Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.25 KB, 3 trang )
Tìm lại giấc ngủ sâu cho người cao tuổi
Người cao tuổi thường nói “Giấc ngủ là vàng; Ăn được ngủ được là tiên”. Đúng
vậy, ăn được ngủ được là một yếu tố quan trọng của sự nuôi dưỡng và phát triển
cơ thể. Nếu mất ngủ nhẹ thì trằn trọc, chập chờn, dễ tỉnh. Nặng thì khi thức khi
tỉnh hoặc là mất ngủ thường xuyên, rồi xuất hiện các chứng chóng mặt, nhức đầu,
hồi hộp, hay quên, ăn uống kém.
Mất ngủ được y học cổ truyền gọi là chứng “thất miên”, phần nhiều lệ thuộc vào
chức năng thần kinh. Bệnh do nhiều nguyên nhân như tinh thần kích động, lo nghĩ
khiếp sợ, rối lọan tâm trí, đau ốm để thận âm hư tổn không nuôi được tâm tỳ mà
gây thành đàm nhiệt bên trong, mạch sác hữu lực. Phương pháp điều trị cần chia ra
hai thể chứng hư và thực.
Hư chứng: do âm huyết thiếu tổn thương đến tâm tỳ và can thận, cách chữa phải
bổ khí huyết tư âm giáng hỏa.
Ngũ vị tử.
Thực chứng: do đờm nhiệt nhiều gây rối loạn bên trong làm trở ngại tạng phủ.
Cách chữa phải thông nhuận hòa trung thanh nhiệt hóa đàm, bệnh thực chứng lâu
ngày không khỏi làm mệt mỏi dễ dẫn đến hư chứng. Hai thể hư thực lại phân ra 3
lọai khác nhau:
Thể tâm tỳ lưỡng khuy: do tâm tỳ yếu không nuôi được tâm nên sinh bệnh ngủ mơ
màng, nhanh tỉnh, hay hồi hộp, hay quên, ăn uống kém, sắc mặt sạm, rêu lưỡi
nhợt, mạch tế nhược. Phép chữa: bổ dưỡng tâm tỳ để sinh khí huyết. Dùng bài
thuốc “Quy tỳ thang gia giảm” gồm: đảng sâm 12g, bạch truật 10g, xuyên quy và
long nhãn mỗi vị 10g; đại táo 3 quả, mộc hương 5g (mài sống), gừng tươi 3 lát,
phục thần 12g, viễn chí 10g, ngũ vị tử 5g, bá tử nhân 10g, táo nhân (sao đen) 12g,
tri mẫu 10g, xuyên khung 5g, phục linh 10g, cam thảo 3g. Trị hồi hộp mơ màng,
buồn phiền mất ngủ, dưỡng tâm an thần ích trí, mồ hôi trộm.
Thể đàm nhiệt: do đàm nhiệt nhiễu động gây mất ngủ, đầu nặng, bụng đầy, tinh
thần buồn bã, mắt hoa, miệng đắng, rêu lưỡi vàng, mạch hoạt sác. Phép điều trị:
thanh nhiệt hóa đàm. Dùng bài “Ôn đởm thang” gồm bán hạ chế 10g, trần bì 10g
để lý khí hóa đờm, phục linh và chỉ thực mỗi vị 9g, trúc nhự (cạo lấy phần vỏ xanh