Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Vài nét về nhà Trần (1225 - 1400) - 2 pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.73 KB, 5 trang )

Vài nét về nhà Trần (1225 - 1400)
2
2. Công cuộc chiến đấu chống Nguyên Mông (1258-1288)
2.1 Chiến thắng quân Mông Cổ lần thứ nhất (1258)
Chiến công đầu tiên xảy ra dưới thời vua Trần Thái Tông vào năm 1258. Vào đầu
thế kỷ XIII quốc gia Mông Cổ được thành lập dưới quyền uy của Thành Cát Tư
Hãn (Thiết Mộc Chân), tung hoành vó ngựa xâm lược khắp Âu á và thành lập
được một đế quốc rộng lớn từ bờ Thái Bình Dương cho đến bờ biển Hắc Hải.
Vào năm 1258, Chúa Mông Cổ bấy giờ là Mong-ké (Mông Kha, cháu nội của
Thành Cát Tư Hãn) sai em là Hốt Tất Liệt (Kubilay) đánh lấy nước Đại Lý (Vân
Nam bây giờ) và chuẩn bị đánh nhà Tống. Để dùng Đại Việt làm bàn đạp tấn công
nhà Tống từ phía Nam, Hốt Tất Liệt cho sứ sang bảo vua Trần phải thần phục.
Vua Trần Thái Tông cho giam đoàn sứ giả lại rồi sai Trần Hưng Đạo đem quân lên
giữ phía Bắc.
Không thấy đoàn sứ giả trở về, quân Mông Cổ do Ngột Lương Hợp Thai
(Wouleangotai) tràn xuống sông Thao, xâm lấn Đại Việt. Trần Thái Tông thân
chinh ra cự địch nhưng không thắng phải rút về Thăng Long. Trước sức uy hiếp
của ba vạn quân Mông thiện chiến, nhà vua lại phải rút khỏi Kinh thành về đóng ở
sông Thiên Mạc (Đông An, Hưng Yên).
Quân Mông Cổ chiếm được thành Thăng Long, tìm thấy đoàn sứ giả bị trói trong
ngục, lại có một người đã chết nên vô cùng tức giận, ra sức chém giết dân chúng
trong thành.
Trong tình thế nguy nan ấy vua Trần Thái Tông hỏi kế triều thần. Người em ruột
của vua là Trần Nhật Hiệu khuyên nên "nhập Tống" nhưngThái sư Trần Thủ Độ
khảng khái trả lời: "Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo". Được khích lệ,
Trần Thái Tông yên tâm chuẩn bị lực lượng.
Không quá mười ngày sau khi chiếm thành Thăng Long, quân Mông Cổ đã gặp
khó khăn vì không kiếm ra được lương thực lại thêm không phủ hợp thủy thổ, nên
bị ốm bệnh rất nhiều. Trần Thái tông liền phản công, cho tiến quân ngược dòng
sông Hồng đánh lấy Đông Bộ Đầu (bến sông Hồng ở Hà Nội) và đuổi bật quân
Mông Cổ ra khỏi Thăng Long. Quân Mông Cổ thua, chạy rút về Vân Nam, trên


đường tháo chạy, vì quá mỏi mệt và khiếp sợ nên không quấy nhiễu dân chúng, do
đó được gọi là giặc Phật.
Ngày mồng một Tết năm Mậu Ngọ (1258), vua Trần Thái Tông ngự triều làm lễ
phong thưởng cho các người có công. Một tháng sau đó, nhà vua truyền ngôi cho
Thái tử Hoảng và lên làm Thái Thượng hoàng. Đại Việt có được một thời gian yên
bình từ sau chiến thắng này cho đến năm 1285.
Tuy tình hình trong nước yên ổn, nhưng quan hệ ngoại giao giữa Đại Việt và
Mông Cổ gặp nhiều rắc rối. Nhân dịp vua Trần Thái Tông nhường ngôi cho vua
Trần Thánh Tông, vua Mông Cổ sai sứ sang phong vương và đặt điều lệ là ba năm
phải cống một lần. Lệ cống gồm có nho sĩ, thầy thuốc, thầy bói, thầy toán số và
thợ thuyền. Mỗi thành phần ba người, cùng với các sản vật quý như sừng tê, ngà
voi, đồi mồi Ngoài ra, vua Mông Cổ còn đặt quan giám trị (Đạt lỗ hoa xích) để
kiểm tra các châu quận của Đại Việt.
Tuy bề ngoài thần phục Mông Cổ nhưng vua Trần Thánh Tông chú trọng việc
quân sự để phòng bị. Vua cho tuyển đinh tráng ở các lộ làm lính, phân quân đội ra
làm quân và đô, mỗi quân có 30 đô, mỗi đô có 80 người.
Năm 1266, vua sai sứ sang Mông Cổ thương lượng để không phải cống người nữa.
Vua Mông Cổ đồng ý nhưng ra 6 điều khoản khác:
Vua Trần phải qua Mông Cổ chầu
Vua Trần phải cho con hay em sang Mông Cổ làm con tin
Đại Việt phải nạp số dân trong nước cho Mông Cổ
Đại Việt phải chịu việc binh dịch
Đại Việt phải nộp thuế
Mông Cổ vẫn duy trì chế độ quan giám trị.
Vua Thánh Tông cứ lần lữa không chấp nhận. Bấy giờ Hốt Tất Liệt đã lên làm vua
Mông Cổ (1260), cho sứ sang dụ vua Trần sang chầu. Vua Trần Thánh Tông cáo
bệnh không đi.
Năm sau, Hốt Tất Liệt lại cho sứ sang xác định vị trí của cột đồng Mã Viện. Vua
Thánh Tông cho trả lời là cột ấy lâu ngày mất đi rồi, không tìm ra.
Đến năm 1275 vua Thánh Tông cho sứ sang nhà Nguyên (Hốt Tất Liệt đổi quốc

hiệu thành Đại Nguyên vào năm 1271) xin miễn chức giám trị đi, mà thay vào một
loại có tư cách như sứ thần. Nhà Nguyên không chịu, cứ bắt Đại Việt phải tuân thủ
6 điều lệ như đã định. Vua Trần Thánh Tông cũng không nhượng bộ.
Năm 1279 nhà Nguyên đánh bại nhà Tống, làm chủ Trung Hoa. Từ đó nhà
Nguyên tiếp tục mở rộng đất đai về phía Nam. Đại Việt trở thành mục tiêu của đại
quân tinh nhuệ nhà Nguyên.
Nghe tin vua Trần Nhân Tông lên ngôi (1279) vua Nguyên sai sứ là Sài Thung
sang hạch hỏi, lấy cứ vua Trần dám tự lập làm vua không xin phép triều đình nhà
Nguyên. Sài Thung buộc vua Nhân Tông phải sang chầu Nguyên chủ để chuộc lỗi
nhưng vua từ chối.
Năm 1282, nhà Nguyên lại cho sứ sang dụ vua qua chầu, vua cử người chú là Trần
Di ái đi thay mình. Vua Nguyên không bằng lòng, lập ra "tuyên phủ ty" để giám trị
Đại Việt. Khi phái đoàn nhà Nguyên đến để tiến hành việc giám trị, vua nhân
Tông cho đuổi về.
Hốt Tất Liệt bèn mua chuộc Trần Di ái, phong ái làm An Nam quốc vương và sai
Sài Thung dẫn 1.000 quân hộ tống về nước. Vua Trần cho quân đón đánh ở ải
Nam Quan, Sài Thung bị bắn mù một mắt phải tháo chạy về nước còn Trần Di ái
thì bị bắt, bị tội đồ làm lính.

×