Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Nguyễn Huệ và Ngọc Hân Công Chúa 2 potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.06 KB, 7 trang )

Nguyễn Huệ và Ngọc Hân Công Chúa
2
Năm Đinh Mùi (1787) hay tin Nguyễn Hữu Chỉnh chuyên quyền ngoài Bắc,
Nguyễn Huệ sai Vũ Văn Nhậm tổ chức lại chính trị, để Ngô Văn Sở ở lại trông
coi, rồi rút quân về Phú Xuân.
Xảy tới việc Lê Chiêu Thống vì không phục Tây Sơn, lên nương náu tại đất
Lạng Giang và cử người sang cầu cứu nhà Thanh.
Tôn Sĩ Nghị đem 200.000 quân thuộc bốn tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Qúy
Châu và Vân Nam từ ba mặt Tuyên Quang, Cao Bằng, Lạng Sơn tràn xuống
Thăng Long. Một lần nữa Nguyễn Huệ lại đem quân ra Bắc dẹp giặc.
Ngày 25 tháng Mười một năm Mậu Thân (1788) Nguyễn Huệ làm lễ tế cáo Trời
Đất tại núi Bân Sơn (Thuận Hoá) lên ngôi Hoàng Đế, đặt hiệu là Quang Trung rồi
thống lĩnh thủy bộ đại binh Bắc tiến đáng giặc Thanh.
Ngày 29 tháng Mười một đến Nghệ An, nghỉ lại 10 ngày để tuyển thêm binh.
Binh lực ta bấy giờ chừng 100.000 quân và hơn 300 thớt voi.
Ngày 20 tháng Chạp đến núi Tam Điệp, ngày 30 Tết Nguyễn Huệ phân binh
thành 5 đạo, tự mình điều khiển trung quân trực chỉ Thăng Long.
Ngày Mùng Ba Tết Kỷ Dậu (1789) vua Quang Trung dùng kế hư binh, không
đánh mà hạ được đồn Hà Hồi.
Giờ Thân (khoảng 5 giờ chiều) ngày Mùng Năm Tết, đại quân Tây Sơn tiến vào
Thăng Long. Vua Quang Trung uy nghi ngồi trên voi trận giữa muôn tiếng reo hò
của quân dân đại thắng, áo bào sạm đen màu thuốc súng.
Ngày mùng Bảy Tết, đúng như lời đã hứa, vua Quang Trung truyền mở đại tiệc
khao quân ăn Tết Khai Hạ ở Thăng Long.
Trước đó mấy ngày, tại Đống Đa, tướng Thanh là Sầm Nghi Đống phải thắt cổ
tự tử. Hàng vạn quân giặc chạy bạt vào phía Đầm Mực, bị voi dày mà chết.
Tôn Sĩ Nghị hoảng sợ chạy về mạn Bắc, đến địa phận huyện Phượng Nhãn phải
vứt bỏ ấn tín để thoát lấy thân. Quan quân nhà Thanh tranh nhau qua cầu phaọ Cầu
sập, chết hại vô số. Vua Lê Chiêu Thống cũng theo gót Tôn Sĩ Nghị chạy sang
Tàu.
Như vậy là chỉ trong vòng 5 ngày, vua Quang Trung đã tiêu diệt và quét sạch


200.000 quân xâm lược và 200.000 phu phen nhà Thanh ra khỏi bờ cõi. Thật là
một chiến công vĩ đại nhất, hiển hách nhất trong lịch sử nhân loại, so với phương
tiện chiến tranh thời bấy giờ.
Sau khi đuổi quân Thanh ra khỏi bờ cõi nước nhà, vua Quang Trung một mặt
chịu nhún mình vận động với Thanh Triều để nối lại bang giao giữa nước ta và
Trung Hoa, mặt khác lo cải tổ lại nội chính cho vững vàng.
Nhờ tài ngoại giao của Ngô Thời Nhiệm, tháng Bảy năm Kỷ Dậu (1789)
Nguyễn Huệ được vua Thanh Càn Long phong làm An Nam Quốc Vương.
Về nội chính, vua Quang Trung xây dựng đế chế, lập Phượng Hoàng Trung đô
ở Nghệ An, phong bà Ngọc Hân làm Bắc Cung Hoàng Hậu, lập Nguyễn Quang
Toản làm Thái tử, chỉnh đốn các cơ quan hành chánh trung ương và địa phương;
định lại quan chế; đối phó gắt gao với đám cựu thần nhà Lê khởi binh chống lại
Tây Sơn; tổ chức nền học chánh, trọng dụng chữ Nôm và dự định đặt nền quốc
học thuần túy Việt Nam; lập nhà Sùng Chính Viện, cử La Sơn Phu Tử Nguyễn
Thiếp làm Viện trưởng giữ việc giáo dục quốc dân; khuyến khích canh nông và
chăm lo đời sống của nhân dân, bớt thuế cho dân nghèo, gặp năm đại hạn hay
hồng thủy thì ra ân đại xá; tổ chức quân đội và huấn luyện binh sĩ ; lập sổ đinh để
tuyển binh; chia dân thành bốn hạng, mỗi người đeo một thẻ tín bài khắc bốn chữ
Thiên Hạ Đại Tín để tiện kiểm soát, chấn chỉnh lại Phật giáo.
Đến năm Nhâm Tí (1792) khi nhận thấy lực lượng của mình đã khá hùng hậu có
thể đương đầu với nhà Thanh, vua Quang Trung sai Võ Văn Dũng cầm đầu một sứ
bộ sang Tàu yêu sách hai điều: Đòi lại đất Lưỡng Quảng và yêu cầu được kết
duyên với con gái vua Thanh.
Nhưng mộng lớn chưa thực hiện được thì vào một buổi chiều, nhà vua đang
ngồi bỗng huyễn vận (nghĩa là hoa mắt, sa sầm choáng váng cả người) gục mặt
xuống, hồi lâu mới tỉnh. Ngài nói chuyện này ngay với Trung thư Trần Văn Kỷ.
Thấy bệnh ngày một nặng, ngài bèn vời Trấn thủ Nghệ An Trần Quang Diệu về
bàn chuyện thiên đô ra Nghệ An. Việc thương nghị chưa ngả ngũ thì vua Thế Tổ
(Gia Long) đã khắc phục Gia Định, chiếm được Bình Thuận, thanh thế lừng lẫy
vang động. Vua Quang Trung hay tin đó đâm lo buồn, bệnh tình ngày một nguy

kịch, bèn vời Trần Quang Diệu mà trối rằng:
- Ta mở mang bờ cõi, khai thác đất đai, có cả cõi Nam này. Nay đau ốm tất
không dậy được. Thái tử (Nguyễn Quang Toản) tư chất khá cao nhưng tuổi còn
nhỏ (mới 10 tuổi). Ngoài có quân Gia Định Nguyễn Ánh là quốc thù, mà Thái Đức
(Nguyễn Nhạc) tuổi già ham dật lạc, cầu an tạm bợ, không toan tính cái lo về sau.
Khi ta chết rồi, nội trong một tháng phải chôn cất, việc tang làm đơn giản thôi. Lũ
ngươi nên hợp sức mà giúp Thái tử sớm thiên về Vĩnh Đô (tức Vinh ngày nay) để
khống chế thiên hạ. Bằng chẳng, quân Gia Định kéo tới thì các người không có
chỗ chôn đâu. (Theo Hoa Bằng - Quang Trung Nguyễn Huệ)
Vua Quang Trung mất vào ngày 29, tháng Bảy năm Nhâm Tí (1792), thọ 40
tuổi. Nhưng chết mà chưa hết chuyện đâu! Còn những nghi vấn về di mộ nữa.
3. Những nghi vấn về di mộ của vua Quang Trung
Viện Khoa Học Kỹ Thuật Việt Nam vừa đưa ra giả thuyết về Phượng Hoàng
Trung Đô có thể là lăng mộ của vua Quang Trung.
Theo chính sử, anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ có bộ óc thông minh và quyết
đoán tuyệt vời. Vua Quang Trung rất bén nhạy tiên đoán được những gì sắp xảy ra
trong đời mình. Chính ông giáo Hiến (người thầy mà hồi nhỏ Nguyễn Huệ theo
học) đã nói: "Người này có công lớn ở Thăng Long nhưng chết ở đất Phượng
Hoàng".
Vua Quang Trung cũng có thể đã tiên liệu về đời mình như vậy nên đã đốc thúc
La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp và Thái Phó Trần Quang Diệu lo xây dựng Phượng
Hoàng Trung đô và đồng thời lo việc xây mộ.
Sự chơi chữ và đánh tráo thật hư của vua Quang Trung đương thời khó ai đoán
biết được. Theo một số người, sở dĩ điều này có thể là một ẩn ý vì:
Nguyễn Thiếp là người Nghệ An giỏi về khoa phong thủy, lại là bậc đại nho.
Người kế tiếp là Thái phó Trần Quang Diệu cũng gốc ở Nghệ An, lúc đó đang trấn
giữ Nghệ An.
Bản thân vua Quang Trung, tổ phụ ba đời về trước cũng gốc họ Hồ ở đất Nghệ.
Theo tục lệ các nhà vương giả xưa, khi chết vẫn luôn muốn được trở về quê cũ
(như triều đại nhà Trần xưa với quê hương ở vùng Tức Mạc, tỉnh Nam Định, đã

cho chúng ta thấy rõ điều này).
Một số nhà nghiên cứu có về lại nơi này thì thấy không có gì đặc biệt khả dĩ
khiến nhà Tây Sơn phải nặng lòng chú ý. Vùng núi Phượng Hoàng không rộng
lắm, chu vi chỉ độ 40 hécta trở lại, và tuy có tạo nên hình thể như một chiếc ngai,
nhưng mắt trước bị án ngữ bởi một cù lao con rùa nhỏ ở gần cầu cảng Vinh; phía
Đông nam có một dòng sông nhỏ vòng qua, và Bắc, Đông bắc là thành phố Vinh
hiện nay. Người dân Nghệ An gọi vùng này là Rú Quyết. Giả thiết như Phượng
Hoàng Trung đô lấy toàn bộ thành phố Vinh mà xây dựng thành quách lâu đài thì
có lý, còn nếu xét riêng Phượng Hoàng thì chỉ có giá trị như một pháo đài. Vậy
việc xây dựng kinh đô đã như thế nào?
Mặc dù Nguyễn Thiếp cùng với Thái phó Trần Quang Diệu đã bắt tay xây dựng
công trình này trước khi vua Quang Trung mất gần hai năm, nhưng ngày nay một
số chuyên gia tới kiểm chứng, chẳng hề thầy dấu tích thành xây dang dở ở đâu cả.
Phải chăng trong khoảng thời gian đó, Thái phó Trần Quang Diệu và Nguyễn
Thiếp chỉ mới bắt đầu cho bí mật đục đá, xây lăng? Như vậy có vẻ phù hợp với sự
kiện vua Quang Trung đã băng hà mà mãi tới ba tháng sau mới báo tang.
Việc Gia Long đào mả vua Quang Trung lấy đầu lâu đem về giam trong ngục
thất mà sao đương thời không ai thấy và biết ở chỗ nào?
Kể cả các giáo sĩ Gia Tô lúc đó luôn luôn bám sát sự hành quyết các tướng lãnh
Tây Sơn tại Phú Xuân cũng không ghi nhận gì về điều này. Bí mật, cho đến nay,
vẫn còn nguyên về lăng mộ vua Quang Trung.
Do đó sự tìm kiếm di mộ vua Quang Trung quả thực mang một ý nghĩa cực kỳ
trọng đại vậy!

×