Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Những điều ít biết về vương triều của Mai Hắc Đế doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (145.37 KB, 10 trang )

Những điều ít biết về vương triều của Mai Hắc Đế

Không chỉ có những hiểu lầm về cuộc đời và sự nghiệp của vị hoàng đế trong
thời kỳ chống Bắc thuộc mà việc nhìn nhận, đánh giá về Mai Hắc Đế cũng có
những sai lệch. Bên cạnh đó còn có những dữ liệu ít được biết đến về cá nhân ông
cũng như vương triều do ông sáng lập ra.

1. Nhìn nhận sai lầm và việc đánh giá lại

Bộ chính sử đầu tiên viết về Mai Hắc Đế là Đại Việt sử ký toàn thư do Ngô Sĩ
Liên và các sử thần triều Hậu Lê biên soạn, trong đó có đoạn viết sơ lược như sau:
“Năm Nhâm Tuất [722] (Đường Huyền Tông, Khai Nguyên năm thứ 10), tướng
giặc là Mai Thúc Loan chiếm giữ châu, xưng là Hắc Đế, bên ngoài liên kết với
người Lâm Ấp, Chân Lạp, số quân nói là có 30 vạn. Đường đế sai Nội thị Tả giám
môn Vệ tướng quân là Dương Tư Húc và Đô hộ là Nguyên Sở Khách đánh dẹp
yên được”.

Đánh giá sai lầm về tính chất của cuộc khởi nghĩa và vai trò của Mai Thúc Loan
của các nhà sử học Hậu Lê được cho là bị ảnh hưởng của sách Đường thư khi
tham khảo tư liệu để viết về Kỷ thuộc Tùy Đường của bộ Đại Việt sử ký toàn thư.

May mắn là sai sót đó đã được các nhà sử học sau đó chỉnh lý, sửa chữa; trong
Việt giám thông khảo tổng luận viết năm Giáp Tuất (1514), nhà sử học Lê Tung
viết: “Mai Hắc Đế nổi lên từ châu Hoan, căm giận ngược chính của Sở Khách, cất
quân để đánh, phía Nam giữ đất Hải Lĩnh, phía Bắc chống lại nhà Đường, có thể
gọi là bậc vua hào kiệt”.

Còn Ngô Thì Sĩ trong cuốn Việt sử tiêu án chỉ viết ngắn gọn: “Người châu
Hoan là Mai Thúc Loan giữ châu, xưng là Hắc Đế, bên ngoài giao kết với nước
Lâm Ấp và Chân Lạp, có đến 30 vạn quân. Nhà Đường sai tướng quân là Dương
Tư Húc đánh bình được. Thúc Loan người làng Hương Lãm, huyện Nam


Đường… Đương thời nội thuộc, Mai Hắc Đế không chịu bọn ngược lại kiềm thức,
cũng là người xuất chúng trong đám thổ hào”.

Bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục thời Nguyễn viết về Mai Thúc
Loan như sau: “Năm Nhâm Tuất [722] (Đường Huyền Tông năm Khai Nguyên
thứ 10). Tháng 7, mùa thu, ở Hoan Châu, Mai Thúc Loan giữ lấy châu, tự xưng
đế”.

Các cuốn sách sử sau đó như Đại Việt sử ký tiền biên, Việt sử cương mục tiết
yếu, Đại Nam nhất thống chí dù ghi chép không nhiều nhưng cũng có những
đánh giá chân thực về Mai Thúc Loan và cuộc khởi nghĩa do ông lãnh đạo.

Như vậy theo quan điểm của sách sử phương Bắc, cuộc khởi nghĩa của Mai
Thúc Loan là “làm phản”, “làm loạn”, là “giặc”, tuy nhiên có sách thì không dùng
từ “giặc” mà sử dụng các từ để chỉ về một thủ lĩnh có uy tín trong dân chúng như
sách: Tân Đường thư, Tục tư trị thông giám trường biên, Tống sử giám, Tống
danh thần tấu nghị gọi Mai Thúc Loan là “An Nam Man cừ”.

Các sách như Cựu Đường thư, Sách phủ nguyên qui, Quảng Tây thông chí gọi
ông là “An Nam thủ lĩnh” hoặc “An Nam nhân” như theo sách Khâm định tục
thông chí.

2. Mai Hắc Đế là người đầu tiên xây dựng liên minh quân sự với lân bang

Quy mô khởi nghĩa của Mai Thúc Loan rất rộng, theo dã sử, ông đã kêu gọi dân
chúng ở 32 châu cùng nổi dậy hưởng ứng, đó là một vùng rộng lớn vượt ra ngoài
phạm vi của Hoan Châu (vùng Nghệ -Tĩnh) bao quát gần như cả lãnh thổ nước ta
khi đó, một số châu ki mi ở miền núi và có thể là một phần đất nay thuộc nam
Trung Quốc.


Để tăng cường lực lượng trong cuộc chiến chống giặc Đường, Mai Hắc Đế còn
cho người đi thông hiếu với một số nước láng giềng và thu được kết quả tốt.

Sách Tân đính hiệu bình Việt điện u linh viết: “Năm sau, năm Giáp Dần (713),
Tiết Anh, Hoắc Đan phụng chỉ của Mai Thúc Loan đi tuyên dụ hai nước phiên.
Hai nước phiên này lâu nay bị khổ nhục vì nhà Đường, đến nay thấy nhà vua cáo
dụ, đều nghe theo mệnh lệnh. Vua Lâm Ấp Phạm Hồ Dĩnh sai tướng Chư Hương
An đem quân 10 vạn. Vua Chân Lạp là Hề A Khiêm sai tướng là Tham Ninh Na
đem quân 10 vạn đến hội với quân ta. Nhà vua vì có người phương xa đến chầu ở
triều đình, cho nên uy danh càng sáng tỏ. Người nhà Đường, kẻ nào kẻ nấy dần
dần bỏ trốn về Trung Quốc”.

Về việc liên minh quân sự này, các tư liệu chép khác nhau, có sách viết rằng nó
diễn ra trước khi cuộc khởi nghĩa của Mai Thúc Loan giành thắng lợi, có sách
chép diễn ra khi cuộc khởi nghĩa đã gần thắng lợi và sau đó quân đội nước ngoài
còn ở lại cho đến khi vương triều họ Mai sụp đổ.

Ngoài ra một số tư liệu còn cho biết thêm có cả quân của nước Kim Lân đến hỗ
trợ cho Mai Thúc Loan (Kim Lân được một số nhà nghiên cứu cho rằng là một
vương quốc cổ là vùng đất ngày nay thuộc Malaysia).

Sử sách Trung Quốc cũng ghi chép về liên minh quân sự này: “An Nam có Mai
Thúc Loan làm phản, xưng Hắc Đế, dấy dân chúng 32 châu, bên ngoài liên kết với
các nước Lâm Ấp, Chân Lạp, Kim Lân, chiếm giữ vùng Hải Nam, quân chúng có
40 vạn” (Tân Đường thư), “thủ lĩnh An Nam là Mai Huyền Thành làm phản, tự
xưng Hắc Đế cùng nước Lâm Ấp, Chân Lạp thông mưu hãm An Nam phủ” (Phủ
nguyên quy)…

Có thể thấy Mai Thúc Loan chính là người đầu tiên trong lịch sử Việt Nam có
chủ trương và thực hiện thành công việc liên minh với các nước láng giềng trong

cuộc chiến chống xâm lược, bảo vệ chủ quyền đất nước. Điều này đã được các
triều đại sau này kế thừa, học tập như trường hợp liên minh Đại Việt- Champa thời
Trần trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông, hay liên minh giữa nghĩa quân
Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo với quân của nước Ai Lao (thuộc lãnh thổ Lào ngày
nay).

3. Mai Hắc Đế tên thật là gì?

Sử sách thường ghi rằng Mai Hắc Đế tên thật là Mai Thúc Loan, nhưng thực ra
Thúc Loan chỉ là tên tự của ông. Trong sách Tân đính hiệu bình Việt điện u linh có
viết về câu chuyện sinh hạ thần kỳ và nguồn gốc tên gọi của ông như sau:

“Khi sinh nhà vua, bà mẹ nằm mộng thấy một người thiếu phụ mình mặc áo đỏ,
tự xưng là Xích Y sứ giả, tay cầm một viên ngọc kê sơn bích, nói rằng: “Cho bà
cái này, nên dùng làm vật báu”. Bà Vương Thị xem viên ngọc ấy thì thấy giống
quả trứng gà nhưng to hơn, năm sắc óng ánh lóe cả mắt, bèn giơ tay đón lấy, bỗng
nhiên cầm hụt, ngọc rơi xuống đất vỡ tan, nhân đó giật mình tỉnh dậy.

Khi sinh ra, ở đùi trái Thúc Loan có vết xanh đen giống như một đồng tiền. Mẹ
Thúc Loan đem chuyện trong mộng nói với cha Thúc Loan. Cha cậu lấy làm lạ
bèn giải thích rằng ngọc nhận ở tay bỗng nhiên rơi xuống đất vỡ tan, bắn tung tóe,
có tiếng kêu vang vang, đó là cái ý tiếng tăm vang dậy, chấn động người đời, còn
con gà đứng đầu loài có cánh, lại có thêm năm sắc lóe mắt, dùng để làm vật báu,
có cái điềm lành của con linh điểu mang năm đức tốt. Ông bèn đặt tên cho chú bé
mới sinh là Phượng, tên tự là Thúc Loan. Đó là để ghi lại cái điềm được thấy ở
trong giấc mộng vậy”.

Như vậy Mai Hắc Đế tên thật là Mai Phượng, tên tự là Thúc Loan. Tên tự là tên
theo âm Hán Việt hay còn gọi là tên chữ do một cá nhân tự đặt cho mình, cũng có
khi là do bậc bề trên đặt cho. Tên tự dựa vào nghĩa của tên chính (tên húy) hoặc có

ý nghĩa liên quan đến tên chính hay chứa đựng tên chính và việc dùng tên này
thường để xưng hô với bạn bè, người ngang vai.

Trong thư tịch cổ của Trung Quốc phần lớn cũng đều chép Mai Hắc Đế tên là
Mai Thúc Loan, chỉ có một số ít sách như Cựu Đường thư viết tên ông là Mai
Huyền Thành hay Tân Đường thư (phần Khảo chứng) viết là Mai Nguyên Thành.

4. Vương triều của Mai Hắc Đế tồn tại trong thời gian bao nhiêu năm?

Chính sử và hầu hết các tài liệu của nước ta từ bộ chính sử đầu tiên là Đại Việt
sử ký toàn thư đến bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục của nhà Nguyễn
đều dựa theo thư tịch Trung Quốc, chủ yếu là Đường thư mà viết rằng cuộc khởi
nghĩa của Mai Thúc Loan nổ ra vào năm Khai Nguyên thứ 10 (tức năm 722) và
sau đó không lâu nhà Đường cho quân sang đàn áp, cuộc khởi nghĩa nhanh chóng
thất bại.

Tuy nhiên thực chất cuộc khởi nghĩa do Mai Thúc Loan nổ ra sớm hơn và tồn
tại trong một thời gian dài. Theo sách An Nam chí lược do Lê Tắc biên soạn vào
đời Trần trong thời gian sống lưu vong tại Trung Quốc, ở phần nói về viên tướng
đã đàn áp cuộc khởi nghĩa chống Đường là Quang (Nguyên) Sở Khách thì năm
Mai Thúc Loan nổi dậy là năm đầu niên hiệu Khai Nguyên, mà theo lịch thì đó là
năm Qúy Sửu (713), đoạn viết đó như sau: “Nguyên Sở Khách, người Giang Lăng,
năm đầu niên hiệu Khai Nguyên đổi làm An Nam đô hộ, cùng Dương Tư Húc dẹp
yên cuộc nổi loạn của người Man là Mai Thúc Loan”.

Đặc biệt trong cuốn Tân đính hiệu bình Việt điện u linh cũng chép rõ ràng về
thời điểm Mai Thúc Loan khởi nghĩa, chiếm châu huyện và xưng đế là vào “năm
Quý Sửu mùa hạ, tháng tư, vào thời Đường Huyền Tông, niên hiệu Khai Nguyên
thứ nhất”.


Sau thắng lợi, Mai Thúc Loan đã xưng đế, xây dựng kinh đô tại vùng Sa Nam
(nay thuộc Nam Đàn, Nghệ An) thuộc trị sở của châu Hoan và đặt tên kinh đô là
Vạn An như một cách đối chọi lại với kinh đô Trường An của nhà Đường. Ngoài
ra xung quanh kinh đô là hệ thống các đồn lũy, căn cứ hỗ trợ, bảo vệ là Vệ Sơn,
Hùng Sơn, Liên Sơn…

Hiện nay các địa danh ở vùng Sa Nam như Cồn Trận, Đồng Bắn, đồi Guông
Cung, Cồn Ngự, truông Cắm Cờ… phản ánh phần nào quy mô cũng như sự bố trí
lực lượng của Mai Thúc Loan. Để quản lý điều hành, ông còn thiết lập bộ máy
quan lại gồm hai ban văn thần, võ tướng.

Chính quyền của Mai Thúc Loan tồn tại đến năm Qúy Hợi (723), sau khi nhà
Đường cho một lực lượng lớn kéo sang đàn áp, kinh đô Vạn An thất thủ, các vua
triều Mai lần lượt tử trận trong năm này. Riêng về Mai Thúc Loan, sách Tân đính
hiệu bình Việt điện u linh viết: “Nhà vua dấy binh năm Qúy Sửu, mất năm Nhâm
Dần, ở ngôi báu mười năm rồi chết”.

5. Biệt danh của các vua triều Mai

Triều Mai tồn tại gần 10 năm, truyền qua 3 đời vua. Điều thú vị là các vị vua
của vương triều này đều có biệt danh

- Mai Hắc Đế: Có tài liệu nói sau khi lên ngôi hoàng vua, Mai Thúc Loan xưng
là Mai Đại Đế, nhưng dân gian vẫn quen gọi ông là Mai Hắc Đế (vua đen họ Mai)
vì ông có nước da màu đen. Nhiều tài liệu dã sử, truyền thuyết, thần tích đều viết
tương tự như vậy khi cho rằng Mai Thúc Loan đặt hiệu là Mai Hắc Đế.

Trong bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục có viết: “người Mai Phụ,
huyện Thiên Lộc, thuộc Hoan Châu, bây giờ thuộc huyện Can Lộc, phủ Đức Thọ,
tỉnh Hà Tĩnh. Thúc Loan người đen lắm nên người Hoan Châu gọi là Hắc Đế”.


Các thư tịch, sách sử cổ của Trung Quốc cũng viết rằng: “Khai Nguyên năm
đầu, thủ lĩnh An Nam Mai Huyền Thành làm phản, tự xưng Hắc Đế” (Cựu Đường
thư), “Khai Nguyên năm đầu, thủ lĩnh người Man ở An Nam (An Nam Man cừ) là
Mai Thúc Loan làm phản, xưng Hắc Đế” (Tân Đường thư), “Khai Nguyên năm
đầu, thủ lĩnh An Nam Mai Thúc Loan làm phản, xưng hiệu Hắc Đế” (Quảng Tây
thông chí)…

Tuy nhiên cũng có cách giải thích khác, theo sách Tân đính hiệu bình Việt điện
u linh: “Mai Thúc Loan bèn đem quân chiếm châu thành, chia quân đóng giữ.
Quân thần đến mừng đều xin Mai Thúc Loan lên ngôi báu. Mai Thúc Loan bèn lên
ngôi hoàng đế ở phía nam Hương Lãm, tự cho mình là đức “thủy”, xưng là Hắc
Đế”.

Theo thuyết Ngũ hành, Dịch lý thì màu đen tượng trưng cho nước, mà Mai
Thúc Loan vốn xuất thân ở gia đình nấu muối vùng ven biển nên có thể ông tự cho
là mang tính chất của nước.

- Mai Thiếu Đế: Tên thật là Mai Thúc Huy, con út của Mai Hắc Đế, sau khi vua
cha mất, kinh đô Vạn An thất thủ, tướng sĩ đã tôn ông lên làm vua kế vị tại căn cứ
Hùng Sơn còn gọi là núi Đụn (nay thuộc thị trấn Nam Đàn, Nghệ An) vào giữa
tháng 9 năm Qúy Hợi (723). Mai Thúc Huy lên ngôi khi còn nhỏ tuổi nên được
gọi là Mai Thiếu Đế (Hoàng đế trẻ con, Hoàng đế nhỏ tuổi).

- Bạch Đầu Đế: Ông tên thật là Mai Kỳ Sơn, con thứ 3 của Mai Hắc Đế. Tháng
10 năm Qúy Hợi (723), khi nghe tin căn cứ Hùng Sơn thất thủ, em trai là Mai
Thiếu Đế tử trận nên ông được nhân dân tôn lên làm vua ở Điều Yêu (nay thuộc
An Hải, huyện An Lão, Hải Phòng) để tiếp tục lãnh đạo cuộc chiến chống giặc
Đường ở vùng duyên hải miền Đông Bắc. Do có mái tóc bạc bẩm sinh nên nhân
dân thường gọi ông là Bạch Đầu Đế (Hoàng đế đầu bạc).


6. Số phận các vua triều Mai

- Mai Hắc Đế: Truyền thuyết, dã sử không thống nhất khi nói về cái chết của
Mai Hắc Đế, có thuyết nói ông bị tướng giặc là Dương Tư Húc chém cụt đầu tại
Hùng Sơn, thuyết khác cho rằng ông bị giặc sát hại khi chúng chiếm được kinh đô
Vạn An, thuyết thì nói ông bị thương được quân lính đưa lên căn cứ Hùng Sơn thì
mất, thuyết thì cho rằng khi rút lên Hùng Sơn, ông bị rắn độc cắn mà qua đời.

Sách Tân đính hiệu bình Việt điện u linh cho biết vua đã tử trận: “Vua nhà
Đường nghe tin Mai Hắc Đế chống lại mệnh lệnh của mình, bèn sai quan thị nội
Dương Tư Húc làm chức Tả giám môn vệ tướng quân, Quang Sở Khách làm Đô
hộ phủ, đốc suất 75 doanh thủy bộ, người ngựa hơn 30 vạn, hai đường thủy lục
cùng tiến, xâm phạm vào thành Long Biên. Quan và tướng của Mai Hắc Đế bị
thua trận, quân chết không kể xiết. Người nhà Đường thừa thắng đến vây bức phủ
thành của nhà vua. Nhà vua bị hãm trận mà chết. Quốc thống nước ta lại dứt”.

Còn theo sách sử của Trung Quốc thì quân giặc đã sát hại ông khi chúng tấn
công nghĩa quân, cho dù cách viết có khác nhau: “Sai Tư Húc đem binh đánh dẹp.
Tư Húc đến Lĩnh Biểu, chiêu mộ con em các thủ lĩnh được binh mã hơn 10 vạn,
theo đường cũ của Phục Ba mà tiến đánh xuất kỳ bất ý. Huyền Thành nghe tin sợ
hãi, không kịp đề ra mưu kế, nên bị quan quân bắt, chém tại trận, giết hết bọn
chúng, chất thây làm kình quán rồi rút về” (Cựu Đường thư); “[Khai Nguyên] năm
thứ 10, tháng 7, người An Nam là Mai Thúc Loan làm phản, bị giết” (Tân Đường
thư)…

- Mai Thiếu Đế: Theo dã sử và truyền thuyết địa phương ở Nghệ An thì khi vua
cha mất, Mai Thiếu Đế giữ căn cứ Hùng Sơn để ngăn giặc, chống trả quyết liệt các
đợt tấn công của quân Đường. Cuối cùng do lực lượng quá chênh lệch, căn cứ
Hùng Sơn thất thủ, Mai Thiếu Đế bị tướng giặc Dương Tư Húc giết chết, mấy

ngàn binh sĩ còn lại chiến đấu đến sức lực cuối cùng và đều tử tiết vì đất nước.

Hiện nay tại xã Vân Diên, huyện Nam Đàn (Nghệ An) vẫn còn miếu mộ vua
Mai Hắc Đế và Mai Thiếu Đế.

- Bạch Đầu Đế: Khi lên ngôi, ông cùng chị gái là Mai Thị Cầu (Ngọc Chân
công chúa) lấy Điều Yêu làm căn cứ đánh giặc. Về sau trong một trận đánh cuối
năm Qúy Hợi (723), Mai Kỳ Sơn trúng tên độc mà mất, chị ông cũng uống thuốc
độc rồi nhảy xuống một lạch nước tự vẫn, đó là vào ngày mồng 7 tháng Chạp.

Hiện mộ của Bạch Đầu Đế và bà Mai Thị Cầu ở xã Quốc Tuấn, huyện An Hải
(Hải Phòng) vẫn được nhân dân chăm sóc, hương khói.

Dù còn một số vấn đề về cuộc khởi nghĩa Hoan Châu do Mai Thúc Loan lãnh
đạo và vương triều do ông thành lập cần làm sáng tỏ, xác minh và cần tiếp tục
nghiên cứu thêm nhưng những gì được biết cho thấy vai trò quan trọng của Mai
Thúc Loan và quy mô lớn lao của khởi nghĩa Hoan Châu trong thời chống Bắc
thuộc, giải phóng đất nước, giành độc lập dân tộc.

×