Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Chuyện về triều đại Trần Anh Tông (1293 - 1314) 3 ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (125.61 KB, 7 trang )

Chuyện về triều đại Trần Anh Tông (1293 - 1314)
3
Anh Tông ân cần nói tiếp:
- Xin thượng phụ cho biết kế sách, đường lối nên như thế nào ? Trần Hưng Đạo trả
lời: - "Mới rồi, Toa Đô và Ô Mã Nhi bị bốn mặt bao vây, vì vua tôi nước ta đồng
lòng, anh em hòa thuận, cả nước ra sức nên bọn giặc phải thua . Nhà vua nên để ý
về cách thức hành quân của địch. Nếu thấy chúng kéo đến ồ ạt như lửa cháy, gió
thổi, thì đừng có hoang mang. Cái hung hăng ban đầu của chúng như vậy lại rất dễ
chế ngự, ta có thể thắng chúng một cách dễ dàng. Còn nếu chúng kéo sang mà từ
từ, chậm chạp như cách tằm ăn dâu, không lấy của dân, không cần đánh nhanh
thắng nhanh thì trường hợp ấy phải thận trọng đối phó. Phải chọn tướng giỏi, biết
xem xét, quyền biến như tính liệu nước cờ. Tùy thời cơ mà vận dụng chiến lược
chiến thuật thì lo gì không thắng. Nhưng vấn đề cơ bản nhất là ở hai điều:
- Một là vua tôi, tướng tá, binh lính phải dốc sức một lòng, tình thiết như cha con
thì mới thực hiện được các kế hoạch.
Hai là phải khoan sức dân. Phải cho dân được hồ hởi, thì dân mới cung ứng được
sức người sức của.
- Hai điều ấy chính là kế sâu gốc vững để bảo vệ nước nhà . Thượng sách giữ
nước là ở đó".
Trần Anh Tông đã nhất nhất tuân theo lời chỉ bảo của Trần Hưng Đạo, tuy còn ít
tuổi, nhưng ông đã giữ đúng tư cách một vị nguyên thủ quốc gia, không chịu khuất
phục trước thế lực của ngoại bang. Bọn sứ giả nhà Nguyên mấy năm liên tiếp
(1293- 1295-1299) được cử sang ta vẫn tỏ thái độ hống hách. Anh Tông vừa lên
ngôi, sứ giả Lương Tăng đến Thăng Long đã yêu cầu nhà vua phải sang chầu hầu
thiên triều. Anh Tông nhất quyết không chịu. Ông giả vờ cáo bệnh, cho một vị
quan là Đào Từ Kỳ thay mình đem lễ vật sang biếu vua Nguyên. Tiếp đến năm
1313, ở biên giới Việt - Trung, bọn quan lại nhà Nguyên lại gây sự, lấn đến hơn
một nghìn khoảnh ruộng. Nhất quyết không để cho dất đai của Tổ quốc mất một
phân ly nào, Anh Tông lập tức cho quân sang đánh thẳng vào các châu Chư
Thuận, châu Dưỡng Lợi thuộc địa giới nhà Nguyên và tuyên bố hẳn đó là trận
đánh báo thù. Triều đình nhà Nguyên phải cử người đến cùng các quan nhà Trần


giải quyết, định lại ranh giới bờ cõi. Việc ấy mới yên. ở phía Nam và phía Tây,
Trần Anh Tông cũng chú ý đến việc giữ gìn bờ cõi, dùng sức mạnh thị uy để
những nước láng giềng này không được gây hấn. Phạm Ngũ Lão, vị tướng tài con
rể Trần Hưng Đạo, đã có chiến công lớn từ thời Trần Nhân Tông, nay lại được
Anh Tông tín nhiệm, giao cho việc dẹp yên bờ cõi phía Tây. Phạm Ngũ Lão đã
đánh thắng quân Ai Lao, khiến cho các vùng Thanh Hóa, Nghệ An của nước ta
được yên ổn. Đối với Chiêm Thành, Anh Tông cũng có thái độ mềm dẻo thích
hợp. Từ 1306, vâng lời Thượng hoàng Trần Nhân Tông, Anh Tông cho em gái là
Huyền Trân công chúa sang làm vợ vua Chiêm là Chế Mân. Sự giao hảo này đã
khiến cho bản đồ Việt Nam được mở rộng thêm.
Những châu này được đổi tên thành Thuận Châu và Hóa Châu. Anh Tông đã cho
Đoàn Nhữ Hài vào ổn định tình hình, sắp đặt việc trị an.
Đoàn Nhữ Hài là người trước đây đã giúp Anh Tông cáo lỗi với Thượng hoàng,
nay được thu dụng làm một vị quan trọng yếu.
Chỉ riêng một việc biết sử dụng Đoàn Nhữ Hài, mà về sau, nhiều người đã đánh
giá Trần Anh Tông một cách rất trân trọng. Một ông vua trẻ, biết sử dụng nhân tài
trẻ. Điều này giúp ta nhớ đến câu thơ của một tác giả người Pháp sau này: "Giá trị
con người không phải đợi đến số lượng tháng năm?"
*
* *

Có lẽ do có tâm hồn và phong cách thanh niên mà Trần Anh Tông, so với nhiều vị
vua khác, đã tự bộc lộ mình ở một số khía cạnh độc đáo . Ông rất yêu nghệ thuật
và rất thích văn chương. Ông làm thơ nhiều, nhưng đã xem thơ ca như một lợi khí
dĩ dưỡng tính tình, diễn đạt tâm hồn ở những thời gian nhất định, chứ không có
dụng ý lưu lại công trình, nghĩ tới danh hiệu về sau. Ông có tập thơ lấy tên là Thùy
vân tùy bút, nhưng đến lúc sắp mất, lại cho đốt đi, chứ không cho để lại, thành thử
bây giờ chúng ta không được biết tác phẩm của ông như thế nào . Ông cũng rất
thích vẽ . Có dịp ông cũng phóng bút vẽ những bức tranh, và sau đó cũng không
đồng ý cho ai thu thập lại. Tuổi trẻ say sưa, ông muốn tự thể hiện mình bằng nét

vẽ câu thơ, có lẽ chỉ cốt ghi lại những gì của thời thanh niên sôi nổi, nhưng sau đó
ông lại không muốn lưu lại những dầu ấn gì. Ông cũng rất thích các sinh hoạt văn
nghệ dân gian. Năm 1296, ông đã thân hành đến Đông Bộ Đầu để dự một cuộc
đua thuyền trên sông Hồng, cùng chia vui với dân chúng để mừng mùa màng năm
ấy tốt đẹp. Nhà vua thực sự là một thanh niên yêu đời, hòa được với niềm vui phơi
phới của nhân dân.
Mặc dầu có những biểu hiện phóng khoáng, tuổi trẻ như vậy song Anh Tông lại
vẫn có tư tưởng độc lập trong cuộc sống, đồng thời rất biết khép mình vào kỷ luật
và giữ gìn kỷ luật rất nghiêm minh. Đời nhà Trần có tục lệ vẽ mình. Xuất thân từ
miền sông nước, các vị tiền bồi trong dòng họ Trần thường vẽ mình để khi lặn
xuống biển, tự xem mình là dòng giống của giao long, các loài thủy tộc không
dám xâm phạm. Các vua Trần xưa nay đều theo tục ấy nhưng Trần Anh Tông nhất
định không theo. Chàng thanh niên mang áo hoàng bào này đã cố tình tránh các
ông thợ vẽ, không cho họ vẽ vào đùi, vào lưng mình. Phải can đảm lắm mới dám
cưỡng lại tập tục như thế. Và có lẽ đó là bản lĩnh thanh niên, không chịu chấp
nhận một tập tục theo ông là không thích hợp với thế hệ mới mà thôi. Trần Anh
Tông lại cũng không chịu nghe theo những ông thầy tụng, thầy pháp lúc bấy giờ.
Có lần vua bị mệt nặng, hoàng hậu và một số người trong hoàng tộc bàn cách cho
gọi các nhà sư, các vị thầy cúng vào để hỏi han về mệnh hệ, về đường sinh tử
huyền bí như thế nào. Anh Tông đã gạt đi:
Sống chết tùy theo tình hình, theo hoàn cảnh của từng người nhất định. Nhà sư đã
chết đâu mà biết được sự chết?
Tư tưởng độc lập này của ông đã hạn chế được khá nhiều khuynh hướng sùng bái,
mê tín dị đoan hồi bấy giờ . Ông còn tỏ ra rất nghiêm khắc đối với những thói bê
tha, chơi bời quá mức. Dưới triều ông, những viên quan ham đánh bạc bị xử tội rất
nặng, đến nỗi như Nguyên Hưng đã lên đến bậc quan cao (Thượng phẩm) vì đánh
bạc nên bị đòn, phạt trượng, đau đến nỗi về nhà thì chết. Viên quan nội thư chánh
chưởng là Nguyễn Quốc Phụ đã chuẩn bị thăng lên chức Hành khiển, chỉ vì hay
uống rượu mà Anh Tông nhất định gạt đi không dùng. Nguyễn Sĩ Cố và Chu Bộ
đều là người hầu cận đắc lực, nhưng thật ra không có tài cho nên không được vua

Anh Tông giao trọng trách. Kể cả những người thân trong gia đình nhà vua, Anh
Tông cũng bắt phải tuân theo phép tắc, không được vượt khỏi qui định. Bà Huy
Tư (mẹ của vua Minh Tông sau này, tức là vợ Anh Tông) được Bảo Từ hoàng hậu
rất yêu quí, mỗi khi đi đâu hoàng hậu đều cho Huy Tư được ngồi kiệu giành riêng
cho mình. Anh Tông cho như thế là vi phạm điểm chế, nhất định không cho phép.
Ông nói: Hoàng hậu quí Huy Tư thì nên cho thứ khác, chứ không được cho ngồi
kiệu như thế, không đúng phép nước mà coi thường luật lệ của triều đình.
Chính vì Anh Tông là vị vua biết giữ gìn tư cách như vậy, mà dưới triều đại của
ông, các quan lại đều rất xứng đáng với chức của mình, đã hoàn thành được công
việc mà đều lưu được tiếng tốt: cương trực, thanh liêm. Một trong những vị quan
thời bấy giờ là Trần Thì Kiến, nổi tiếng là viên quan chính trực, xử kiện rất giỏi.
Anh Tông làm vua 21 năm. Ngày 18 tháng 3 năm Giáp Dần (1314) nhường ngôi
cho con là Minh Tông, để trở thành Thượng hoàng mới có 38 tuổi. Ông giữ trách
nhiệm Thượng hoàng trong vòng 7 năm. Năm Canh Thân (1320) Anh Tông mất,
trị vì được 21 năm, thọ 54 tuổi

×