Vắng vẻ ngàn kia
Thân làm hỷ xả
Đem mình náu tới
Cảnh vắng ngàn kia
Dốc chí tu hành
Giấy sồi bô bả.

Viết như thế này, rất gần với những gì mà Huyền Quang tả về chùa Vân Yên và
cuộc sống của vua Trần Nhân Tông ở đây:

Cảnh tốt hòa lành
Đồ tựa vẽ tranh
Chỉn ấy trời thiêng mẽ khéo
Hèn chi vua Bụt tu hành


Chim óc bạn cắn hoa nâng cúng
Vượn bồng con kề cửa nghe kinh
Nương am vắng Bụt hiện từ bi,
gió hiu hiu mây nhè nhẹ
Kề song thưa thầy ngồi thiền định,
trăng vằng vặc núi xanh xanh
Mặc cà sa, nằm trướng giấy,
màng chi châu đầy lẫm, ngọc đầy rương.
Quên ngọc thực, bỏ hương giao
cắp nạnh cà một vò, tương một hũ
Thầy tu trước đã nên Phật quả
Tiểu tu sau còn vị tỳ kheo.

Còn Cư trần lạc đạo phú, thì thật khó mà xác định vua Trần Nhân Tông đã viết ra
vào lúc nào trong cuộc đời mình.

Có người bảo là nó được viết ra trước lúc vua đi xuất gia, tức trước năm 1299.
Chắc hẳn khi nói thế họ đã dựa vào hai câu mở đầu của bài phú này:

Mình ngồi thành thị
Nết dụng sơn lâm

để khẳng định vua Trần Nhân Tông đang còn sống ở thành Thăng Long, mà lòng
vua đã hoàn toàn an nhàn tự tại như sống ở rừng núi. Nhưng cũng chính trong bài
phú đó ở Hội thứ 5 ta đã gặp :

Thiền ngỏ năm câu, nằm nhãng trong quê Hà Hữu
Kinh xem ba biến, ngồi ngơi mái quốc Tân La
Trong đạo nghĩa, khoáng cơ quan,
đà lọt lẫn trường kinh cửa tổ

Lánh thị phi, ghê thanh sắc,
ngại chơi bời dặm liễu đường hoa
Áo miễn chăn đầm ấm qua mùa,
hoặc chằm hoặc xể
Cơm cùng cháo, đói no đòi bữa, dầu bạc dầu thoa

Viết như thế rõ ràng đây không phải là cuộc sống cung đình thị thành, mà là cuộc
sống dân dã rừng núi. Cho nên, thật khó mà dựa vào nội dung của bài phú này để
xác định thời điểm ra đời của nó. Điều chắc chắn là nó được viết vào lúc vua Trần
Nhân Tông đã có ít nhiều quan tâm đến núi Yên Tử. Ta biết trong Phật giáo đời
Trần, Yên Tử có vị thế trung tâm. Thời ông nội mình là vua Thái Tông đã từng tới
đó. Khi còn trẻ vua Nhân Tông cũng đã có ý định lên sống ở đó. Dẫu sao đi nữa,
chủ trương “Cư trần lạc đạo, Trần tục mà nên” vẫn đóng vai trò mà từ năm 1287,
khi Tuệ Trung Trần Quốc Tung đã ấn chứng cho vua, thì chủ trương đó càng trở
nên rõ rệt. Nói cách khác, thời điểm ra đời của Cư trần lạc đạo phú phải từ sau
năm 1287 trở đi và chắc chắn là sau năm 1288, khi quân thù đã bị quét sạch khỏi
bờ cõi và cả nước đang ra sức lao động để kiến tạo cuộc sống ấm no cho gia đình
và bản thân người dân.

Bộ từ vựng của Cư trần lạc đạo phú gồm cả thảy 1688 hạng từ, kể luôn các tên đầu
đề, tên các hội và bài thơ chữ Hán kết thúc bài phú. Nếu chỉ kể riêng số từ vựng
trong các hội thì nó chỉ gồm 1623 hạng từ, trong đó có những hạng từ Việt xuất
hiện khá nhiều lần như lòng (18 lần), cho (13 lần), chẳng (13 lần), mới (12 lần,
hay 11 lần), Bụt (10 lần).v. v Và số 1623 hạng từ này nếu chúng ta thiết lập một
bản từ gồm những tên người, tên đất, những từ chuyên môn và những từ phiên âm,
chúng ta còn số hạng từ ít hơn nữa, tức khoảng hơn 1400 từ. Chẳng hạn các từ như
Thích Ca, Di Đà, Di Lặc, bát nhã, chiêm bặc, chiên đàn, bồ đề, bồ tát, đàn việt, ưu
đàm, Câu Chi, Diễn Nhã Đạt Đa. Đấy là những từ phiên âm của tiếng Phạn và
chúng ta chỉ có 12 hạng từ thay vì 26 hạng từ khi tách rời chúng ra thành từng
hạng từ một. Các từ chuyên môn như bát phong, bát thức, cực lạc,đại thừa, tiểu

thừa, hữu lậu, kim cương, vô lậu, lục căn, lục tặc, tam độc, tam thân, tam tạng, tam
huyền, tam yếu, tam nghiệp, tịnh độ, thái bình, thượng sĩ, trí tuệ, tri âm, tri thức, tri
kiến, tri cơ, trượng phu, trưởng lão, viên giác, vô thường, vô minh, vô sinh, vô
tâm, vô vi cũng thế. Nếu đưa chúng vào những hạng mục từ, ta chỉ có 32 hạng từ
thay vì có đến 64. Các tên đất, tên người như Yên Tử, Cánh Diều, Hà Hữu, Hùng
Nhĩ, Tân La, Thiên Trúc, Thiếu Lâm, Tào Khê, Thiếu Thất, Lư Lăng, Phá Táo,
Thạch Đầu, Lâm Tế, Bí Ma, Thuyền Tử, Đạo Ngô, Thiều Dương, Triệu Lão,
Thiên Cang, Thái Bạch cũng vậy.

Với số lượng trên dưới 1400 từ này, ta có một bộ từ vựng tương đối phong phú để
nghiên cứu ngôn ngữ của dân tộc ta vào thời vua Trần Nhân Tông. Và đó là chỉ
mới kể số hạng từ có trong Cư trần lạc đạo phú. Nếu gộp luôn số hạng từ của Đắc
thú lâm tuyền thành đạo ca, mà số lượng lên đến 336, trong đó trừ những trùng lặp
đã có đến 238 hạng từ.

Gộp chung lại với Cư trần lạc đạo phú, ta sẽ có một bộ từ vựng với gần 2000 từ,
tức cỡ loại từ điển nhỏ, và cho ta một nhận thức tương đối hoàn chỉnh về ngôn ngữ
dân tộc ta vào thời đại Trần Nhân Tông, tức thế kỷ thứ 13, cách chúng ta gần 700
năm.


Đến đây chúng ta cần phân tích sơ bộ hai tác phẩm viết bằng tiếng Việt của vua
Trần Nhân Tông. Nhưng sự nghiệp văn học của nhà vua không chỉ giới hạn vào
các tác phẩm tiếng Việt. Nhà vua còn là tác giả của 30 bài thơ và đoạn thơ, 22 lá
thư viết cho vua quan nhà Nguyên cùng hai bài giảng ở chùa Sùng Nghiêm và viện
Kỳ Lân. Trong hai bài giảng này cũng có một số bài thơ và đoạn thơ dùng để trả
lời cho các câu hỏi mà người đối thoại đã đặt ra, và vẫn chưa được kê vào số
lượng thơ và đoạn thơ của vua Trần Nhân Tông. Nói thế tức cũng muốn nói số
lượng tác phẩm vua Trần Nhân Tông còn lại cho chúng ta ngày nay không phải là
ít, dù rằng phần lớn chúng đều được viết bằng chữ Hán.


Với sự nghiệp thơ văn chữ Hán của vua Trần Nhân Tông, hầu hết những nhà
nghiên cứu từ trước đến nay đều thống nhất coi vua Trần Nhân Tông là một “tên
tuổi lẫy lừng”trong lãnh vực hoạt động sáng tạo này. Thực tế, đọc các bài thơ chữ
Hán do vua Trần Nhân Tông sáng tác, người ta không thể không cảm nhận những
vẻ đẹp khác nhau của đất nước, từ một buổi chiều làng quê yên tĩnh cạnh nơi ở của
hoàng gia tại phủ Thiên Trường ở đồng bằng sông Hồng :

Xóm trước thôn sau tợ khói nhòa
Nửa không nửa có mé chiều sa
Mục đồng sáo vẳng trâu về hết
Cò trắng từng đôi ruộng xuống sà
(Thôn hậu thôn tiền đạm tợ yên
Bán vô bán hữu tịch dương biên
Mục đồng địch lý quy ngưu tận
Bạch lộ song song phi hạ điền)

cho đến một ngôi chùa tại Lạng Châu thuộc miền trung du Bắc bộ :

Chùa cổ đìu hiu thu khói mờ
Thuyền câu chiều quạnh tiếng chuông đưa
Nước quang non lặng bay âu trắng
Gió đứng mây đùa cây đỏ thưa.
(Cổ tự thê lương thu ái ngoại
Ngư thuyền tiêu sắt mộ chung sơ
Thủy minh sơn tĩnh bạch âu quá
Phong định vân nhàn hồng thụ sơ)

Ngay trong cuộc sống thường nhật, một ánh trăng ban đêm cùng tiếng rơi tí tách
của sương thu trên lá cây trước sân nhà và xa xa tiếng chày nện vải từ một ngôi

làng dệt nào đưa tới đã gợi nên những xao xuyến trong tâm hồn, cảm thấy vẻ đẹp
của một đất nước thanh bình

Đầy sách giường song chếch bóng đèn
Sân thu sương bủa thoáng hơi đêm
Tiếng chày thức dậy đâu không biết
Hoa mộc trên cành trăng mới lên.
(Bán song đăng ảnh mãn sàng thư
Lộ trích thu đình dạ khí hư
Thụy khởi châm thanh vô mịch xứ
Mộc tê hoa thượng nguyệt lai sơ)

×