Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Những rắc rối trong lịch sử khai khẩn đất hoang Việt Nam thời Pháp 2 ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.55 KB, 5 trang )

Những rắc rối trong lịch sử Khai khẩn đất hoang
Việt Nam thời Pháp
2
Kẻ quyền thế thường vận động với các quan lại cao cấp, chịu tốn kém về tiệc tùng
để được khẩn không tiền theo quy chế mà nhà nước dành cho người hữu công :
Tổng đốc Phương hưởng theo quy chế này 2.223 mẫu ở các làng Hỏa Lựu, Hòa
Hưng, Vĩnh Hòa Hưng ; Trần Chánh Chiến (sau này cổ húy cho phong trào Duy
Tân ở Nam kỳ) khẩn hơn 1000 mẫu ; một nho sĩ họ Trần ở Rạch Giá cũng nhờ
Tổng đốc Phương điền chủ ở Trà Vinh khẩn trong địa phận Rạch Giá trên 1400
mẫu
Những nguồn lợi thiên nhiên
Trước khi trở thành ruộng, rừng tràm là nguồn lợi thiên nhiên đáng kể. Vào đời
Gia Long, vùng Rạch Giá được chú ý nhờ sáp ong và cá tôm. Làng Vĩnh Hòa, làng
Đông Yên ở hữu ngạn sông Cái Lớn thành hình từ lâu nhờ nguồn lợi sân chim (sử
chép là Điểu đình), những khu rừng mà hằng năm loại chàng bè, lông ô (còn gọi
già sói, marabout) tụ họp về làm ổ, sanh sôi nẩy nở hàng chục vạn con, thợ rừng
đến sân (nơi chim tụ họp) bao vây và giết sống để nhổ lông bó lại đem bán cho tàu
buôn Hải Nam. Thuở ấy người Việt cũng như người Tàu đều ao ước có cây quạt
kết bằng lông chim, với đứa tiểu đồng đứng hầu quạt phe phẩy, tiêu biểu cho nếp
sống phong lưu. Thuế điểu đình vẫn duy trì, nhà nước thực dân cho đấu thầu
nhưng giá thầu ngày càng thấp, dân giết quá nhiều không chừa chim con. Gặp khi
giông tố bất thường, chim kéo đến khu rừng khác, người thầu không được quyền
truy nã theo để khai thác. Người trúng thầu thường là Huê kiều. Họ có hệ thống
tiêu thụ ở nước ngoài : giá thầu là 21.000 quan (1879), 20.000 quan (1880). Việc
thầu sân chim có lúc bị bãi bỏ hoặc ngăn cấm. Năm 1908 cho khai thác trở lại.
Những năm chót, nhà nước hương chức làng thầu với giá tượng trưng. Năm 1912,
một hội viên của Phòng Canh nông Nam kỳ (cũng là tay khai thác đất đai nổi tiếng
ở Hậu giang) lên tiếng xin nhà nước cấm khai thác sân chim vì thuế thâu vào
chẳng bao nhiêu mà gây tai hại lớn. Theo bài toán của ông ta, chim có đến hàng
trăm ngàn con bị giết mỗi năm, mỗin gày một con chim già sói (marabout) ăn đến
20 con chuột, mất chim thì hàng triệu chuột tha hồ sinh sôi nẩy nở. Đây chỉ là bài


toán không tưởng mà thôi.
Mật, sáp ong, cá tôm là nguồn lợi lớn và lâu dài hơn. Khi mới chiếm vùng Hậu
giang, đặc biệt là vùng Rạch Giá, những huê lợi này đều do nhà nước giao lại với
giá thầu tượng trưng cho các ông cai tổng, xem như là hình thức mua chuộc rất có
hiệu quả. Các ông cai tổng cứ chia ra từng sở nhỏ, giao cho bọn tay sai thân tín
thầu lại với giá cao. Kế đến là giai đoạn giao cho hương chức làng thầu với giá
phỏng định. Năm 1895, hương chức làng thâu lợi quá nhiều đến mức dám hiến lại
cho ngân sách tỉnh phân nửa số lời mà họ thu được (2785 đồng).
Sáp là nguồn lợi làm cho xứ Rạch Giá nổi danh (người Miên gọi là vùng
Kramuôn—Sor tức là xứ sáp trắng) vì thời xưa ổ ong bám vào cây tràm, lâu ngày
rụng xuống rồi trôi trên sông, không người vớt. Thời Tự Đức (và có lẽ trước hơn),
quan lại địa phương chia rừng tràm ra từng “ngan” tức là từng lô nhỏ, lấy những
con rạch thiên nhiên làm ranh giới. Nay hãy còn dùng làm địa danh. Ngan Trâu,
Ngan Dừa, Ngan Rít, Ngan Vọp. Nghề ăn ong gọi là “ăn ngan”, lô rừng đem đấu
thầu gọi là sở phong ngạn (phong là ong, ngạn là bờ ranh). Phong ngạn tập trung ở
những làng nhiều rừng tràm, năm 1905, làng Vĩnh Lộc có tới 19 sở, làng Sóc Sơn
13 sở. Làng Đông Thái có 4 sở to chạy theo địa phận làng, dài cỡ ba mươi cây số.
Chủ tỉnh Rạch Giá thảo ra điều kiện sách nhằm dành ưu tiên cho người khẩn đất
làm ruộng. Điều 2 ghi rõ : “Rừng thì lần lần có người khai phá làm ruộng vì việc
canh nông có lợi hơn, nên sự đấu giá này (đấu giá phong ngạn) không buộc 3 năm,
buộc một năm mà thôi. Nhưng mà chủ ngan phải thưa cho nhà nước biết trước
ngày 15/1 kế đó”.
Nghề khai thác phong ngạn lần hồi trở nên khó khăn vì gặp sự tranh chấp của
người làm đơn khẩn ruộng. Thoạt tiên, chủ đất xem khu rừng tràm là của mình, tha
hồ đốn cây để lấy huê lợi đầu tiên. Hoặc dân làng cứ đốn cây, phá rừng. Báo cáo
của làng Mỹ Lâm ngày 12/12/1911 cho biết : Năm nay bị thất mùa màng, dân
nghèo nàn quá, không có phương thế chi mà làm ăn. Chúng nó cứ việc hạ tràm
tươi mà cưa làm củi bán đổi gạo ăn (Hồ sơ Miel et Cire). Diện tích rừng để khai
thác ong mật bị thu hẹp vì thỉnh thoảng rừng cháy, ong bỏ ổ đi nơi khác.
Nhưng lý do chánh khiến cho nghề phong ngạn suy đồi là trận bão lụt năm Thìn

(1904) khiến đa số rừng tràm bị ngã sập, rễ tràm vì ăn bám trên vùng đất sình lầy
nên chịu đựng không nổi. Tràm ngã xuống, sau này khi cày cấy hễ gặp là đào lên
đem về chụm bếp, gọi là tràm lụt (bão lụt). Đối với ngân sách làng và ngân sách
tỉnh, đây là sự hao hụt đáng kể. Để bù vào số thuế phong ngạn, chủ tỉnh Rạch Giá
giải quyết bằng cách bắt buộc dân phải chịu thêm một thứ thuế phụ trội, cộng thêm
với thuế thân mà dân phải đóng. ở làng Mỹ Lâm, trước kia ngân sách dồi dào nhờ
thuế phong ngạn, nhưng vì dân bộ quá ít nên khi chia ra thì mỗi đầu người phải
gánh đến bốn đồng.
Sáp là sản phẩm qů, theo lệ xưa và mãi đến khi người Pháp đến, đó là món dùng
để lo hối lộ thông dụng nhứt (gọi khôi hài là “đút sáp”).
Thủy lợi, theo nghĩa là huê lợi cá tôm ở sông rạch được chú ý từ thời xưa. Người
Pháp lúc ban đầu cũng dùng chánh sách mua chuộc cai tổng và hương chức làng
bằng cách cho họ mua lại (tức là thầu) với giả phỏng định.
Rừng tràm phát triển ở nơi đất thấp, vào mùa mưa thì nước ngập tràn. Rừng ở
Rạch Giá và luôn cả rừng tràm ở Hà Tiên, Châu Đốc, Cà Mau có thể so sánh với
vùng Biển Hồ ở Cao Miên về phương diện sinh hoạt của cá tôm. Nước mưa dâng
lên, cá lên rừng mà sanh đẻ, di chuyển. Rừng rậm với con lăng quăng do trứng
muỗi nở ra là thức ăn lý tưởng của cá. Khi mùa nắng vừa bắt đầu, gió chướng thổi
thì cá biết là nước sắp cạn, từng bầy tìm cách ra sông, xuống rạch để khỏi chết
khô. Bởi vậy, rạch ở rừng tràm là nơi tập trung cá; loại cá đồng đắt giá như cá lóc,
cá trê chở đem bán nơi xa được, không chết dọc đường.

×