Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Tiểu luận: Phân tích vai trò của thị trường chứng khoán ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (382.46 KB, 18 trang )

Tiểu luận: Phân tích vai trò của thị trường chứng khoán. Đánh giá sự phát triển
của thị trường chứng khoán Việt Nam 10 năm qua. Bình luận về nhận định: “Thị trường
chứng khoán Việt Nam như 1 sòng bạc”
* *
*
Mục Lục
 I)Cơ sở lý thuyết- tổng quan về thị trường chứng khoán
 II) Đánh giá sự phát triển của TTCKVN trong 10 năm qua
 III) Vai trò của TTCKVN đối với nền kinh tế
 IV) Bình luận nhận định: “Thị trường chứng khoán Việt Nam như 1 sòng bạc”
Chương I: Cơ sở lý thuyết về TTCK
I- Khái niệm:
Thị trường chứng khoán (TTCK) là nơi diễn ra việc trao đổi, giao dịch mua bán các loại
chứng khoán nhằm mục đích kiếm lời.
KN TTCK kô xác định 1 không gian địa điểm cụ thể nào cả, mà có thể là bất cứ đâu nơi
người ta thực hiện mua bán trao đổi các chứng khoán, thậm chí là trên internet.
II- Đặc điểm :
1. Vị trí của TTCK trong TTTC:
Trên TTCK giao dịch 2 loại công cụ tài chính: công cụ trên thị trường vốn và công cụ
trên thị trường nợ. Trong đó, TTCK là hình ảnh đặc trưng của thị trường vốn.
TTCK là hạt nhân trung tâm của thị trường tài chính , nơi diễn ra quá trình phát hành,
mua bán các công cụ nợ và công cụ vốn.
2. Phân loại TTCK:
- Thị trường sơ cấp : nơi giao dịch các CK phát hành lần đầu giữa nhà phát hành và nhà
đầu tư.
Thị trường thứ cấp : nơi giao dịch các CK đã phát hành ở thị trường sơ cấp giữa các nhà
đầu tư với nhau.
3. Các chủ thể tham gia TTCK:
a) Nhà phát hành: Cty cổ phần, quĩ đầu tư
b) NĐT :
- Profession: những NĐT đưa ra quyết định mua bán ck dựa vào các phân tích kỹ


thuật , số liệu khoa học.
- Free rider : đưa ra quyết định theo tâm lý thị trường, theo tin đồn, theo động thái của
các NĐT profession.
- "Vĩ nhân": những người mua bán ck theo xu hướng ngược với xu hướng chung của thị
trường.
c) Các tổ chức kinh doanh trên TTCK
-NHTM: ở Vn, NHTM đóng vai trò quan trọng trong việc kd ck, đặc biệt là trái phiếu
chính phủ.
- Cty chứng khoán : được lập ra để chuyên sâu vào thực hiện các nghiệp vụ liên quan
đến ck:
+ Môi giới
+ Quản lý danh mục đầu tư
+ Tư vấn đầu tư
+ Tự doanh ck
+ bảo lãnh phát hành ck
d) Các cơ quan quản lý và giám sát TT
- Cơ quan quản lý Nhà nước : ở VN: quản lý cấp cao nhất : Uỷ ban CK Nhà nước
- Sở giao dịch ck
- Hiệp hội Nhà kinh doanh ck
- Tổ chức lưu ký và thanh toán bù trừ ck.
- Tổ chức tài trợ ck
- Cty đánh giá hệ số tín nhiệm (Standard& Poor, Moody, Fitch ) : cung cấp các dịch
vụ đánh giá năng lực trả cả gốc và lãi đúng hạn, hoặc tiềm lực tài chính của tổ chức phát hành.
4. Đặc điểm khác của Thị trường chứng khoán:
- Được đặc trưng bởi hình thức tài chính trực tiếp, người cần vốn và người cung cấp
vốn đều trực tiếp tham gia thị trường, giữa họ không có trung gian tài chính;
- Là thị trường gần với Thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Mọi người đều tự do tham gia
vào thị trường. Không có sự áp đặt giá cả trên thị trường chứng khoán, mà giá cả ở đây được
hình thành dựa trên quan hệ cung – cầu;
- Về cơ bản là một thị trường liên tục, sau khi các chứng khoán được phát hành trên thị

trường sơ cấp, nó có thể được mua đi bán lại nhiều lần trên thị trường thứ cấp. Thị trường
chứng khoán đảm bảo cho các nhà đầu tư có thể chuyển chứng khoán của họ thành tiền mặt bất
cứ lúc nào họ muốn.
III- Vai trò của thị trường chứng khoán:
Cụ thể :
1. Với doanh nghiệp :
a) Cung cấp 1 kênh huy động vốn cho các DN.
Sơ đồ các nguồn huy động vốn của doanh nghiệp:
Trong đó vốn chủ sở hữu từ cổ phiếu và vốn vay từ trái phiếu chính là huy động từ
TTCK.
Kênh huy động vốn quan trọng nhất đối với các DN là thông qua vay ngân hàng, song
việc vay vốn từ ngân hàng đòi hỏi nhiều qui trình kiểm tra chặt chẽ để thẩm định khả năng
thanh toán của DN, đặc biệt đòi hỏi DN phải cung cấp các tài liệu về tình hình hoạt động sản
xuất kinh doanh cho NH, do đó phương thức này gây ra một số bất tiện nhất định.
Trong khi đó, TTCK, với sự linh hoạt của nó, khắc phục được nhược điểm của hệ thống
NH, đã trở thành một kênh huy động vốn quan trọng của DN nói riêng và của toàn bộ nền kinh
tế nói chung.
Trong 2 nguồn cổ phiếu và trái phiếu, vốn có đựơc từ phát hành cổ phiếu kô phải là 1
nguồn tài chính chiếm tỷ trọng lớn đối với 1 doanh nghiệp. Trong khi đó, số lượng trái phiếu
phát hành có thể ít hơn so với số lượng cổ phiếu phát hành, song giá trị lại cao hơn nhiều lần
giá trị khối cổ phiếu. Trên thực tế vốn huy động từ trái phiếu công ty chiếm một tỷ lệ khá cao
trong nguồn vốn của doanh nghiệp.
b) Tạo điều kiện tách biệt giữa sở hữu và quản lý DN :
Với một nền kinh tế, luôn tồn tại rất nhiều người vì nhiều lý do sở hữu lượng vốn lớn,
song điều đó không phải lúc nào cũng đi liền với năng lực quản lý và sử dụng lượng vốn trên
cho hiệu quả. Với nền kt không có thị trường ck, người tham gia góp vốn vào DN thì phải tham
gia điều hành doanh nghiệp. Song vì có thể phát hành cổ phiếu và trái phiếu ra công chúng, DN
sẽ có thể huy động vốn từ một bộ phận không nhỏ NĐT chỉ góp vốn mà không tham gia quản
lý DN. Đặc điểm này giúp thúc đẩy sự chuyên môn hoá trong hoạt động quản lý doanh nghiệp,
tăng hiệu quả điều hành DN.

2. Với các nhà đầu tư:
Cung cấp môi trường đầu tư cho NĐT:
Một người khi nắm giữ tiền nhàn rỗi trong tay luôn muốn dùng số tiền đó để đầu tư
sinh lời.Về cơ bản các NĐT có các khoản mục sau để lựa chọn đầu tư vào :
- Bất động sản (BĐS)
- Vàng
- Ngoại tệ
- Cổ phiếu, trái phiếu, ck phái sinh.
BĐS đòi hỏi vốn lớn và trường . Vàng là kênh đầu tư an toàn song cho lợi nhuận
thấp . Việc đầu tư vào mua bán ngoại tệ nhằm thu lãi từ biến động tỷ giá (arbit) bị hạn chế
do chính sách quốc gia (VD: ở Vn chưa cho phép NĐT VN đầu tư vào các tài sản tài chính
trên thị trường thế giới, bao gồm cả kinh doanh arbitrage)
Do đó, dễ thấy thị trường CK với các loại giấy tờ như cổ phiếu, trái phiếu và các
CK phái sinh có mệnh giá thấp và số lượng lớn, phương thức và khối lượng thanh toán đều
linh hoạt đã cung cấp một sân chơi lớn cho các NĐT.
3. Với nền kinh tế:
a) Tạo điều kiện cho việc tích tụ và tập trung vốn,chuyển thời hạn của vốn, tái phân
phối vốn công bằng hơn.
TTCK là kênh dẫn vốn từ nơi có vốn tới nơi cần vốn, nhờ đó mà mỗi đồng vốn đựơc sử
dụng hiệu quả hơn.
- Khả năng tích tụ và tập trung vốn của TTCK là rất lớn , nó có thể thu hút vốn từ :
+ Khu vực NĐT có nguồn vốn lớn.
+ Nguồn vốn trong dân cư
+ Nguồn vốn từ nước ngoài.
- Đặc điểm của nguồn vốn trong dân cư : Qui mô lớn song nhỏ lẻ, rời rạc. Với TTCK
,những NĐT có vốn nhỏ lẻ vẫn có thể đầu tư vào các CK nhờ mệnh giá của CK là khá nhỏ,
khối lượng CK được giao dịch rất linh hoạt . Nhờ vậy có thể tích tụ được 1 khối lượng lớn vốn
không chỉ từ các nguồn lớn mà còn từ rất nhiều NĐT nhỏ lẻ nữa.
- Không những thu hút đựơc nguồn vốn từ dân cư mà còn thu hút đựơc vốn từ nước
ngoài, nhờ chính sách mở cửa của NN, cho phép NĐT nước ngoài tham gia TTCK.

- Người có vốn đem đi đầu tư thường muốn có thời hạn đầu tư ngắn để giảm rủi ro .
Trong khi đó các nhà phát hành ck lại muốn huy động vốn với thời hạn dài. Cùng với hệ thống
NH, TTCK đã thực hiện rất tốt việc chuyển thời hạn của vốn để 2 yêu cầu trên hoà hợp với
nhau.
-Vì TTCK là 1 kênh dẫn vốn trực tiếp, NĐT tự mình lựa chọn sẽ đầu tư vốn của mình
vào dn nào, hiển nhiên họ sẽ muốn tìm những DN có tình hình hoạt động kinh doanh tốt, hứa
hẹn phát triển mạnh mẽ. Do đó, trên TTCK, chỉ những DN nào chứng minh đựơc năng lực hoạt
động của mình mới có nhiều khả năng nhận đựơc vốn. Điều này tạo nên sự cạnh tranh mạnh
mẽ giữa các DN với nhau, cộng thêm hiệu quả của thông tin hoàn hảo trên TTCK, vốn luôn
đựơc ưu tiên rót vào những nơi sử dụng nó 1 cách tối ưu .
b)Cung cấp một dự báo tuyệt vời về các chu kỳ kinh doanh trong tương lai :
Diễn biến của ttck được cho là luôn đi nhanh hơn diến biến chu kỳ KD của nền kt, do
TT này có sự giao dịch sôi động và hiệu quả, nên nó phản ánh sớm nhất và rõ nét nhất những
thay đổi trong môi trường kt vĩ mô. Bởi vậy nó đựoc coi là hàn thử biểu hữu hiệu của nền kinh
tế.
c) Tạo điều kiện tái cấu trúc nền kinh tế.
Tái cấu trúc nền kinh tế là một quá trình tổ chức lại nền kinh tế, làm thay đổi thành
phần hay cấu tạo của nền kinh tế, giúp nền kt phát triển theo chiều sâu, đối mặt được với những
biến động tiêu cực.
Trong hoạt động tái cấu trúc nền kt, mỗi giai đoạn lại cần huy động vốn với qui mô,
mục đích, phương thức khác nhau, do đó luôn cần những nguồn cung vốn dồi dào . Thêm vào
đó NN , nhân tố chìa khoá trong quá trình trên, có một phương thức huy động vốn hiệu quả và
tránh đựơc nhiều tác động tiêu cực đến nền KT chính là thông qua thị trường chứng khoán.
Như vậy TTCK , cùng với hệ thống NHTM là 1 nguồn cung cấp vốn lớn nhất cho nền kt, do đó
nó đóng vai trò quan trọng trong quá trình tái cấu trúc nền kt.
Mặt khác, trong quá trình tích tụ và phân phối vốn ở TTCK, dòng vốn sẽ không ngừng
biến đổi, lựa chọn chảy vào những ngành nghề kinh doanh đang phát triển tốt, hoặc hứa hẹn
nhiều tiềm năng .NN có thể sử dụng chính sách phù hợp để hướng các dòng vốn trên vào các
ngành chủ chốt , ưu tiên phát triển của nền kinh tế.
d) Hiệu quả quốc tế hoá của TTCK:

Việc mở cửa TTCK làm tăng tính lỏng và sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Điều này cho
phép các công ty huy động đựơc nguồn vốn rẻ hơn, tăng cường đầu tư từ nguồn tiết kiệm nước
ngoài, đồng thời tăng khả năng cạnh tranh quốc tế và mở rộng cơ hội kinh doanh cho các DN
trong nước.
4. Với cấp quản lý kinh tế:
Nơi thực thi các chính sách kinh tế vĩ mô của chính phủ, từ đó tác động lên toàn bộ
nền kinh tế.
NN có thể thông qua TTCK huy động các nguồn tc mà không tạo áp lực lạm phát, đồng
thời nó cũng là công cụ thực hiện các chính sách tiền tệ .
Ví dụ : Chính phủ có thể mua trái phiếu Chính phủ để tạo ra nguồn thu bù đắp thâm hụt
ngân sách mà không cần in thêm tiền , do đó không gây ra lạm phát. Đồng thời, khi xuất hiện
dấu hiệu cho thấy có quá nhiều tiền trong lưu thông, CP có thể bán trái phiếu để kiểm soát lạm
phát.
Ngoài ra, Chính phủ cũng có thể sử dụng một số chính sách, biện pháp tác động vào
TTCK nhằm định hướng đầu tư đảm bảo cho sự phát triển cân đối của nền kinh tế.
Chương II:“ Sự phát triển của TTCK VN 10 năm qua”
1. Sự ra đời của TTCKVN:
- UBCK VN ban hành Nghị định 75/CP ngày 28/11/1996.
- Chính phủ ban hành Nghị định 48/CP về CK và TTCK ngày 11/07/1998.
- Cùng ngày, CP cũng kí quyết định thành lập TT GD CK tại TP.HCM và HN.
2. Giai đoạn 2000 – 2005: giai đoạn chập chững biết đi của TTCK:
- TTGDCK Tp. HCM được đưa vào vận hành 20/07/2000.
- Phiên giao dịch đầu tiên 28/07/2000: chỉ có 2 DN niêm yết 2 loại cổ phiếu ( REE và
SAM) với số vốn 270 tỷ đồng và một ít TPCP.
- Từ khi thành lập đến năm 2005, thị trường luôn trong trạng thái gà gật, không có
biến động mạnh, ngoại trừ cơn sốt trong 4 tháng của năm 2001.VN Index ngày
25/04/2001 đạt mức cao nhất 571,04 điểm nhưng đến tháng 10 thì đã giảm 70%, chỉ
còn khoảng 200 điểm.
- Nói chung thì TTCK trong giai đoạn này chưa thu hút được sự quan tâm của đông
đảo công chúng và các diễn biến tăng giảm của thị trường chưa tạo ra tác động xã

hội mở rộng để có thể ảnh hưởng tới sự vận hành của nền kinh tế cũng như tới cuộc
sống của mỗi người dân.
- TTCK đang trong giai đoạn chuẩn bị tạo tiền đề cho sự phát triển với 2 sự kiện:
+ 19/02/2004: Chuyển UBCKNN vào Bộ Tài chính quản lý. Trước đó, 28/11/1996,
UBCKNN được thành lập và trực thuộc chính phủ, tuy nhiên, giai đoạn đầu TTCK
còn quá nhỏ bé, hoạt động khá sơ khai nên mô hình hoạt động chưa phù hợp và
chưa mang lại hiệu quả: chưa có sự gắn kết giữa các bộ, ban ngành liên quan để đưa
ra những chính sách phù hợp cho sự hoạt động của TTCK.
+ 08/03/2005: TTGDCK Hà Nội chính thức khai trương và đi vào hoạt động.
3. Giai đoạn 2006: sự phát triển đột phá của TTCK Việt Nam:
- Hoạt động giao dịch sôi nổi ở cả 3 sàn: SGD TP HCM
TTGDCKHN
TT OTC
- Trong vòng 1 năm:
+ Khối lượng vốn hóa tăng 15 lần: lên 13,8 tỷ USD (22,7% GDP)
+ VN Index cuối năm tang 146% so với đầu năm: từ hơn 300 điểm lên hơn 800
điểm.
+ Số công ty niêm yết tang 5 lần: từ 41 lên 193.
4. Giai đoạn 2007: TTCK bùng nổ:
- 3 tháng đầu năm: TTCK bùng nổ, VNIndex đạt mức đỉnh 1.170,67 điểm. Nguyên
nhân là do sức cầu tang đột biến.
- Ngày 01/07/2007 luật Chứng khoán chính thức có hiệu lực tạo khung pháp lý cho
hoạt động của TTCK. Từ đó thúc đẩy TTCK phát triển, tang cường khả năng hội
nhập vào TTTCQT.
- Qua 7 năm, với sự tăng trưởng của thị trường và hội nhập với TTCK Thế giới,
08/08/2007: SGDCK TP.HCM chính thức được khai trương.
5. Giai đoạn 2008: TTCK sụt giảm mạnh:
- CP đẩy mạnh cổ phần hóa DNNN, hàng loạt ngân hàng, cty chứng khoán, dn,…
phát hành TP,CP để tăng vốn điều lệ đã dẫn đến tình trạng thị trường có nguy cơ
thừa hàng.

- Giai đoạn từ tháng 1 đến tháng 6: thị trường giảm mạnh do tác động từ tác động
kinh tế vĩ mô: gia tăng lạm phát, chính sách thắt chặt tiền tệ, sự leo dốc của giá
xăng,giá dầu,…đã tác động tới tâm lý nhà đầu tư.
- Giai đoạn từ tháng 6 tới đầu tháng 9: phục hồi trong ngắn hạn nhờ vai trò dẫn dắt
của một số cổ phiếu blue chip như FPT, STB,DPM,… và đặc biệt là SSI với sức
cầu hỗ trợ từ đối tác nước ngoài.
- Giai đoạn từ tháng 9 đến tháng 12: thị trường lại rơi vào chu kỳ giảm do tác động
của khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Đáy mới thiết lập trong giai đoạn này là 286,85
điểm ngày 10/12/2008.
6. Giai đoạn 2009: sự phục hồi ấn tượng của TTCK:
- Nếu như 2008 được coi là một năm rất đáng quên khi các chỉ số liên tục sụt giảm
thì bước sang 2009, TTCK VN đã có sự phục hồi tương đối ấn tượng, không ít thời
điểm đã để lại dấu ấn quan trọng trong lịch sử 9 năm phát triển với những ký lục
mới. Có thể điểm lại một số cột mốc đáng ghi nhớ như sau: 24/02/2009, VNIndex
đã rơi xuống mức đáy 235,5 điểm, 22/10/2009 đã vươn tới đỉnh 624,10 điểm, mức
cao nhất của thị trường sau 394 phiên giao dịch.
- Năm 2009, quy mô TTCK phát triển mạnh mẽ. Đến hết tháng 11/2009, có 430
chứng chỉ quỹ được niêm yết, tổng giá trị vốn hóa lên 669 nghìn tỷ đồng. Thêm vào
đó là hàng loạt các DN lớn lên sàn làm nguồn cung trên thị trường ngày càng đa
dạng.
- 24 tháng 6, thị trường UpCOM: nơi giao dịch các loại chứng khoán chưa niêm yết
của các công ty đại chúng, được đặt tại SGDCK Hà Nội chính thức đi vào hoạt
động.
- Các công ty chứng khoán tung đòn bẩy tài chính hỗ trợ NDT.
- Xét về tốc độ tăng trưởng, TTCK VN được coi là có tốc độ tăng trưởng rất cao, tới
60- 70% nhưng lại có không ít bất ổn. TTCK phục hồi nhưng không bền vững: Chỉ
số VN Index giảm 22% từ đỉnh 633,2 điểm ngày 23/10 xuống mốc 490,6 điểm ngày
27/11. Khối lượng giao dịch từ tháng 11 đến hết năm sụt giảm mạnh. Càng về cuối
năm, thanh khoản của thị trường càng trở nên đáng lo ngại.
7. Giai đoạn 2010:

- TTCK từ đầu năm đến nay không có sự bứt phá nào đáng chú ý. Xu hướng chủ đạo
vẫn là đi ngang và giảm điểm.
- Nguyên nhân là do quá nhiều loại cổ phiếu được tung ra, thêm vào đó giá vàng
trong nước và quốc tế liên tục tăng, các NĐT chuyển từ chứng khoán sang vàng để
bảo toàn vốn.
Sau 10 năm, những gì đã đạt được của thị trường chứng khoán Việt nam khiến nhiều
người không khỏi ngạc nhiên.
- 2 Sở giao dịch
- 1 thị trường UPCoM
- Hơn 550 mã cổ phiếu niêm yết
- 105 CTCK, 46 công ty quản lý quỹ
- Gần 1 triệu tài khoản giao dịch (khoảng 25% là của nhà đầu tư nước ngoài)
- Trên 3.000 phiên giao dịch (tại HOSE là 2.327 phiên, HNX là 1.163 phiên) và tất cả
đều diễn ra an toàn.
Chương III: Vai trò của thị trường chứng khoán trong 10 năm qua:
1. Tập trung tích tụ vốn cho thị trường
Quy mô thị trường có bước tăng trưởng mạnh mẽ, vững chắc, từng bước đóng vai trò là
kênh dẫn vốn trung và dài hạn quan trọng, đóng góp tích cực cho sự nghiệp công nghiệp hóa –
hiện đại hóa đất nước. Trong suốt thời kỳ từ 2000-2005, vốn hóa thị trường chỉ đạt trên dưới
1% GDP. Quy mô thị trường đã có bước nhảy vọt mạnh mẽ lên 22,7% GDP vào năm 2006 và
tiếp tục tăng lên mức trên 43,7% vào năm 2007. Trước biến động của thị trường tài chính thế
giới và những khó khăn của nền kinh tế trong nước, chỉ số giá chứng khoán đã sụt giảm liên
tục trong năm 2008 và làm mức vốn hóa thị trường giảm hơn 50%, xuống còn 18%. Khi nền
kinh tế trong nước và thế giới bắt đầu hồi phục nhẹ từ quý II/2009, chỉ số giá chứng khoán đã
bắt đầu tăng trở lại cùng với số lượng các công ty niêm yết trên thị trường cũng gia tăng nhanh
chóng. Giá trị vốn hóa thị trường cổ phiếu tính đến cuối năm 2009 đã đạt 37,71% GDP. Ước
tính đến cuối năm 2010 sẽ đạt khoảng từ 40-50% GDP.
Hoạt động phát hành huy động vốn trên TTCK thực tế chỉ mới phát sinh từ năm 2006
trở lại đây. Trong năm 2006, có 44 công ty cổ phần thực hiện việc chào bán hơn 203 triệu cổ
phiếu và đến năm 2007, hoạt động phát hành mới thực sự bùng nổ, khi có gần 200 đợt phát

hành của 192 công ty và 4 ngân hàng thương mại được đăng ký với UBCKNN với tổng lượng
vốn huy động đạt gần 50.000 tỷ VND. Trong năm 2008, do sự suy giảm của TTCK, tổng số
vốn huy động chỉ đạt hơn 14.300 tỷ đồng thông qua hơn 100 đợt chào bán chứng khoán ra
công chúng. Thị trường hồi phục vào năm 2009 đã tạo điều kiện cho hoạt động phát hành qua
thị trường chứng khoán, đặc biệt là phát hành cổ phiếu. Tổng số vốn huy động qua phát hành
cổ phiếu năm 2009 đã tăng hơn 50% so với 2008, đạt 21.724 tỷ đồng.
Trong 5 năm trở lại đây, lượng vốn huy động qua TTCK đạt khoảng 300.000 tỷ đồng,
riêng năm 2007, tổng giá trị huy động vốn qua TTCK đạt 127 nghìn tỷ đồng, đã góp phần quan
trọng giúp Chính phủ và các doanh nghiệp huy động vốn trung và dài hạn để đầu tư phát triển,
mở rộng sản xuất kinh doanh, làm cho nền kinh tế bớt phụ thuộc vào tín dụng ngân hàng.

2. Hiệu quả của quốc tế hóa TTCK
Chúng ta biết rằng việc mở cửa TTCK làm tăng tình lỏng và cạnh tranh trên
thị trường quốc tế, cho phép các công ty có thể huy động nguồn vốn rẻ hơn,
tăng cường đầu tư từ nguồn tiết kiệm bên ngoài.
Theo các số liệu thống kê không chính thức (báo cáo của Ngân hàng ANZ) tổng mức
đầu tư gián tiếp vào Việt Nam giai đoạn từ năm 2001 - 2006 ước đạt khoảng 12 tỷ USD và
năm 2007 đạt khoảng 5,7 tỷ USD), lĩnh vực hoạt động của các quỹ đầu tư nước ngoài cũng có
sự thay đổi.
Nếu như các quỹ đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trong thời gian những năm 90 chủ
yếu là các quỹ đầu tư mạo hiểm sẵn sàng chấp nhận rủi ro khi đầu tư vào Việt Nam với khung
pháp lý chưa hoàn thiện, khu vực kinh tế tư nhân chưa phát triển, TTCK chưa được thành lập,
cơ hội đầu tư còn ít, nên việc giải ngân vốn đầu tư gặp nhiều khó khăn thì những quỹ đầu tư
trong những năm sau này được thành lập do các nhà đầu tư nước ngoài đã nhận thấy tiềm năng
phát triển lớn của TTCK Việt Nam cùng với chính sách cổ phần hóa các DNNN có quy mô lớn
được đẩy mạnh thực hiện.
Tuy nhiên, sang tới năm 2008 và những tháng đầu năm 2009, trước những khó khăn
của nền kinh tế Việt Nam, dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài có dấu hiệu chững lại và thậm
trí đã có dấu hiệu dòng vốn đảo chiều trong nửa đầu năm 2008. Vốn đầu tư gián tiếp rút ra khỏi
Việt Nam trong 10 tháng đầu năm 2009 lên tới 500 triệu USD và mặc dù những tháng cuối năm, dòng

vốn có dấu hiệu phục hồi nhưng cả năm 2009 vào khoản 600 triệu USD (tương đương với dòng vốn rút
ra của năm 2008).
3. Thị trường chứng khoán tạo điều kiện cho Chính phủ phát hành huy động nguồn tài
chính mà không tạo áp lực lạm phát. Chúng ta biết rằng Chính phủ đã không còn sử
dụng biện pháp in tiền để tài trợ cho chi tiêu. Chính vì thế, TTCK đã trở thành một
kênh huy động vốn quan trọng của Chính phủ, với cả thị trường trong nước và quốc
tế.
TPCP bằng ngoại tệ phát hành trong nước trong những đợt gần đây, đặc biệt trong năm
2009 đều không thu được kết quả như mong muốn, nguyên nhân chính là do vấn đề lãi suất
không hấp dẫn. Đợt phát hành thứ nhất vào tháng 3/2009, 3 lần đấu thầu chỉ huy động được
230,11 triệu USD trong tổng số 300 triệu USD được đưa ra mời thầu. Đợt 2 vào tháng 8/2009,
trái phiếu ngoại tệ kỳ hạn dài số lượng bỏ thầu rất ít. Trong đó, cả 3 phiên chỉ huy động được
100 triệu USD/100 triệu USD trái phiếu chào bán kỳ hạn 1 năm; 47 triệu USD/100 triệu USD
trái phiếu kỳ hạn 2 năm; và 10 triệu USD/50 triệu USD trái phiếu kỳ hạn 3 năm. Đợt phát hành
thứ 3, và thứ 4 vào ngày 29/12/2009, kết quả chỉ huy động được 73 triệu USD trong tổng số
200 triệu USD giá trị trái phiếu gọi thầu, đạt 36,5%. Tỷ lệ huy động thành công có xu hướng
giảm dần theo từng đợt phát hành kể từ đầu 2009 tới nay. Tính chung cả năm 2009, khối lượng
huy động đạt 530,2 triệu USD (tương đương 9.278 tỷ đồng, theo tỷ giá ước tính 17.500
đồng/USD) trên tổng số 850 triệu USD gọi thầu
Đối với trái phiếu bằng nội tệ, việc huy động cũng còn nhiều hạn chế.
Tính đến hết năm 2009, có khoảng 70 đợt phát hành trái phiếu được thực hiện bao gồm trái
phiếu: kho bạc nhà nước (KBNN), ngân hàng phát triển, ngân hàng chính sách xã hội và các
trái phiếu chính quyền địa phương. Theo thống kê của Ngân hàng Đầu tư - Phát triển Việt Nam
(BIDV), chỉ có trên 2.000 tỷ đồng giá trị trái phiếu KBNN được phát hành trên tổng số 15.000
tỷ đồng gọi thầu. Nguyên nhân do thị trường trái phiếu thứ cấp ảm đạm, thanh khoản ở mức
thấp, thể hiện qua giá trị trái phiếu được chuyển nhượng trên thị trường cũng như các số liệu
thống kê giao dịch trung bình trong phiên. Tổng giá trị trái phiếu được chuyển nhượng qua sàn
trong năm 2009 vào khoảng 77.500 tỷ đồng, chỉ bằng 40% so với mức 195.600 tỷ đồng của
năm 2008. Giá trị trái phiếu được chuyển nhượng trung bình trong một phiên giao dịch cũng
giảm mạnh, xoay quanh mức 300 tỷ đồng/phiên, thấp hơn nhiều so với mức 800 tỷ đồng/phiên

của năm 2008. Đặc biệt, trái phiếu chính quyền địa phương gần như không được quan tâm. .
Trái phiếu kho bạc bằng Việt Nam đồng chỉ thành công với tỷ lệ 15%, một con số rất khiêm
tốn.
Bước sang năm 2010, những tháng đầu năm tình hình cũng không khả quan hơn. Tinh
đến ngày 28/5 Kho bạc nhà nước đã có 5 lần đấu thầu trái phiếu với khối lượng lớn nhưng đa
số là thất bại, chỉ bán được khoảng 100 tỷ đồng. Ngân hàng Chính sách Xã hội 4 lần đấu thầu
nhưng không bán được đồng nào, Ngân hàng Phát triển 3 lần đầu thầu cũng thất bại.
Tuy nhiên, từ tháng 5 đến nay, việc phát hành đã thu được thành công nhất định. Việc phát
hành theo lô lớn đầu tiên trong năm đã diễn ra vào cuối tháng 5 , nửa đầu tháng 6.tổng khối
lượng trái phiếu phát hành đợt này là 5.000 tỷ đồng với lãi suất danh nghĩa 11,33%, tiền lãi
thanh toán hàng năm, chia làm 3 đợt. Đợt đấu thầu một và hai (28/5/2010 và 4/6/2010) giá trị
gọi thầu tương ứng mỗi đợt là 2.000 tỷ đồng. Đợt thứ ba (11/6/2010) giá trị gọi thầu là 1.000 tỷ
đồng. Kết quả đợt thứ nhất đã không thành công. Hai lần sau tổng số tiền huy động được là
hơn 2300 tỷ, cụ thể là:
04/06/2010 như sau:

STT Nội dung 5 năm
1 Loại trái phiếu Trái phiếu Chính phủ
2 Ngày phát hành 08/06/2010
3 Ngày đáo hạn 01/06/2015
4 Lãi suất danh nghĩa 11.33%/năm
5 Mệnh giá 100.000 đồng/trái phiếu
6 Tổng khối lượng gọi thầu 2.000 tỷ đồng
7
Tổng số thành viên tham gia đấu
thầu
04 thành viên
8
Tổng số phiếu đăng ký đấu thầu hợp
lệ

04 phiếu
9
Tổng số tiền đăng ký đấu thầu hợp
lệ
3.300 tỷ đồng
10 Lãi suất đăng ký thấp nhất 11.10%/năm
11 Lãi suất đăng ký cao nhất 11.50%/năm
12 Lãi suất trần 11.20%/năm
13 Lãi suất trúng thầu 11.20%/năm
14 Khối lượng trúng thầu 1200 tỷ đồng
15 Tổng số tiền thanh toán trái phiếu 1.208.194.028.244 đồng
trúng thầu
11/06/2010 như sau:

STT
Nội
dung
5 năm
1 Loại trái phiếu Trái phiếu Chính phủ
2 Ngày phát hành 15/06/2010
3 Ngày đáo hạn 01/06/2015
4 Lãi suất danh nghĩa 11.33%/năm
5 Mệnh giá 100.000 đồng/trái phiếu
6 Tổng khối lượng gọi thầu 1.000 tỷ đồng
7
Tổng số thành viên tham gia đấu
thầu
11 thành viên
8
Tổng số phiếu đăng ký đấu thầu hợp

lệ
13 phiếu
9
Tổng số tiền đăng ký đấu thầu hợp
lệ
4950 tỷ đồng
10 Lãi suất đăng ký thấp nhất 11.00%/năm
11 Lãi suất đăng ký cao nhất 11.50%/năm
12 Lãi suất trần 11.05%/năm
13 Lãi suất trúng thầu 11.05%/năm
14 Khối lượng trúng thầu 1000 tỷ đồng
15
Tổng số tiền thanh toán trái phiếu
trúng thầu
1.014.405.357.487 đồng
Lần thành công gần đây nhất khi phát hành trái phiếu chính phủ là vào ngày 14/10 vừa
qua với gần 6000 tỷ đồng trái phiểu đã được bán hêt: Sở GDCK Hà Nội thông báo kết quả đấu
thầu trái phiếu Chính phủ do Kho bạc Nhà nước phát hành, được tổ chức vào ngày 14/10/2010
như sau:

STT Nội dung 3 năm 5 năm 10 năm
1 Loại trái phiếu Chính phủ
2 Ngày phát hành 18/10/2010
3 Ngày đáo hạn 18/10/2013 18/10/2015 18/10/2020
4 Mệnh giá 100.000 đồng
8 Tổng khối lượng gọi thầu 2.500 tỷ đồng 2.500 tỷ đồng 1.000 tỷ đồng
9
Tổng số thành viên tham
gia đấu thầu
13 thành viên 15 thành viên 4 thành viên

10
Tổng số phiếu đăng ký
đấu thầu hợp lệ
14 phiếu 15 phiếu 4 phiếu
11
Tổng số tiền đăng ký đấu
thầu hợp lệ
2.985 tỷ đồng 4.785 tỷ đồng 900 tỷ đồng
12
Lãi suất đăng ký thấp
nhất
9,50% 10,19% 10,79%
13 Lãi suất đăng ký cao nhất 9,80% 10,45% 10,90%
14 Lãi suất trần 9,65% 10,29% 10,80%
15 Lãi suất trúng thầu 9,65% 10,29% 10,80%
16 Khối lượng trúng thầu 2.135 tỷ đồng 2.485 tỷ đồng 850 tỷ đồng
17
Tổng số tiền thanh toán
trái phiếu trúng thầu
2.135 tỷ đồng 2.485 tỷ đồng 850 tỷ đồng
Tuần trước đó, ngày 7/10, Kho bạc Nhà nước chào thầu 6.000 tỷ đồng trái phiếu với
các kỳ hạn 3, 5 và 10 năm; huy động được 3.965 tỷ đồng với lãi suất trúng thầu ở các kỳ hạn
lần lượt là 9,68%, 10,3% và 10,8%/năm.
Như vậy có thể nói TTCK đã tạo ra một kênh huy động vốn khá tiềm năng cho Chính
phủ, cung cấp lượng vốn đáng kể cho việc đầu tư cũng như thực hiện các chính sách tiền tệ của
nhà nước.
4. Một trong những vai trò của TTCK là cung cấp một dự báo tuyệt vời về các chu kì kinh
doanh trong tương lai (hay nói cách khác là hàn thử biểu của nền kình tế. Tuy nhiên khi xem
xét vấn để này cần nhận thức một điều là TTCK Việt Nam chưa phải là hàn thử biểu của nền
kinh tế. Lý do được đưa ra là:

TTCK Việt Nam chỉ được coi là hàn thử biểu của nền kinh tế khi đo lường được "sức khỏe"
của toàn bộ nền kinh tế, chỉ số của thị trường phải thể hiện chu kỳ phát triển của nền kinh tế, từ
đó tạo mối quan hệ chặt chẽ và tương hỗ giữa TTCK và thị trường tài chính. Nó phải đáp ứng
đủ 3 yếu tố chính sau:

Quy tụ đầy đủ DN lớn tiêu biểu của mọi ngành nghề
Một trong những yếu tố bắt buộc để TTCK Việt Nam trở thành hàn thử biểu của nền
kinh tế, đó là thị trường phải chứa đựng những DN lớn tiêu biểu cho mọi ngành nghề, đại diện
cho một nền kinh tế.
Tuy nhiên, theo thống kê, hiện nay, TTCK Việt Nam có 289 DN niêm yết. Con số này còn quá
ít so với con số hàng trăm nghìn DN thực tế đang hoạt động. Mặt khác, các DN niêm yết chủ
yếu là những DN nhỏ và vừa, chưa phải là những DN lớn có sức chi phối nền kinh tế
Về mức vốn hóa của thị trường, năm 2007 đạt khoảng 40% GDP. Song đến thời điểm hiện tại,
TTCK đang suy giảm từng ngày, thì mức vốn hoá thị trường cũng giảm đi tương ứng. Trong
khi đó, theo kế hoạch Chính phủ đặt ra, tới năm 2010, tỷ lệ vốn hóa TTCK phải chiếm 50%
GDP và con số này phải tăng đến 70% vào năm 2020. Khi đó, quy mô thị trường mới đủ lớn để
có thể đưa TTCK thực sự trở thành hàn thử biểu của nền kinh tế theo đúng nghĩa của nó.

Giá chứng khoán phản ánh tương đối chính xác giá trị thực của DN niêm yết
Một thực tế hiện nay là phần lớn con số tính toán về giá trị thực của cổ phiếu đều chỉ sử
dụng một cách máy móc những số liệu ghi trên báo cáo tài chính của các DN niêm yết; chưa
thể hiện được đầy đủ giá trị nội tại của DN mà nó phản ánh. Ngoài ra, sự kém minh bạch còn
phổ biến, kèm theo đó là những yếu tố thuộc về tài sản vô hình của công ty (trình độ quản lý,
uy tín sản phẩm, nhãn hiệu thương mại, chất lượng sản phẩm ) chưa phản ánh hết trong báo
cáo tài chính.
Mặt khác, sự thiếu kiến thức và tâm lý đám đông của NĐT đã và đang tác động mạnh
mẽ tới TTCK. Tâm lý "phải tháo chạy bằng mọi giá" đã đẩy chỉ số VN-Index xuyên thủng 400
điểm. Rõ ràng, tâm lý NĐT chứ không phải phương pháp xác định hay hoạt động kinh doanh
của DN quyết định giá chứng khoán.


Phản ánh tương đối chính xác sự biến động của nền kinh tế
Hai năm qua, chúng ta đã chứng kiến những bước thăng trầm của TTCK Việt Nam.
Ngày 8/11/2006, VN-Index xuất phát với mức 525,99 điểm, chỉ 4 tháng sau (ngày 12/3/2007)
VN-Index đã leo lên tới đỉnh 1.170,67 điểm, để rồi hiện tại VN-Index đã quay trở lại và thậm
chí phá mốc 400 điểm. Tất nhiên, lên xuống là chuyện bình thường của thị trường, nhưng lên
xuống với biên độ lớn trong thời gian ngắn là bất thường. Và điều này có phản ánh chính xác
sự biến động của nền kinh tế hay không?
Câu trả lời là không! Dễ dàng nhận thấy, từ cuối năm 2007 đến nay, VN-Index đã giảm quá
sâu, bất chấp những thông tin rất tốt về hiệu quả sản xuất - kinh doanh của đại đa số công ty
niêm yết trên sàn, bất chấp nỗ lực chống lạm phát đã có kết quả bước đầu của Chính phủ.
Ngoài ra, nếu nền kinh tế Việt Nam chủ yếu có 4 kênh đầu tư: TTCK, thị trường tín dụng trung
và dài hạn, thị trường bất động sản và thị trường tiền tệ thì trong thời gian qua, sự ảm đạm của
TTCK dường như cũng chưa ảnh hưởng nhiều tới các thị trường còn lại, nếu có, thì cũng chỉ
như sự ảnh hưởng của một hàng hóa này tới một hàng hóa thay thế khác. Nhìn vào TTCK,
chưa thấy được bức tranh khái quát của toàn bộ nền kinh tế.
Như vậy, rõ ràng VN-Index hiện chưa phải là hàn thử biểu của kinh tế Việt Nam.
Tuy nhiên, bên cạnh những vai trò trên, có thể nói thị trường chứng khoán Việt Nam
vẫn còn rất nhiều hạn chế. Trước hết là nói đến vấn đề thông tin không cân xứng. Ở Việt Nam
hiện nay có thể nói thông tin được chuyển đến các nhà đầu tư là không đầy đủ và không giống
nhau. tình trạng tùy tiện trong công bố thông tin, công bố thông tin chậm, thiếu chính xác,
không trung thực đang gây bức xúc cho cộng đồng đầu tư và ngày càng đặt ra nhiều thách thức
đối với cơ quan quản lý.
Vẫn có những hoạt động làm giá, thao túng cổ phiếu, thao túng thị trường khiến cho nhà đầu tư
(NĐT) bất an, họ rất ngại trong việc đầu tư giá trị, mà dần dần chuyển sang lướt sóng nhiều
hơn.
Hiện trạng sử dụng nguồn vốn không đúng mục đích. Hoạt động phát hành của các
công ty đại chúng vẫn còn mang tính tự phát, không hoàn toàn dựa trên nhu cầu sử dụng vốn
của doanh nghiệp, làm giảm hiệu quả sử dụng vốn. Không ít tổ chức phát hành huy động vốn
trên TTCK để đầu tư trở lại vào chứng khoán mà không phải để mở rộng sản xuất kinh doanh,
góp phần tạo nên bong bóng thị trường và rủi ro mất vốn khi thị trường sụt giảm. Hoạt động

chào bán riêng lẻ không có sự điều chỉnh đầy đủ của pháp luật và quản lý của các cơ quan có
thẩm quyền dẫn đến các hành vi lạm dụng, ảnh hưởng đến sự lành mạnh của TTCK. Bên cạnh
đó, việc tuân thủ chào bán ra công chúng phải đăng ký với UBCKNN còn hạn chế (đặc biệt
vào thời kỳ ngay sau khi Luật chứng khoán mới ban hành) đã tạo nên những rủi ro tiềm ẩn cho
TTCK. Hoạt động phát hành TPCP còn nhiều bất cập, công tác kế hoạch hoá phát hành trái
phiếu chưa tốt, cơ chế phát hành trái phiếu còn nhiều bất cập, chưa có các tổ chức tạo lập thị
trường TPCP đúng nghĩa để đảm bảo thành công cho các đợt phát hành cũng như tạo tính
thanh khoản cho thị trường thứ cấp. Thiếu đường cong lợi suất chuẩn và tổ chức định mức tín
nhiệm.
Tuy nhiên, theo nhận định, sau 10 năm phát triển, thị trường CK Việt Nam đã có những
đóng góp quan trọng cho nền kinh tế Việt Nam, góp phần tăng trường kinh tế, gia tăng thu
nhập cho người dân.
Chương IV: Bình luận nhận định: "Thị trường chứng khoán Việt Nam như 1 sòng bạc"
I) Phải khẳng định rằng thị trường chứng khoán Việt Nam không phải 1 sòng bạc vì
bản chất đầu tư chứng khoán khác xa đánh bạc:
- Cổ phiếu là 1 loại tài sản đặc biệt, nắm giữ cổ phiếu không chỉ là nắm giữ tài sản của
công ty mà còn có quyền nhận được cổ tức khi công ty làm ăn có lãi. Việc nắm giữ cổ phiếu đã
khác với việc nắm giữ 1 tài sản thông thường. Trong khi đó người những loại giấy tờ trong
đánh bạc thậm chí không được coi là tài sản.
-Tham gia đầu tư cổ phiếu làm tăng sự giàu có của toàn bộ nền kinh tế: Thị trường
chứng khoán gồm thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp, thị trường sơ cấp cung cấp các loại
chứng khoán cho thị trường thứ cấp, các nhà đầu tư mua bán trao tay cổ phiếu trên thị trường
thứ cấp tạo tính thanh khoản cho thị trường sơ cấp. Hai thị trường này đã giúp cho các chủ thế
phát hành có thế tiếp cận với 1 kênh huy động vốn hiệu quả, giá rẻ, nhờ thế họ mở rộng sản
xuất, nâng cao tổng tài sản xã hội.
(*) So sánh thị trường chứng khoán và sòng bạc:
- Nhà đầu tư vào thị trường chứng khoán cần kiến thức tài chính sâu rộng, tất nhiên để
thành công trong thị trường này, 1 điều rất quan trọng cần phải có nữa là sự nhạy cảm, còn kẻ
chơi bạc thì chỉ cần feeling
- Đầu tư chứng khoán làm tăng tổng giá trị tài sản xã hội, còn chơi bạc chỉ là sự luân

chuyển tiền từ kẻ thua sang người thắng, tổng giá trị tài sản xã hội là không đổi.
- Rủi ro trong thị trường chứng khoán là có cơ sở kiểm soát, còn rủi ro trong chơi bạc
hoàn toàn không có khả năng kiểm soát.
Đồng hồ đầu tư: Đồng hồ đầu tư là 1 trong những chỉ báo tốt nhất nhằm dự báo sự vận
động và điều kiện của thị trường chứng khoán nói riêng cũng như nền kinh tế nói chung. Bất kỳ
1 thị trường chứng khoán nào, bất kỳ 1 nền kinh tế nào trên thế giới cũng đều phải trải qua
những chu kỳ kinh tế. Mỗi vòng đồng hồ đại diện cho 1 chu kỳ kinh tế. Một nhà đầu tư có kiến
thức, có kinh nghiệm khi bước vào thị trường, dù không biết được chính xác nhưng cũng có thể
dự đoán được TTCK đang ở khoảng mấy giờ của đồng hồ, dựa vào đó họ sẽ điều chỉnh danh
mục đầu tư cho phù hợp.
Ví dụ thị trường Việt Nam: nhìn trên đồng hồ, từ 9 đến 12 giờ là giai đoạn thị trường
bùng nổ, tương ứng với TTCKVN năm 2006 và 3 tháng đầu năm 2007, khoảng từ 12 giờ đến 3
giờ là giai đoạn thị trường đi xuống, tương ứng khoảng thời gian nửa cuối năm 2007 và năm
2008, từ 3 giờ đến 6 giờ là giai đoạn thị trường suy thoái tương ứng với khoảng thời gian 2009,
2010, thực sự chúng tôi cũng không biết chắc là đến nay thị trường đã thoát khỏi suy thoái và
đang đi vào giai đoạn hồi phục chưa.
Đó mới chỉ là 1 trong rất nhiều ví dụ cho thấy việc có khả năng kiểm soát rủi ro của thị
trường chứng khoán.
(*) Các công ty niêm yết trên sàn phải công khai tình hình tài chính,
kinh doanh => giảm tiêu cực trong kinh doanh
+)Để được nhà đầu tư đánh giá cao, các công ty phải cạnh tranh với nhau => tăng
năng suất lao động, nâng cao đời sống XH
II) Nguyên nhân gây ra nhầm lẫn
a) Tâm lý bầy đàn của nhà đầu tư Việt Nam:
Tại các định chế tài chính lớn trên thế giới như Anh, Mỹ. Thị trường chứng khoán đã
tồn tại cả trăm năm, vì thế nhà đầu tư đa phần có kiến thức tài chính tốt, số nhà đầu tư nhỏ lẻ
không nhiều mà phần lớn là các quỹ đầu tư, tổ chức tài chính… vì thế đầu tư chứng khoán có
tính bầy đàn không cao. TTCK Việt Nam còn non trẻ, theo như thống kê thì có hơn 80% nhà
đầu tư trên thị trường là nhà đầu tư nhỏ lẻ, phần lớn trong đó là những "Free Rider"
Những free rider chơi chứng khoán theo đám đông làm cho thị trường lên xuống thất

thường, mọi công cụ phân tích đều không có hiệu quả, dẫn đến nhà đầu tư có kiến thức vào thị
trường cũng không khác gì 1 bác nông dân. Điều này làm tăng rủi ro không đáng có, mà rủi ro
càng cao thì càng dễ gây nhầm lẫn với sòng bạc.
Nhìn lại thị trường vài năm gần đây:
+) Thị trường chứng khoán VN trong năm 2006 có mức tăng trưởng cao nhất khu vực
châu Á Thái Bình Dương (145%), thậm chí còn đứng trên thị trường chứng khoán Thượng Hải
với mức tăng trưởng 130%.
+) Đầu năm 2007 vẫn tăng 46%, cao nhất thế giới. (Đỉnh điểm lên tới 1170,67 điểm)
+) Nửa cuối năm 2007 đột nhiên lao dốc không phanh, có những lúc tụt xuống sát mốc
200 điểm.
Có nhiều nguyên nhân lý giải điều này, nhưng lý do chính được công nhận cho đến nay
chính là do ảnh hưởng của tâm lý bầy đàn.
b)Một số sai lầm nguy hiểm khác:
Không có kỳ vọng đầu tư riêng : Lòng tham thì ai cũng có, nhưng vấn đế là phải biết
kiểm soát nó, nhiều nhà đầu tư Việt không biết kiểm soát lòng tham. Khối ngoại họ đầu tư vào
thị trường Việt Nam luôn có kỳ vọng đầu tư riêng, họ xác định lợi nhuận kỳ vọng (VD: 15%
trong vòng 3 tháng), đạt được lợi nhuận lỳ vọng họ sẽ rút khỏi thị trường ngay, còn nhà đâu tư
VN đạt được lợi nhuận kỳ vọng rồi, nhưng thấy thị trường đang lên vẫn đầu tư tiếp để mong
chờ có lợi nhuận lên đến 50%, 100% , và khi thị trường quay đầu thì trở tay không kịp, mất
hết lợi nhuận và có thể thếm hụt cả vốn gốc.
Quan tâm tới lợi nhuận nhưng không quan tâm tới bổ sung kiến thức : Thiếu kiến thức
trong bất kỳ lĩnh vực gì cũng đều gây nguy hiểm, bước vào 1 định chế tài chính phức tạp
bậc nhất như thị trường chứng khoán mà không có kiến thức thì túi tiền của mình chỉ làm
mồi cho kẻ khác.
Tin rằng "mình khôn ngoan nhất". : Đây là 1 biểu hiện của thiếu kiến thức, càng những
người thiếu kiến thức thì càng tin rằng mình khôn ngoan nhất, điều này dẫn đến chủ quan
trong điều chỉnh danh mục đầu tư, không những làm thiệt hại đến mình mà còn ảnh hưởng
đến toàn thị trường.
Một số lời khuyên dành cho các nhà đầu tư
1. Hãy tự hỏi ta đang làm gì?

2. Ta muốn kiếm bao nhiêu tiền?
3. Ta thuộc nhóm nhà đầu tư nhỏ hay lớn?
4. Kiến thức và kinh nghiệm đầu tư có phải là thứ quan
trọng nhất?
5. Lựa chọn phương thức đầu tư.
6. Thông tin là yếu tố cốt lõi.
7. Thận trọng trước tin đồn
8. Lựa chọn danh mục đầu tư.
9. Phân tích cơ bản hay phân tích kỹ thuật
10. Kế hoạch giải ngân.

×