Tải bản đầy đủ (.docx) (69 trang)

chương v đường lối kinh tế mô hình kinh tế thị trường định hướng xhcn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (633.66 KB, 69 trang )

Tuyển tập tóm tắt môn: Đường lối cách
mạng đảng cộng sản Việt Nam
Chương1: Sự ra đời của đảng
Chương 2: Đường lối đấu tranh giành chính quyền (1930-1945)
Chương 3: Kháng chiến, kiến quốc, chống xâm lăng
Chương 4: Công nghiệp hóa
Chương 5: Đường lối kinh tế: Mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa
- I. Những đột phá trong tư duy về cơ chế quản lý kinh tế của Đảng Cộng sản Việt Nam trước năm 1986
- II. Mô hình kinh tế tổng quát thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- III. Sinh viên với vấn đề kinh tế thị trường và xã hội thị trường
- IV. PHÂN TÍCH MỘT SỐ VẤN ĐỀ CỤ THỂ
- Kết luận
Chương6: Đường lối xây dựng hệ thống chính trị
Chương7: Giải quyết các vấn đề xã hội
Chương 8: Đường lối đối ngoại
Chủ đề 5 (Chương 5): kinh tế
ĐƯỜNG LỐI KINH TẾ: MÔ HÌNH KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH
HƯỚNG XHCN
ĐẶT VẤN ĐỀ
Việt Nam là một nước nghèo, kém phát triển trong khu vực và trên Thế Giới.
Để giúp đất nước ngày càng phát triển hơn và “ sánh vai với các cường quốc” như
Bác Hồ đã căn dặn, đất nước ta cần thực hiện một cuộc cải cách lớn – đi lên chủ
nghĩa xã hội.Đi lên chủ nghĩa xã hội là mục tiêu lý tưởng của những người cộng
sản và nhân dân Việt Nam, là khát vọng ngàn đời thiêng liêng của cả dân tộc Việt
Nam. Nhưng đi lên chủ nghĩa xã hội bằng cách nào ? Đó là câu hỏi lớn và cực kỳ
hệ trọng, muốn trả lời thật không đơn giản. Mà vấn đề trước hết là cải cách, đổi
mới nền kinh tế thị trường . Nước ta đã từng thực hiện mô hình kinh tế tập trung
bao cấp. Mô hình kinh tế ấy đã phát huy những ưu điểm trong thời kì nước ta còn
chiến tranh. Song, nó cũng tồn tại những khuyết điểm mà chúng ta càng dễ nhận
thấy khi bước sang thời bình. Từ đó, Nhà nước ta đã lên kế hoạch và thực hiên


công cuộc đổi mới nền kinh tế thị trường theo hưỡng xã hội chủ nghĩa. Đổi mới là
một công cuộc cải cách mang tính chất chuyển đổi từ một nền kinh tế hoạch hóa
nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lí của nhà nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là một quá trình thay đổi rất cơ bản , sâu sắc với
một khối lượng công việc đồ sộ , phức tạp, mới mẻ và liên quan đến hầu hết các
mặt của hoạt động kinh tế xã hội.
Bài tiểu luận nhìn lại quá trình đổi mới , đánh giá những kết quả đạt được và
những mặt còn tồn tại, những thời cơ và thách thức, từ đó đề ra những phương
hướng và một số giải pháp tiếp tục hoàn thiện và đổi mới cơ chế quản lí kinh tế ở
nước ta.
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Những đột phá trong tư duy về cơ chế quản lý kinh tế của Đảng Cộng sản
Việt Nam trước năm 1986
a. Đặc điểm và khuyết tật của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp
* Đặc điểm của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp:
Nhà nước quản lý nền kinh tế chủ yếu bằng mệnh lệnh hành chính dựa trên hệ
thống chỉ tiêu pháp lệnh chi tiết áp đặt từ trên xuống dưới.
Các cơ quản hành chính can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của
các doanh nghiệp nhưng lại không chịu trách nhiệm gì về vật chất và pháp lý đối
với các quyết định của mình
Quan hệ hàng hóa – tiền tệ bị coi nhẹ, chỉ là hình thức, quan hệ hiện vật là chủ yếu.
Bộ máy quản lý cồng kềnh, nhiều cấp trung gian vừa kém năng động vừa sinh ra
đội ngũ quản lý kém năng lực.
- Nhà nước bao cấp bằng những hình thức:
+ Bao cấp qua giá: Nhà nước quyế định giá trị tài sản, thiết bị, vật tư, hàng hóa
thấp hơn giá trị thực của chúng nhiều lần so với giá thị trường.
+ Bao cấp qua chế độ tem phiếu: Nhà nước quy định chế độ phân phối vật phẩm
tiêu dùng cho cán bộ, công nhân viên, theo định mức qua hình thức tem phiếu. Chế
độ tem phiếu với mức giá khác xa so với giá thị trường đã biến chế độ tiền lương
thành lương hiện vật, thủ tiêu động lực kích thích người lao động và phá vỡ

nguyên tắc phân phối theo lao động.
+ Bao cấp theo chế độ cấp phát vốn của ngân sách, nhưng không có chế tài ràng
buộc trách nhiệm vật chất đối với các đơn vị được cấp vốn. Điều đố làm nảy sinh
cơ chế “xin – cho”.
* Khuyết tật của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp
Cơ chế này trong những thời kỳ nhất định đã tập trung được tối đa các nguồn lực
kinh tế, phát huy được sức mạnh tổng hợp cả nước, phù hợp với điều kiện có chiến
tranh. Bên cạnh đó, còn có những hạn chế:
+ Thủ tiêu cạnh tranh.
+ Kìm hãm tiến bộ khoa học công nghệ.
+ Triệt tiêu động lực kinh tế đối với người lao động.
+ Không kích thích tính năng động, sáng tạo của các đơn vị sản xuất kinh doanh.
b. Những đột phá đầu tiên trong đổi mới tư duy về cơ chế quản lý kinh tế của
Đảng (1979-1986)
Bước 1: Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (8-1979)
Hội nghị phủ định một số yếu tố của thể chế kinh tế tập trung quan liêu bao cấp.
Thừa nhận sự cần thiết phải kết hợp kế hoạch với thị trường (tuy nhiên thị trường
vẫn được coi ở vị trí thứ yếu, bổ sung cho kế hoạch.
Nhận thấy sự cần thiết phải kết hợp nhiều loại lợi ích, huy động vai trò của tiểu
thương, cá thể, tiểu chủ… làm cho sản xuất bung ra.
Như vậy, Hội nghị đã đột phá vào khâu quan trọng nhất của cơ chế kế hoạch hóa
tập trung quan liêu bao cấp: Chế độ công hữu và kế hoạch hóa trực tiếp.
Bước 2: Chỉ thị 100, Quyết định 25 CP, 26CP của Chính phủ (1981)
Nội dung các chỉ thị, quyết định trên là nhằm giải phóng sức sản xuất. Những
điều chỉnh này đã tạo ra hình thái song song tồn tại giữa kinh tế công hữu kế hoạch
hóa với phi công hữu và thị trường tự do. Đây là nét đặc thù từ sau Hội nghị Trung
ương 6. “Cộng sinh” và “xung đột” giữa hai loại cơ chế kinh tế, hai loại thị trường
là đặc trưng cơ bản của thời kỳ manh nha cho sự ra đời của thể chế kinh tế thị
trường định hướng XHCN ở Việt Nam.
Bước 3: Đại hội V của Đảng (1982)

Nhấn mạnh: Xác lập chế độ quản lý và kế hoạch hóa đúng đắn, đổi mới chế độ quản
lý và kế hoạch hiện hành. Xóa bỏ cơ chế hành chính quan liêu bao cấp.
Về kế hoạch hóa nền kinh tế, kế hoạch phải thấu suốt nguyên tắc hạch toán kinh
doanh XHCN.
Để chấn chỉnh và phát huy tốt vai trò của phân phối lưu thông, Đại hội chủ trương
kết hợp chặt chẽ cả ba biện pháp quản lý: Kinh tế, hành chính, giáo dục, trong đó
biện pháp kinh tế là gốc. Như vậy, Đảng đã nhận thức được vai trò của các biện
pháp kinh tế, của các động lực kinh tế, thay vì đề cao, tuyệt đối hóa các biện pháp
hành chính mệnh lệnh như trước đây.
Bước 4: Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (6-1985)
Chủ trương xóa bỏ cơ chế bao cấp, thực hiện cơ chế một giá, chuyển sang hạch
toán kinh doanh XHCN, thừa nhận quy luật của sản xuất hàng hóa.
Đề cập ba nội dung quan trọng của cái cách: Giá cả, tiền lương, tiền tệ (giá – lương
– tiền).
+Giá cả: Thực hiện cơ chế một giá thống nhất và đánh giá đúng, đủ chi phí cho
giá thành sản phẩm.
+Tiền lương: Xóa bỏ chế độ tiền lương hiện vật, thực hiện tiền lương tiền tệ gắn
với xóa bỏ bao cấp. Chế độ tiền lương phải đảm bảo cho người lao động tái tạo sức
lao động và gắn với chất lượng và hiệu quả lao động.
+Tiền tệ: Đổi mới lưu thông tiền tệ; thu hút tiền nhàn rỗi; đẩy nhanh nhịp độ
quay vòng đồng tiên; chuyển ngân hàng sang hạch toán kinh doanh XHCN.
Đề cập đến sự cần thiết phải đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, Đại hội VI khẳng
định: “Việc bố trí lại cơ cấu kinh tế phải đi đôi với đổi mới cơ chế quản lý kinh
tế ” Chính vì vậy, việc đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trở thành nhu cầu cấp thiết
và cấp bách.
II. Mô hình kinh tế tổng quát thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
1. Lịch sử sự ra đời
*Thách thức mà nền kinh tế Việt Nam phải đối mặt và sự thay đổi tư duy kinh tế
của Đảng Cộng Sản Việt Nam trước đại hội lần thứ VI (12-1986).
Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1954, miền Bắc Việt Nam bước vào thời kì

cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Lúc này, hệ thống xã hội chủ nghĩa đang đạt
được những thành tựu về nhiều mặt. Mặc dù lúc bấy giờ có một số nhà kinh tế học
phương Tây đã phê phán mạnh mẽ mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung, song ở
Việt Nam, nền kinh tế ấy trên thực tế đã phát huy tác dụng tích cực trong hai cuộc
kháng chiến chống xâm lược Pháp và Mỹ.
Khi cả nước thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội (sau tháng 4 năm 1975), nền
kinh tế theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung không những không phát huy được vai
trò thúc đẩy tăng trưởng mà ngược lại, bộc lộ những nhược điểm trầm trọng. Theo
ước tính vào những năm 80 của thế kỉ XX, cứ 10 dân Việt Nam thì có 7 người
sống trong tình trạng nghèo đói. Tình hình đó đã khiến cho đời sống mọi tầng lớp
dân cư trong xã hội hết sức khó khăn. Tác giả bài viết “Việt Nam – Nửa chặng
đường từ đói nghèo đến giàu mạnh” đã nhận xét rằng: “Trong giữa những năm
1980, với chính sách tập thể hoá nông nghiệp sai lầm khủng khiếp, Việt Nam đã ở
bên bờ vực của nghèo đói”. Hơn nữa, cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội diễn ra
vào cuối thập niên 70 đã trở nên trầm trọng vào giữa thập niên 80 của thế kỉ trước.
Trước tình hình đó, yêu cầu cấp bách phải thay đổi đường lối phát triển kinh tế
được đặt ra cho Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Đầu tiên, khuynh hướng “phá rào” đã diễn ra ở Hợp tác xã Đoàn Xá (Huyện
Kiến Thụy, Hải Phòng), sau đó được nhân rộng ra toàn Huyện. “ Khoán chui” đã
xuất hiện và những điều tưởng như đi ngược lai nguyên tắc xây dựng chủ nghĩa xã
hội ấy lại trở thành luận cứ thực tiễn để Đảng Cộng Sản Việt Nam điều chỉnh
những yếu tố bất cập trong Lãnh đạo thực hiện cơ chế quản lý kinh tế. Và từ đó,
Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng (13-1-1981) Về khoán sản phẩm đến
nhóm và người lao động trong các hợp tác xã nông nghiệp (thường gọi là khoán
100) ra đời. Khoán 100 đã tạo đà cho sản xuất nông nghiệp phát triển: sản lượng
lương thực đã tăng từ 14,4 triệu tấn năm 1980 lên 15 triệu tấn năm 1981 và 16,8
triệu tấn năm 1982…
Trên lĩnh vực công nghiệp, Chính phủ ban hành quyết định số 25-CP (21-1-
1981) về một số chủ trương và biện pháp nhằm tiếp tục phát huy quyền chủ động
sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ tài chính của các xí nghiệp quốc doanh… Đặc

biệt, tại Đại hội V (3-1982), Đảng đã xác định: “cần tập trung sức phát triển mạnh
nông nghiệp, coi nong nghiệp là mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp một bước lên
sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, ra sức đẩy mạnh sản xuất hàng tiêu dùng và tiếp tục
xây dựng một số ngành công nghiệp nặng quan trọng; kết hợp nông nghiệp, công
nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp nặng trong một cơ cấu công - nông nghiệp
hợp lý”
Mặc dù những chủ trương và chính sách “cởi mở” trong khuôn khổ cơ chế
quản lý kinh tế kế hoạch hóa tập trung nêu trên vẫn không giải quyết được một
cách cơ bản những khó khăn của đất nước, sản xuất vẫn không đủ cho tiêu dùng
thiết yếu Nhưng nó cũng đã cho thấy sự cần thiết phải thay đổi cơ chế quản lý
kinh tế cũ, xác lập cơ chế quản lý kinh tế mới. Trong Báo cáo của Bộ Chính trị đã
viết: “Quan liêu bao cấp là căn bệnh của toàn bộ cơ chế quản lý kinh tế hiện nay.
Cho nên, lúc này xóa quan liêu bao cấp trong giá –lương- tiền là yêu cầu hết sức
cấp bách, là khâu đột phá có tính quyết định để đẩy mạnh sản xuất, làm chủ thị
trường, ổn định và cải thiện một bước đời sống của nhân dân, thay đổi toàn bộ cơ
chế quản lý nền kinh tế quốc dân.”
Dù gặp phải những đối lập giữa hai khuynh hướng, ngày 20-9-1986, Hội
nghi Bộ Chính trị đã đưa ra Kết luận về một số vấn đề kinh tế. Về cơ cấu kinh tế,
Bộ khẳng định một nền kinh tế có cơ cấu hợp lý mới phát triển ổn định. Sau nhiều
sai lầm, khuyết điểm, trong 5 năm từ 1986-1990 phải kiên quyết điều chỉnh lớn
phương án bố trí cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư… Về cơ chế quản lý kinh tế, Bộ
Chính trị khẳng định phải xóa bỏ tập trung quan liêu, bao cấp, chuyển hẳn sang
hoạch toán kinh tế, kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Thay đổi cơ cấu nền kinh tế, cách
thức tổ chức, quản lý, phương thức phân phối sản phẩm theo hướng tăng chủ động
cho cơ sở, gắn trách nhiệm của người lao động với hiệu quả sản xuất, kinh doanh.
Nội dung chủ yếu trong kết luận của Bộ chính trị là:
- Đổi mới kế hoạch hóa trên cơ sở vận dụng đúng đắn hệ thống các quy luật kinh
tế, phát huy vai trog chủ đạo của các quy luật đặc thù của chủ nghĩa xã hội, đồng
thời sử dụng đúng đắn các quy luật vận động của quan hệ hàng hóa-tiền tệ…
- Bảo đảm cho các đơn vị kinh tế xã hội chủ nghĩa có quyền tự chủ sản xuất, kinh

doanh, thực hiện đúng hoạch toán kinh tế, tự tạo vốn và hoàn vốn, tự chịu trách
nhiệm về kết quả sản xuất, kinh doanh của mình…
- Chấn chỉnh và kiện toàn tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ quản lý theo yêu cầu
của cơ chế mới, trên cơ sở phân biệt rõ chức năng quản lý hành chính – kinh tế của
cơ quan nhà nước và chức năng quản lý sản xuất – kinh doanh của các tổ chức, đơn
vị kinh tế, phân cấp quản lý theo nguyên tắc tập trung dân chủ.
* Những thay đổi mang tính đột phá đầu tiên: Xóa bỏ cơ chế kế hoạch hóa tập
trung – thừa nhận cơ chế thị trường
Đại hội lần thứ VI, Đảng cộng sản Việt Nam đã thừa nhận nền sản xuất hàng
hóa, tức là thừa nhận cơ chế thị trường, nhưng chưa coi nền kinh tế Việt Nam là
kinh tế thị trường Sau hơn hai năm thực hiện nghị quyết đại hội VI (12-1986 đến
3-1989) đã nảy sinh nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn cần giải quyết. Sự không
thống nhất trong nhận thức về kinh tế thị trường ở Việt Nam, và tiếp theo là sự
lung túng trong việc thực hiện đường lối kinh tế mới ở Đảng. Mặt khác, những tác
động từ sự khủng hoảng của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác đã tạo nên
tâm lý bất lợi ở một bộ phận cán bộ và nhân dân. Trong bối cảnh đó, Hội nghị
Trung ương Đảng lần thứ Sáu ra Nghị quyết 06-NQ/TW (29-3-1989) Kiểm điểm
hai năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VI và phương hướng, nhiệm vụ ba năm
tới…
Trên lĩnh vực kinh tế, Nghị quyết nhấn mạnh:
Một, “Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, chuyển mạnh các đơn vị kinh tế sang hoạch
toán kinh doanh theo quan điểm phát triển nền kinh tế hàng hóa có kế hoạch gồm
nhiều thành phần đi lên chủ nghĩa xã hội”
Hai, Trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, thị trường xã hội (bao gồm cả
thị trường hàng tiêu dùng, thị trường vật tư, thị trương dịch vụ, thị trường vốn và
chứng khoán) là một thể thống nhất với nhiều lực lượng khác nhau tham gia lưu
thông hàng hóa… Thị trường thông suốt trong cả nước và gắn với thị trường thế
giới…
Bằng việc lần đầu tiên đưa ra quan điểm vè một thị trường xã hội thống
nhất; trong nền kinh tế hàng hóa có kế hoạch, thị trường vừa là một căn cứ, vừa là

một đối tượng của kế hoạch, và việc chấp nhận giá cả trong nước phải gắn liền với
giá cả trên thị trường quốc tế., Nghị quyết Trung ương Sáu đã thể hiện một bước
tiến mới trong tư duy của Đảng về kinh tế thị trường
Năm 1991, Đại hội Đảng lần thứ VII thông qua Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã tiếp tục bổ sung lý luận về kinh
tế hàng hóa:
Một, đưa ra chủ trương ”phát triển một nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo
định hướng xã hội chủ nghĩa “bổ sung lý luận về kinh tế hàng hóa trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội cả về lý luận và thực tiễn
Hai, “Xóa bỏ triệt để cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, hình thành cơ chế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các
công cụ khác….”
Mặc dù vào thời điểm này. Nền kinh tế thị trường chưa chính thức được thừa
nhận nhưng đã được đề cập nhằm mục đích sử dụng mặt tích cực của nó phục vụ
mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Theo đó, kinh tế thị trường là công cụ, phương tiện
để phục vụ mục tiêu làm cho mọi người mọi nhà đều khác giả và xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
*Bước phát triển tiếp theo – Xác định nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa
Từ nhận thức về kinh tế thị trường sau 15 năm đổi mới, Đại hội Đảng lần
thứ IX (2001) đã chính thức xác định nền kinh tế Việt Nam là “nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩacó nhiều thành phần kinh tế,
nhiều hình thức sở hữu, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà
ước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh
tế. Từ nay không phải là “cho phép” các thành phần đó tồn tại hay không, mà tất
yếu tồn tại như một khách quan.
Đại hội xác định mô hình kinh tế tổng quát trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội là “thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển kinh tế hàng
hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường của nhà nước theo định

hướng xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, đến Đại hội Đảng lần thứ IX, trên lĩnh vực kinh tế “về cơ bản Việt
Nam đã tạo dựng được khung thể chế kinh tế thịt rường và tiêp tục hoàn thiện các
kỹ năng để vận hành nó ngày càng tốt hơn…”
*Hoàn thiệu, củng có thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Đại hội lần thứu X của Đảng (2006) đã đề ra chủ trương tiếp tục hoàn thiện
với nội dung cơ bản:
Một, nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường, thực
hiện mục tiêu: “dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” nâng
cao đời sống nhân dân, xóa đói giảm nghèo, phát huy quyền làm chủ….
Hai, nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của nhà nước thông qua việc thực hiện tốt
các chức năng chủ yếu như: định hướng sự phát triển bằng các chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch và cơ chế, thực hiện quản lý nhà nước bằng hệ thống pháp luật…
Ba, phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vân hành các loại thị trường cơ
bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh
Bốn, phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình sản xuất kinh doanh…
Nhìn tổng quát, từ Đại hội thứ VI (1986) đến Hội nghi trung ương lần thứ
sáu, khóa X (1-2008), tư duy của Đảng về kinh tế thị trường ngày càng phát triển,
hoàn thiện và được hiện thực hóa trong thực tiễn cuộc sống “đã chuyển đổi thành
công từ thể chế kinh tế kế hoạch hóa tạp trung quan liêu bao cấp sang thể chế kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
2. Đặc điểm cơ bản
Đại hội IX của Đảng tháng 4-2001 xác định:Kinh tế thị trường định hướng
XHXN là mô hình kinh tế tổng quát của thời kỳ quá độ lên CNXH.Đây là bước
chuyển quan trọng từ nhận thức kinh tế thị trường như một công cụ, cơ chế quản lý
đến nhận thức coi kinh tế thị trường như một chỉnh thể, là cơ sở kinh tế cuả sự phát
triển theo định hướng XHCH.
Vậy thế nào là kinh tế thị trường định hướng XHCN? Quan điểm của
ĐCSVN trong Đại hội IX về kinh tế thị trường định hướng XHCN: Kinh tế thị
trường định hướng XHCN là nền kinh tế hang hóa nhiều thành phần vận hành theo

cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Đây là
“một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa
trên cơ sở và chịu sự dẫn dắt chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của CNXH”.
Trong nền kinh tế đó các thế mạnh của “thị trường” được dung để “phát triển lực
lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật của CNXH,
nâng cao đời sống nhân dân”; còn tính “định hướng XHCN” được thể hiện trên cả
ba mặt của quan hệ sản xuất: sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối, nhằm mục đích
cuối cùng là “dân giàu, nước mạnh, tiến lên hiện đại trong một xã hội do nhân dân
làm chủ, nhân ái, có văn hóa, có kỷ cương, xóa bỏ áp bức và bất công, tạo điều
kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc”.
Nói đến kinh tế thị trường định hướng XHCN thì trước hết đó không phải là kinh
tế kế hoạch hóa tập trung, cũng không phải kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa và
cũng chưa hoàn toàn là kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa, vì chưa có đầy đủ các
yếu tố xã hội chue nghĩa. Tính “định hướng XHCN” làm cho mô hình kinh tế thị
trường ở nước ta khác với kinh tế thị trường TBCN
Đại hội lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 2006) đề ra chủ trương tiếp
tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa với các nội dung cơ bản
sau:
Một là nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường, là
nhằm thực hiện các mục đích cơ bản: :dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh”; nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo;
khuyến khích mọi người vươn lê làm giàu chính đáng; thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh
tế đi đôi với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục; phát huy quyền làm chủ xã hội của
nhân dân…
Hai, nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý nhà nước thong qua việc thực hiện tốt các
chức năng chủ yếu như: định hướng sự phát triển bằng các chiến lược, quy hoạch,
kế hoạch và cơ chế, chính sách trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc của thị trường;
thực hiện quản lý nhà nước bằng hệ thống pháp luật, giảm ttoois đa sự can thiệp
bằng hành chính vào hoạt động của thị trường và doanh nghiệp…

Ba là phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị trường cơ
bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh: phát triển thị trường hang hóa và dịch vụ;
phát triển vững chắc thị trường tài chính; phát triển thị trường bất động sản; phát
triển thị trường sức lao động trong mọi lĩnh vực kinh tế; phát triển thị trường khoa
học và công nghệ.
Bốn , phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình sản xuất kinh doanh.
Trong đó khẳng định “Trên cơ sở ba chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân),
kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài”.
Ngày 30-1-2009, Hội nghị Trung ương lần thứ Sáu (khóa X) ban hành Nghị quyết
Về tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
đề ra mục tiêu tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường,với các nội dung cụ
thể: đến năm 2010, từng bước xây dựng hệ thống pháp luật; phát huy vai trò chủ
đạo của kinh tế nhà nước đi đôi với phát triển mạnh mẽ các thành phần kinh tế và
các loại hình doanh nghiệp; hình thành một số tập đoàn kinh tế, các tổng công ty
đa sở hữu, áp dụng mô ình quản trị hiện đại, có năng lực cạnh tranh quốc tế; đổi
mới cơ bản mô hình tổ chức và phương thức hoạt động của các đơn vị sự nghiệp
công; phát triển đồng bộ, đa dạng các loại thị trường; giải quyết tốt hơn mối quan
hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa, môi trường; nâng cao hơn hiệu lực,
hiệu quả quản lý của Nhà nước. vai trò của Mặt trận Tổ quốc và nhân dân.
Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ Sáu (khóa X) đề ra quan điểm hoàn thiệ thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là, nhận thức đầy đủ, tôn trọng
và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của kinh tế thị trường, thông lệ
quốc tế, phù hợp với điều kiện phát triển của Việt Nam; đảm bảo định hướng xã
hội chủ nghĩa của nền kinh tế; giữa thể chế kinh tế với thể chế chính trị, xã hội;
giữa Nhà nước, thị trường và xã hội.Gắn kết hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với
tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển văn hóa và bảo vệ môi trường; kế thừa có
chọn lọc thành tựu phát trieent kinh tế thị trường của nhân loại và kinh nghiệm
tổng kết từ thực tiễn đổi mới ở Việt Nam; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế
quốc tế, đông thời đẩm bảo giữ vững độc lâp, chủ quyền quốc gia, giữ vững an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu

quả quản lý của Nhà nước, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong quá
trình hoàn thiện thêt chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nghị
quyết củng đưa ra 5 chủ trương và giải pháp tiếp tục hoàn thiện thê chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa: thống nhất nhận thức về nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa; hoàn thiện cả thể chế đảm bảo đồng bộ các
yếu tố thị trường và phát triển đồng bộ các loại thị trường; hoàn thiện thể chê gắn
kết tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính
sách phát triển và bảo vệ môi trường; hoàn thiện thể chế gắn kết tăng trưởng kinh
tế với tiến bộ, công bằng xãhôi trong từng bước, từng chính sách phát triển và bảo
vệ môi trường; hoàn thiện thể chế nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng. hiệu quả,
hiệu lự quản lý của Nhà nước về kinh tế, tăng cường tham gia các tổ chứ chính trị-
xã hội, các tổ chức xã hội, nghề nghiệp và của nhân dân vào quá trình phát triển
kinh tế - xã hội. Nhìn tổng quát, từ Đại hội lần thứ VI (1986), đến Hội nghị Trung
ương lần thứ Sáu, khóa X (1 -2008), tư duy của Đảng cộng sản Việt Nam về kinh
tế thị trường ngày càng phát triển, hoàn thiện và được thực hiện hóa trong thực tiễn
cuộc sống “đã chuyển đổi thành công từ thể chế kinh tế kế hoạch hóa tập trug quan
lieu, bao cấp sang thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
5 tiêu chí thể hiện “định hướng xã hội chủ nghĩa” trong phát triển kinh tế
thị trường Việt Nam:
Mục tiêu:
Kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta nhằm thực hiện “dân giàu, nước
mạnh, dân chue, công bằng, văn minh”, giải phóng mạnh mẽ lực lượng sản xuất
và không ngừng nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo,
khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thoát
nghèo và từng bước khá giả hơn.
Mục đích:
Mục tiêu trên thể hiện rõ mục đích phát triển: vì con người, giải phóng LLSX, phát
triển kinh tế để nâng cao đời sống cho mọi người, mọi người đều được hưởng
những thành quả của phát triển. Mục đích của kinh tế thị trường định hướng
XHCN thể hiện sự khác biệt với mục đích tất cả vì lợi nhuận phục vụ lơi ích của

các nhà tư bản, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa tư bản.
Phương hướng phát triển:
Phát triển nền kinh kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế nhằm
giải phóng mọi tiềm năng trong mọi thành phần kinh tế, trong mỗi cá nhân và mọi
vùng miền….phát huy tối đa nội lực để phát triển nhanh nền kinh tế.
Trong nền kinh tế nhiều thành phần, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là công
cụ chủ yếu để nhà nước điều tiết nền kinh tế, định hướng cho sự phát triển vì mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Để giữ vai trò chủ đạo,
kinh tế nhà nước phải nắm được vị trí then chốt của nền kinh tế bằng trình độ khoa
học, công nghệ tiên tiến, hiệu quả sản xuất kinh doanh cao chứ không phải dựa vào
bao cấp, vào cơ chế xin – cho hay độc quyền kinh doanh.
Mặt khác, tiến lên CNXH đặt ra yêu cầu nền kinh tế phải được dựa trên nền tảng
của sở hữu toàn dân về các tư liệu sản xuất chủ yếu.
Định hướng xã hội và phân phối:
Xã hội: thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính
sách phát triển; Tăng trưởng kinh tế gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với phát triển xã
hội, văn hóa, giáo dục và đào tạo, giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát
triển con người. Hạn chế tác động tiêu cực của nền kinh tế thị trường.
Phân phối: định hướng XHCN được thể hiện qua chế độ phân phối chủ yếu theo
két quả lao động, hiệu quả kinh tế, hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội. Đồng
thời, để huy động mọi nguồn lực kinh tế cho sự phát triển, đường lối của Đảng là
phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác.
Quản lý:
Phát huy vai trò làm chủ xã hội của nhân dân, đảm bảo vai trò quản lý, điều tiết
nền kinh tế của nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tiêu chí
này nhằm phát huy mặt tích cực của kinh tế thị trường, đảm bảo quyền lợi chính
đáng của mọi người.
Sau hơn 20 năm đồi mới và 10 năm thực hiện chiến lược 2001 – 2010: Chúng ta đã
đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng, đất nước đã ra khỏi tình trạng
nước kém phát triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình.

*Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng ngành công
nghiệp và xây dựng trong cơ cấu GDP tăng.
* Thể chế kinh tế thị trường từng bước được hình thành và hoàn thiện.
*Các lĩnh vực văn hóa , xã hội đạt dược thành tựu quan trọng trên nhiều mặt,
nhất là xóa đói giảm nghèo. Đời sống vật chất và tinh thần của người dân được nần
lên.
*Kinh tế cĩ mô cơ bản ổn định, một số cân đối lớn của nền kinh tế (ngân sách
Nhà nước, cán cân thanh toán tổng thể, nợ quốc gia và dự trữ ngoại tệ,…) cơ bản
được đảm bảo.
* Tỷ lệ hộ nghèo giảm, thu nhập tăng lên.
* Phúc lợi xã hội và hệ thống an sinh xã hội được chú trọng và từng bước mở
rộng.
* Vốn đầu tư toàn xã hội tăng cao,năng lực sản xuất nhiều ngành kinh tế đáng
kể.
* Hiệu lực, hiệu quả quản lý Nhà nước được nâng lên; cải cách hành chính và
phòng chóng tham nhũng được đẩy mạnh.
*Thế và lực của nước ta vững mạnh thêm nhiều, vị thế của Việt Nam trên
trường quốc tế được nâng cao.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, vẫn còn một số hạn chế như:
+Quá trình xây dựng, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường dịnh hướng XHCN
còn chậm, chưa theo kịp yêu cầu của công cuộc đổi mới toàn diện và chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế. Hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách chưa đầy đủ, đồng bộ
và thống nhất.
+Vấn đề sở hữu, quản lý và phân phối trong doanh nghiệp nhà nước chưa giải
quyết tốt, gây khó khăn cho sự phát triển và làm thất thoát tài sản nhà nước, nhất
là khi cổ phần hóa. Doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác còn bị phân
biệt đối xử. Việc xử lý các vấn đề lien quan đến đất đai còn nhiều vướng mắc Các
yếu tố thị trường và các loại thị trường hình thành, phát triển chậm,thiếu đồng bộ,
vận hành chưa thông suốt. Thị trường tài chính, bất động sản, khoa học và công
nghệ phát triển chậm; quản lý nhà nước đối với các loại thị trường còn nhiều bất

cập. Phân bổ nguồn nhân lực quốc gia chưa hợp lý. Cơ chế “xin –cho” chưa được
xóa bỏ triệt để. Chính sách tiền lương còn mang tính bình quân.
+ Điều hết sức đáng quan tâm là những yếu tố bảo đảm định hướng XHCN của
nền kinh tế chưa được tăng cường, còn nhiều hạn chế, yếu kém.
3. Ý nghĩa
-Sự lựa chọn mô hình phát triển “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”
là sự khẳng định quyết tâm khắc phục triệt để hệ thống kế hoạch hóa tập trung
(đồng nghĩa với nền kinh tết phi thị trường và lạc hậu). để xây dựng hệ thống kinh
tế thị trường phát triển (kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa).
-Đây là sự tiếp thu có chọn lọc thành tựu và văn minh nhân loại, nhằm phát huy
những thế mạnh của kinh tế thị trường, chủ động hướng kinh tế thị trường phục vụ
cho việc nâng cao đời sống nhân dân, sự phồn vinh và hạnh phúc của toàn xã hội.
-Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là thấm nhuần sự kết
hợp giữa tính tất yếu thời đại với nhu cầu phát triển của dân tộc với các giá trị
truyền thống dân chủ, nhân văn. Đó là sự vân dụng sáng tạo quy luật chung vào
những hoàn cảnh cụ thể của đất nước.
-Khẳng định quyết tâm và vai trò sáng tạo rất cao của kiến trúc thượng tầng chính
trị - pháp luật là Đảng Cộng sản, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, nhằm tạo
lập thể chế kinh tế thị trường văn minh, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
III. Sinh viên với vấn đề kinh tế thị trường và xã hội thị trường
1. Sự chuẩn bị của sinh viên trước những yêu cầu của nền kinh tế thị trường
toàn cầu hiện nay
Sự chuẩn bị của sinh viên trước những yêu cầu của nền kinh tế thị trường toàn cầu
hiện nay
- Nhận thức đầy đủ về nền kinh tế thị trường trong thời kì hội nhập hiện nay
- Nhận thức đầy đủ về thể chế kinh tế thị trường,chủ trương về nền kinh tế thị
trường của nhà nước
- Tôn trọng và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan của kinh tế thị
trường,thông lệ quốc tế,phù hợp với điều kiện cảu Việt Nam.
- Giữ vững lập trường nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

- Tìm hiểu,kế thừa có chọn lọc thành tựu phát triển kinh tế thị trường của
nhân loại và kinh nghiệm tổng kết từ thực tiễn ở nước ta,chủ động trong tư
tưởng hội nhập quốc tế,đồng thời giữ vững độc lập và chủ quyền quốc gia.
2. Khía cạnh công lý, đạo đức của nền kinh tế thị trường: xã hội thị trường?
Chúng ta biết rằng, đạo đức với tư cách là chuẩn mực xử sự được xã hội hội thừa
nhận, được hình thành và vận dụng từ chính thực tế của đời sống xã hội. Trong
những năm qua, cơ chế thị trường đã tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội, trong đó đạo đức là một trong những lĩnh vực có nhiều thay đổi nhất. Thực
trạng đời sống đạo đức của nước ta hiện nay mang nhiều nét phức tạp, có những
cái đã định hình, có những cái còn đang phôi thai, những nhân tố mới tích cực và
tiêu cực.
Cơ chế thị trường đã mở ra khả năng tiềm tàng giải phóng mọi năng lực của con
người, thúc đẩy văn hóa đạo đức, phải gạt bỏ đi những cái cũ kỹ, lạc hậu, cổ vũ
cho những gì mới mẻ, hợp quy luật. Sự phá bỏ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp
chính là sự đánh thức cá nhân và xã hội Việt Nam, đồng thời tạo đà cho những
chuẩn mực đạo đức mới. Nhịp sống sôi động đã thay thế cho nhịp sống thời bao
cấp, mọi người phải phát huy cao độ tính tự giác, năng động sang tạo, chứ không
thể trông chờ, ỷ lại. Cơ chế thị trường khuyến khích các cá nhân phân lớp, khẳng
định và tạo lập cơ chế đãi ngộ xứng đáng với sự cống hiến.
Nền kinh tế thị trường cũng có những mặt trái dễ làm cho con người sa ngã, có thể
bị biến chất đạo đức bất kỳ lúc nào. Hiện nay, dư luận xã hội đang rất quan tâm
đến các vấn đề đạo đức, đến vấn đề suy thoái đạo đức đang diễn ra trong xã hội,
đặc biệt là trong một bộ phận công chức. Các vụ tiêu cự liên quan đến suy thoái
đạo đưc ở nước nước ta những năm qua làm ảnh hưởng không nhỏ đến cái nhìn
của xã hội về đạo đức người công chức hiện nay.
Bài toán đặt ra cho xã hội Việt Nam hiện nay là vừa phát triển được kinh tế thị
trường, vừa giữ được những giá trị đạo đức truyền thống của dân tộc, vừa xây
dựng được các quan hệ và phẩm chất mới phù hợp với thời đại mới của sự phát
triển kinh tế - xã hội bảo đảm tính định hướng xã hội chủ nghĩa. Hoạt động công
vụ gắn với quyền lực của nhà nước, cán bộ, công chức tùy theo cương vị công tác

được trao một phạm vi quyền lực nhiều hay ít. Vì vậy, trong hoạt động công vụ sẽ
có tác dụng trực tiếp tới đời sống xã hội nếu nó được thực hiện đúng đắn, ngược lại
nó sẽ đưa đến những hậu quả tai hại nếu hoạt động công vụ không có lương tâm,
sẵn sang chà đạp lên luật pháp để trục lợi. Xuất phát từ những vấn đề trên, thông
qua những chính sách pháp luật, Nhà nước ta đã chú trọng việc xây dựng, bồi
dưỡng đạo đức công vụ, công lý, biểu hiện tập trung ở đọa đức công chức. Một
trong những nguyên nhân dẫn đến sự suy thoái đạo đức là sự du nhập của lối sống
thực dụng trong một bộ phận dân cư. Trước đây, cơ chế tập trung quan liêu bao cấp
đề cao quá mức đời sống tinh thần, xem nhẹ vật chất, nên khi chuyển sang cơ chế
thị trường, sự coi trọng vật chất đã đi quá đà, trở thành sung bái sau một thời gian
dài bị kìm nén. Và điều hết sức quan trong là trong một thời gian dài chúng ta chưa
xây dựng được một nền tảng đọa đức cho xã hội, khi bước vào cơ chế thị trường
khắc nghiệt, nhiều giá trị trước đây khi va chạm với thực tế thì vỡ tan hoặc bộc lộ
những yếu ớt, bất lực.
Cơ chế thị trường kích thích cái “tôi” một cách thái quá và là tác nhân làm mất cân
đối, thậm chí méo mó sự phát triển nhân cách. Vấn đề này thể hiện ở chỗ khủng
hoảng lý tưởng hay phá vỡ sự hài hòa nhân cách. Nhiều người cho rằng trong điều
kiện nền kinh tế thị trường cạnh tranh khốc liệt hiện nay mà còn nói đến lý tưởng
niềm tin thì thật xa rời và thiếu thực tế. Từ đó mà họ chuyển sang lối sống thực
dụng một cách triệt để để bộc lộ những khía cạnh thấp hèn, vụ lợi, thậm chí là tàn
nhẫn mà không hay. Lối sống thực dụng chắc chắc sẽ là sai lầm, không sớm thì
muộn chủ nghĩa cá nhân sẽ bị trả giá vì mỗi cá nhân chỉ có thể đạt được hạnh phúc
khi có sự hài hòa, cân đối trong quan niệm vật chất và tinh thần, giữa cá nhân và xã
hội, giữa hiện đại và truyền thống.
Sự sùng ngoại, sẵn sang tiếp thu văn hóa nước ngoài mà không hề chọn lọc, cân
nhắc dễ dẫn đến hậu quả là mất niềm tự hào dân tộc, sự tự trọng vốn có của mỗi
con người Việt Nam ở một bộ phận không nhỏ dân cư, nhất là ở các đô thị. Một số
người chỉ chú ý đến đời sống vật chất, quên mất các giá trị văn hóa, tinh thần và trở
thành những con người cằn cỗi về tâm hồn, què quặt về nhân cách.
Một nền hành chính dân chủ sẽ có tác động rất tích cực, có ích cho một nền kinh tế

định hướng xã hội chủ nghĩa lành mạnh và phát triển.
Đứng trên phương diện kinh tế - xã hội, chúng ta tin rằng xã hội này được xây
dựng trên những giải pháp xuất phát từ thị trường, nhưng liệu rằng cái gì cũng phải
có giá của nó không? Nếu không nhận thức được rõ những vấn đề về thị trường,
chúng ta sẽ chậm hướng, từ một nền kinh tế thị trường trở thành một xã hội thị
trường. Liệu đây có phải là đích đến của chúng ta?
Thực tế phản ánh rằng, nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp tư nhân đã vì
sự ham muốn lợi nhuận, đã làm nên những việc không đáng có, gây tổn hại về mặt
vật chất, tinh thần, sức khỏe cho người mua. Điển hình là trong dịp Tết Giáp Ngọ
vừa rồi, doanh nghiệp sản xuất rượu Hà Nội đã bị lên án và phạt tiền vì tội pha chế
nồng độ cồn quá mức cho phép vào rượu để tăng lợi nhuận, rồi những vụ lách luật,
buôn bán tàng trữ hàng cấm (heroin, thuốc pháo ) nhằm trốn thuế. Hay những phi
vụ bán hàng xách tay qua mạng… cùng rất nhiều minh chứng khác.
Chúng ta có nên thưởng cho lũ trẻ tiền để chúng đọc sách hay đạt điểm tốt không?
Chúng ta có nên cho phép các công ty trả tiền khi gây ô nhiễm bầu không khí
không? Chúng ta trả tiền cho người dân để họ thử nghiệm với một loại thuốc mới
hay lúc họ hiến nội tạng Bạn nghĩ gì về việc thuê người lính chiến đấu để bảo vệ
tổ quốc trong chiến tranh? Bán đấu giá quyền nhập học tại các trường đại học ưu
tú? Bán quyền công dân tại nước khi khi người nhập cư sang mua lại. Có điều gì
sai trái với một thế giới mà tất cả mọi thứ đều có thể biến thành hàng hóa mua bán?
Nếu vậy, làm sao chúng ta có thể ngăn chặn những tiêu chuẩn giá trị của thị
trường, ảnh hướng tới những lĩnh vực khác của cuộc sống, nhất là những tiêu
chuẩn mà giá trị tiền bạc không thể thay thế? Điều gì là giới hạn đạo đức của thị
trường?
Đề cập đến vấn đề này tức là ta đang đề cập đến nguyên nhân làm giới hạn, “ùn
tắc” đạo đức của xã hội thị trường, công lí thị trường. Có rất nhiều nguyên nhân
khác nhau.
Nhưng trước hết, ta phải kể đến sự thiếu ý thức, suy thoái trong nhận thức của các
bên giao dịch, mua bán ngoài thị trường. Họ ham muốn, trục lợi trước mắt, giành
lợi nhuận về cho mình, chính xã hội thị trường, giành giá trị hàng hóa đã kích thích

cái “tôi” một cách tột độ, sôi sục.
Thứ hai, do hệ thống xử lý các hành vi vi phạm bằng hệ thống pháp luật chưa thực
sự triệt để, chưa thực sự len lỏi được vào các đường dây múa bán, chiếm đoạt lợi
nhuận, tiền không công một cách trơ trẽn. Phải nói răng, đây có lẽ là nguyên nhân
quyết định sự phá vỡ hay không của xã hội thị trường ranh ma, quỷ quyệt với hàng
loạt các chiêu trò để trục lợi.
Nguyên nhân tiếp theo mà ta không thể nói đến đó là dô công dân chưa thực sự
quyết liệt lên án sự bất công trong kinh doanh, trong việc suy thoái đạo đức nghề
nghiệp (Điều đó càng khiến cho các tư nhân, doanh nghiệp được thế lấn tới, càng
ngày càng mất đi sự công bằng trong công việc kinh doanh, buôn bán.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với mục đích phát triển là “dân
chủ, công bằng, văn minh”. Nhưng trên thực tế có đúng là như vậy hay không? Và
để giải quyết được vấn đề này, chúng ta cần làm gì?
Trước mắt, để hạn chế những mặt trái của nèn kinh tế thị trường tác động đến đạo
đức công chức cần có nền tảng công chức đạo đức vững chắc. Cần thiết lập một hệ
thông pháp luật nghiêm chỉnh, nghiêm túc để xử lý những hành vi vi phạm trong
quan hệ mua bán, kinh doanh. Đồng hời để bảo đảm cho các chuẩn mực đạo đức
được thi hành trong công vụ.
Tiếp theo, cần “vít kín các lỗ thủng” thông qua hệ thống pháp luật, hoàn thiện cơ
chế quản lí, đặc biệt trên lĩnh vực kinh tế, quản lý đất đai, vốn, tài sản doanh
nghiệp nhà nước.
Tiếp theo nữa là thực hiện tốt công tác tuyển dụng, đề bạt và bố trí cán bộ. Đây
được doi là buosc đột phá nếu chúng ta thực hiện nghiêm túc và công khai công tác
tuyển dụng cán bộ để đưa cán bộ công chức”ngồi đúng vị trí” của mình. Từ việc
làm này, chúng ta sẽ tạo được sự dân chủ, bình đẳng và trọng dụng được nhân tài
trong đội ngũ cán bộ, công chức trong nền kinh tế thị trường.
Đồng thời cần nghiêm khắc lên án các hành vi kinh doanh, buôn bán bất hợp pháp,
lách luật để có thể trừng trị một cách có hiệu quả các hành vi đó. Từ đó mà tạo
bước đà cho nền kinh tế mới này lành mạnh, vững bền.
Không những thế, cần tổ chức các buổi tọa đàm, giáo dục, bồi dưỡng đạo đức thị

trường cho các tư nhân, nhân viên doanh nghiệp, công ty. Để từ đó họ nhận thức
được đúng đắn hai từ “công lý” trong thị trường đó là hai chữ cơ bản cần được
công dân, đặc biệt là những nhân tốt nêu trên coi trọng.
Nói tóm lại, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đang dần đưa nước ta nằm
trong những nước có thu nhập trung bình. Một ngày nào đó không xa, tôi tin rằng,
với chiến lược đúng đắn, phù hợp, nước ta sẽ là nước có nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa tiên phong trong khu vực đúng với bản chất của nó.
3. Hoạt động kinh tế và những mô hình làm thêm/giải quyết việc làm của
sinh viên trong nền kinh tế thị trường Việt Nam
Không thể phủ nhận vai trò cung cầu trong thị trường lao động việc làm thêm đang
ngày một gia tăng trước sức ép của hàng loạt biến động bất lợi về giá thực phẩm,
xăng dầu, lạm phát v.v… trong thời gian vừa qua. Để có thêm thu nhập trang trải
cho sinh hoạt, chi tiêu giữa thời buổi vật giá leo thang, người lao động và cả giới
sinh viên buộc phải tìm cho mình việc làm thứ hai, thứ ba bên cạnh các công việc
chính thức. Với các doanh nghiệp, sử dụng lao động cộng tác đồng nghĩa với việc
cắt giảm được hàng loạt các chi phí như chi phí bảo hiểm, chi phí sử dụng cơ sở
vật chất tại công ty v.v… Mô hình “sử dụng freelnacer, làm thời vụ/ bán thời gian/
theo dự án …” đã được sử dụng khá hiệu quả tại nhiều nước. Theo thống kê của
Cục thống kê lao động Mỹ, có hơn 10.3 triệu freelancer, chiếm 7,4% lực lượng lao
động tại nước này, với tổng thu nhập năm cho cộng đồng này vào khoảng 346 tỉ
USD. Tại Việt Nam, ngành lao động làm thêm và cộng tác viên phát triển trong
hơn năm năm trở lại đây do sự phát triển kinh tế đất nước. Các ngành nghề thu hút
lao động làm thêm ở nước ta gồm có các công việc không yêu cầu vị trí cố định với
giờ giấc linh hoạt, hoặc có thể làm theo ca như tư vấn bán hàng, bán quảng cáo,
bảo hiểm, chăm sóc khách hàng, biên tập viên, Digital Marketing, giảng viên ngoại
ngữ, Disigner v.v… Các trang web môi giới việc làm thêm cũng đã xuất hiện và
phát triển khá rộng khắp, trong đó có không ít địa chỉ cung cấp các tính năng hỗ trợ
khá độc đáo như tạo “đất” cho ứng viên tự đề xuất thù lao hợp với yêu cầu nhà
tuyển dụng, các mục kỹ năng chuyên môn dành cho Freelancer v.v…
Cuối năm 2004, một nhóm sinh viên ĐH Bách Khoa TP.HCM đã thực hiện một

điều tra về tình hình đi làm thêm của sinh viên trên địa bàn. Số mẫu điều tra là 200,
trong đó có cả những sinh viên không đi làm thêm.
Chi phí bình quân để một sinh viên có thể sống và học tập tại TP.HCM hiện nay là
khoảng 700.000 đồng (không tính học phí). Kết quả điều tra cho thấy có khá ít sinh
viên nhận được hơn 700.000 đồng/tháng từ gia đình (32,5%). Như vậy sẽ có
khoảng 67,5% số sinh viên không thể trang trải hết các khoản chi nếu chỉ nhận trợ
cấp từ gia đình, và đa số những sinh viên thuộc dạng này sẽ phải đi làm thêm.
Yếu tố thu nhập là lý do quan trọng nhất ảnh hưởng đến hành vi chọn việc làm
cũng như loại hình việc làm thêm. Tuy vậy, không ít sinh viên có hoàn cảnh gia
đình khá giả nhưng vẫn kiếm việc bán thời gian vì nhiều mục đích, trong đó đa số
(80%) muốn tăng thêm kinh nghiệm thực tế.
Tiêu chí quan tâm thứ hai sau thu nhập khi lựa chọn công việc là thời gian có phù
hợp với lịch học tại trường hay không. Sự eo hẹp về quĩ thời gian làm sinh viên
khó tiếp cận với công việc lương cao, đúng chuyên môn.
Loại công việc được ưa chuộng nhất là dạy kèm cho học sinh các khối lớp (41,5%)
vì dễ kiếm, tốn ít thời gian, chi phí và công sức bỏ ra không nhiều. Kế đến là việc
tiếp thị sản phẩm cho các doanh nghiệp (22%). Có sự sụt giảm tỉ lệ sinh viên đi
dạy kèm cũng như có sự gia tăng tỉ lệ chọn các công việc khác. Lý do được ghi
nhận như sau:
- Sự gia tăng các loại chi phí thuê nhà, sinh hoạt hằng ngày, học thêm trong khi
thu nhập của việc dạy kèm còn khiêm tốn.
- Yêu cầu của các nhà tuyển dụng khuyến khích sinh viên tìm các công việc để tích
lũy kinh nghiệm, nhất là kinh nghiệm giao tiếp.
- Sự xuất hiện phong phú các loại việc bán thời gian với thu nhập cao, ổn định, phù
hợp.
62% sinh viên tìm được việc thông qua sự giới thiệu của người thân, bạn bè và
14% qua các trung tâm giới thiệu việc làm có tính phí trên thị trường, số lượng tìm
việc qua các phương tiện truyền thông rất ít (5,1%).
Thống kê trên thể hiện một thực trạng là năng lực tự tìm việc làm của đa số sinh
viên còn hạn chế, ít sử dụng kênh thông tin qua báo chí, Internet. Ngoài ra sinh

viên cũng nhận được rất ít sự hỗ trợ từ các tổ chức Đoàn, Hội (khoảng 2,5%), các
trung tâm hỗ trợ sinh viên của trường hoạt động không hiệu quả về mảng này.
Kết quả khảo sát mức thu nhập cho thấy tỉ lệ cao nhất thuộc về các sinh viên có
mức lương dưới 1 triệu đồng/tháng, trong đó phổ biến nhất là từ 500.000 - 800.000
đồng, đủ trang trải các nhu cầu sinh hoạt cũng như tiền học ngoại khóa. Có 12,5%
sinh viên thu nhập từ 1,5 triệu đồng trở lên, cá biệt có những trường hợp trên 2
triệu, đây là những sinh viên có được những việc làm khá đặc thù như: thư ký,
cộng tác viên thường xuyên của các báo, nhân viên chính thức tại một số doanh
nghiệp nhưng được hưởng chế độ làm việc bán thời gian dành cho sinh viên năng
động, học giỏi. Ngày càng có nhiều sinh viên tìm được những công việc phù hợp
và hấp dẫn, đây là nền tảng cho sự thành đạt nhanh chóng của những bạn trẻ có
khả năng.
Những năm qua, có vẻ số lượng hồ sơ đăng ký dự thi vào nhóm ngành Kinh tế
giảm hơn những năm trước nhưng thực chất, nhóm ngành Kinh tế vẫn thu hút thí
sinh, đặc biệt là thí sinh khá, giỏi. Xu hướng thí sinh tiếp tục thích chọn ngành
Kinh tế là do nhu cầu nhân lực của các ngành này vẫn còn rất lớn. Dễ kiếm việc
làm và mức lương cao cũng là một trong những yếu tố cơ bản khiến cho các ngành
Kinh tế hấp dẫn thí sinh.
Theo Ông Trần Anh Tuấn - Phó Gíám đốc thường trực Trung tâm Dự báo nhu cầu
nhân lực và Thông tin thị trường lao động: Những nhóm ngành nghề có nhu cầu
lao động nhiều, chiếm tỷ lệ rất cao như Quản lý Kinh tế - kinh doanh - quản lý chất
lượng; du lịch - nhà hàng - khách sạn, marketing - nhân viên kinh doanh; tài chính
- ngân hàng (nhân lực chuyên môn cao, ở cấp độ quản lý) - kế toán - kiểm toán; tư
vấn - bảo hiểm; pháp lý - luật; nghiên cứu - khoa học; quản lý nhân sự…
Các ngành trong lĩnh vực này bao gồm:
• Kế toán (Accounting)
• Luật (Law)
• Khối Kinh tế (Economics)
• Tài chính (Finance)
• Quản lý thông tin (Information Management)

• Kinh doanh quốc tế (International Business)
• Thương mại quốc tế (International Trade)
• Quản lý (Management)
• Quảng cáo, tiếp thị (Marketing)
• Quản lý chuỗi cung ứng/ Vận tải (Supply Chain Management)
• Thuế (Taxation)
Quản lý nhân sự (Human Resource)
Theo báo cáo tuyển dụng trực tuyến của trang web Vietnam works, nhu cầu lao
động trong quý II năm 2013 đã tăng 14% so với cùng kỳ năm ngoái; trong đó nhu
cầu tuyển dụng tăng nhanh nhất là ngành bán sỉ và lẻ (tăng 85%), dược phẩm và
công nghệ sinh học (35%), bảo hiểm (27%), dịch vụ khách hàng (25%) và tư vấn
(24%).
Ngành bán sỉ và lẻ:
Từ năm 2006 trở về trước, thị trường ngành bán sỉ và lẻ ở Việt Nam hết sức ảm
đạm, tuy nhiên, sau 6 năm Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới
(WTO) thì thị trường ngành này đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Nếu trước
đây, Việt Nam chỉ có một vài siêu thị ở các thành phố lớn thì nay hệ thống này đã
lan tỏa khắp nơi, đến cả vùng nông thôn, kèm theo đó là nhu cầu tuyển dụng nhân
sự lớn. Tuy nhiên, đây là một ngành còn khá mới, chưa có trường lớp đào tạo bài
bản nên doanh nghiệp vẫn đỏ mắt tìm lao động.
Ngoài ra, Khoa Quản trị kinh doanh cũng có thế mạnh trong việc đào tạo chuyên
ngành quản trị bán hàng. Sau 4 năm học tập, sinh viên sẽ làm việc ở các phòng bán
hàng, marketing, kế hoạch kinh doanh của các doanh nghiệp; đặc biệt là các doanh
nghiệp kinh doanh tại mọi thành phần kinh tế. Sau khi tốt nghiệp, sinh viên có thể
thực hiện các nhiệm vụ như xây dựng và triển khai các kế hoạch, chương trình bán
hàng của các doanh nghiệp; quản lý cửa hàng, chuỗi cửa hàng kinh doanh bán lẻ;
làm đại diện bán hàng, giám sát bán hàng, quản lý bán hàng khu vực trong hệ
thống kênh phân phối của doanh nghiệp… Về lâu dài, lao động ngành này có khả
năng trở thành lãnh đạo chủ chốt trong các doanh nghiệp.
Ngành bảo hiểm: Đa dạng việc làm

Bảo hiểm là một ngành kinh doanh tương đối mới mẻ, có tốc độ tăng trưởng cao,
thuộc tốp đầu trong các ngành nghề của nền kinh tế Việt Nam trong nhiều năm
qua. Lĩnh vực này thu hút khá nhiều nhà đầu tư nước ngoài, họ đã và sẽ hình thành
hàng loạt công ty bảo hiểm trong nước và quốc tế. Một trong những ngành mà sau
khi tốt nghiệp sinh viên có thể làm là: Nghiên cứu bảo hiểm (làm việc ở các trường
ĐH, các viện nghiên cứu về kinh tế tài chính), cán bộ quản lý tài chính của hãng
bảo hiểm (làm các công việc về kế toán, phân tích tài chính, quản lý tiền, công nợ,
tài sản của các công ty bảo hiểm), cán bộ đàm phán, ký kết hợp đồng bảo hiểm,
giám định, bồi thường thiệt hại… Để làm tốt những công việc trên, ngoài năng lực
chuyên môn, các bạn trẻ cần có những kỹ năng như giao tiếp, có khả năng suy
luận, tư duy logic, có tính kiên trì, chịu khó…
Ngoài vấn đề tìm việc làm thêm thì vấn đề việc làm sau khi tốt nghiệp lại hết sức
quan trọng được đa số các sinh viên quan tâm. Mục đích chính của việc học đại
học là để có được một cuộc sống tốt hơn, công việc ổn định đem lại một nguồn thu
nhập cao để trang trải cuộc sống trong giai đoạn giá cả leo thang.
Sinh viên sau khi tốt nghiệpsinh viên tìm được việc làm do từ nhiều nguồn:
- Các doanh nghiệp tuyển dụng trực tiếp tại các trường, kể cả doanh
nghiệp chọn lọc, hỗ trợ học bổng sinh viên còn đi học để tuyển chọn sinh
viên xuất sắc, giỏi, khá, có kỹ năng ngoại ngữ.
- Thông qua các ngày hội nghề nghiệp – việc làm cho sinh viên, sàn giao
dịch việc làm.
- Các trung tâm giới thiệu việc làm, đặc biệt vai trò các trung tâm hỗ trợ
sinh viên và quan hệ doanh nghiệp của các trường Đại học, Cao đẳng đã
giúp nhiều sinh viên tốt nghiệp nhanh chóng có việc làm tương đối phù hợp.
- Thông tin tuyển dụng của doanh nghiệp trên hệ thống Internet, Báo, Đài,
cơ quan thông tin.
- Gia đình, thân nhân những người quen giới thiệu.
- Sinh viên tự tìm việc qua những việc thời vụ, bán thời gian khi còn đi
học.
- Sinh viên tự tạo việc làm và qua các nguồn quỹ tín dụng việc làm để tự

tạo việc làm bằng hình thức tổ chức doanh nghiệp hoặc kinh doanh dịch vụ
cá nhân, tập thể.
Tuy nhiên thực trạng chung là phần lớn sinh viên tốt nghiệp ra trường vẫn còn gặp
nhiều khó khăn trong tìm kiếm việc làm phù hợp và ổn định, do chưa định hướng
đúng mức về nghề nghiệp – việc làm, vì một số sinh viên chọn ngành học chưa phù
hợp năng lực, sở trường và xu hướng phát triển thị trường lao động. Mặt khác các
doanh nghiệp rất quan tâm tuyển chọn đối với sinh viên tốt nghiệp về kiến thức
ngoại ngữ, khả năng hợp tác, kỹ năng làm việc, kỹ năng giao tiếp, những hiểu biết
về môi trường văn hóa doanh nghiệp và tác phong làm việc công nghiệp. Sự hạn
chế lớn của sinh viên khi ra trường, đa số chưa định hướng được cụ thể để chọn
một ngành chuyên môn phù hợp với khả năng, đồng thời do hệ thống thông tin thị
trường lao động; hoạt động tư vấn giới thiệu việc làm chưa cập nhật kịp thời để
gắn kết sinh viên và doanh nghiệp đạt hiệu quả cao.
Vấn đề việc làm của sinh viên sau khi tốt nghiệp điều cốt lõi là người sinh viên
phải xây dựng được những giá trị năng lực hành nghề chính là xây dựng ý chí,
quyết tâm để có hoài bảo và không ngừng học tập. Việc học ở nhà trường chỉ là
giai đoạn đầu của quá trình học tập suốt đời trong một xã hội hiện đại. Người sinh
viên sau khi tốt nghiệp để phát triển nghề nghiệp phải có ý thức mở rộng kiến thức
nghề nghiệp, nâng cao năng lực, tư duy khoa học, độc lập, lao động sáng tạo, phát
huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ mới để không ngừng phát triển
kỹ năng nghề nghiệp.
Hiện nay, nhiều sinh viên dù đang ngồi trên ghế giảng đường nhưng hết sức lo lắng
về tình hình thất nghiệp. Theo báo cáo điều tra lao động, hiện nay, cả nước
có 857.000 người thất nghiệp và 1,3 triệu người thiếu việc làm. Con số này tăng
nhiều so với các thời điểm trước, và chắc chắn con số thực tế còn lớn hơn nhiều so
với thống kê. Hơn 60% sinh viên ra trường không có việc làm hoặc phải làm
những công việc tạm thời, không đúng với chuyên ngành. Thực trạng này tạo nên
những tâm lý tiêu cực cho nhiều sinh viên, thậm chí cả những học sinh chuẩn bị tốt
nghiệp đại học cũng mang tâm lý lo lắng luôn đặt câu hỏi: Kết quả học tập sẽ như
thế nào? Ra trường sẽ đi đâu về đâu?

Hà Tĩnh là một tỉnh đang trên đà phát triển, số lượng các doanh nghiệp trên địa bàn
còn ít trong khi nhu cầu lao động hàng ngày tăng lên với mức độ chóng mặt, số
lượng nhân viên cần tuyển có hạn. Trong khi, một năm theo thống kê, Hà Tĩnh có
hơn 9000 sinh viên tỉnh nhà từ các trường Đại học, cao đẳng ra trường và con số
này đang tăng lên hàng ngày. Những số liệu ở trên có thể thấy rõ rằng nguồn lao
động của Hà Tĩnh được đào tạo đang ngày càng tăng lên. Đây cũng là một thách
thức không nhỏ trong vấn đề tìm việc làm. Có khoảng 63% sinh viên tốt nghiệp ra
trường không có việc làm và trong số sinh viên ra trường kiếm được việc làm thì
lại có nhiều sinh viên không làm đúng chuyên ngành mình được học. Với số lượng
sinh viên ra trường ngày càng lớn như hiện nay thì cơ hội việc làm ngày càng trở
nên khó khăn.
Bên cạnh những sinh viên đáp ứng đủ những yêu cầu mà nhà tuyển dụng đòi hỏi
hoặc những người có người thân, xin việc hộ thì số còn lại phải chật vật chạy đi
chạy lại với các trung tâm giới thiệu việc làm. Cũng phải nói thêm rằng chính dựa
vào sự khan hiếm việc làm này mà nhiều trung tâm giới thiệu việc làm “ ma ” mọc
lên vài ba bữa để thu tiền lệ phí, tiền môi giới việc làm rồi biến mất. Hoặc một số
sinh viên ra trường chấp nhận làm trái nghề hoặc bất cứ nghề gì miễn là có thu
nhập. Đó là về phía sinh viên, còn về phía nhà tuyển dụng thì họ vẫn ‘than’ là thiếu
lao động mà theo họ là thiếu những người có kinh nghiệm và khả năng làm việc
độc lập cũng như một số yêu cầu khác.
Sau vài năm vất vả học hành tích luỹ kiến thức và tìm kiếm việc làm sinh viên
đành phải chấp nhận một công việc có thể không đúng chuyên ngành đào tạo của
mình. Có những sinh viên còn chẳng sử dụng một chút kiến thức đã được trang bị
trong những năm học ở trường. Đó có thể coi là một sự lãng phí cả về nguồn lao
động cũng như nguồn vốn cho nhà nước. Sinh viên học chuyên ngành này lại đi
làm một chuyên ngành khác là một thực tế đang diễn ra khá phổ biến trong nền
kinh tế thị trường hiện nay. Bên cần nguồn lao động nhưng lao động này cần có
kiến thức cao, có trình độ. Nhưng các bạn sinh viên lại khó có thể đáp ứng được
những yêu cầu khắt khe đó.
Và một vấn đề nữa lại mở ra trước mắt: Những người ra trường không xin được

việc làm, họ sẽ làm gì trong khi cuộc sống vẫn tiếp diễn? Câu trả lời ở đây là "Nộp
rất nhiều đơn xin việc làm và ngồi chờ đợi, không có sự lựa chọn cho công việc
mình thích, ngành nghề mình đam mê, không cần biết mình thích hay không, miễn
là có việc làm!". Một số khác không tự tin vào bản mình thì lại sự lựa chọn việc
chờ đợi cơ hội việc làm sẽ đến với mình.
IV. PHÂN TÍCH MỘT SỐ VẤN ĐỀ CỤ THỂ
Danh sách các vấn đề:
Phân tích các nhu cầu đổi mới cơ chế quản lý kinh tế ở Việt Nam thời kỳ
trước đổi mới (trước Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 6). Tại sao
nhận định rằng: đối với nước ta vào thời điểm năm 1986, đổi mới là yêu cầu
bức thiết, là vấn đề có tầm quan trọng sống còn?.
Dưới áp lực của tình thế khách quan, nhằm thoát khỏi khủng hoảng kinh tế- xã
hội , phát triển đất nước, Việt Nam đã có những bước cải tiến nền kinh tế theo
hướng thị trường tuy nhiên còn chưa toàn diện, triệt để , hiệu quả trên thực tế thấp:
khoán sản phẩm trong nông nghiệp theo chỉ thị số 100CT/TW (1981) của Ban bí
thư TW khóa IV, bù giá vào lương ở Long An, Nghị quyết TW 8 khóa V (1985) về
giá- lương-tiền, thực hiện Nghị định số 25 và Nghị định số 26-CP của Chính phủ…
Đó là những căn cứ thực tế để ĐCSVN đi đến quyết định thay đổi về cơ bản cơ chế
quan lí kinh tế.
Chỉ thị 100CT/TW: ngày 13/1/1981, Ban bí thư TW Đảng ra chỉ thị 100CT/TW về
cải tiến công tác khoán, mở rộng “ khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người
lao động” trong toàn bộ nền nông nghiệp cả nước. Chế độ khoán này được gọi tắt
là Khoán 100. Khoán 100 tạo ra hiệu quả kinh tế lớn trong nông nghiệp.
Nghị quyết TW 8 (6/1985): bàn về cải cách giá-lương tiền, với nội dung chính như
sau:
Về giá : phải tính toán đầy đủ giá các mặt hàng Nhà nước cung cấp và giá các
mặt hàng Nhà nước mua của nông dân , thợ thủ công theo giá sát với chi phí sản
xuất. Để tiện cho tính toán , các mức giá trên được quy ra thóc còn giá thóc được
xác định bình quân là 25 đồng/ kg, dựa trên tính toán thực tế của các chuyên gia.

×