Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC EM BÉ SINH RA TỪ KỸ THUẬT THỤ TINH docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.24 KB, 11 trang )

SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC EM BÉ SINH RA TỪ KỸ THUẬT
THỤ TINH TRONG ỐNG NGHIỆM
Tác giả : BS. HỒ MẠNH TƯỜNG (BV. Phụ sản Từ Dũ)
Trên thế giới, kể từ khi chương trình thụ tinh
trong ống nghiệm (TTTON) bắt đầu, đã có rất
nhiều nghiên cứu về sức khỏe và sự phát triển
của những bé sinh ra từ các kỹ thuật này. Ða số những
nghiên cứu đều cho thấy các bé sinh ra từ kỹ thuật TTTON
và các kỹ thuật tương đương có tỷ lệ dị tật bẩm sinh và sự
phát triển tâm lý không khác biệt so với trẻ bình thường.
Riêng tại Việt Nam, chương trình TTTON được tiến hành khoảng
gần 6 năm và những em bé đầu tiên đã trên 5 tuổi. Theo thống kê
tại BV. Phụ sản Từ Dũ, tính đến tháng 11/2003, số trẻ ra đời từ
chương trình TTTON của bệnh viện là gần 1.100. Trong những
năm qua, BV. Phụ sản Từ Dũ đã có nhiều chương trình theo dõi
sức khỏe và sự phát triển của các cháu một cách liên tục.
MỘT CUỘC KHẢO SÁT QUY MÔ
Nhằm có một cái nhìn tổng quát về sự phát triển của các em bé
sinh ra từ TTTON và những kỹ thuật liên quan tại Việt Nam, bệnh
viện đã thực hiện một cuộc khảo sát khá quy mô. Tất cả các em
bé được sinh ra từ những kỹ thuật TTTON cổ điển, ICSI hoặc xin
trứng (đã ít nhất 12 tháng tuổi cho đến thời điểm nghiên cứu) đều
được mời tham gia bằng cách gửi thư và điện thoại xác nhận.
Sau đó hẹn ngày đến khám tại BV. Phụ sản Từ Dũ.
Các số liệu về điều trị TTTON, thai kỳ và kết quả sinh được ghi
nhận qua hồ sơ bệnh án hoặc hỏi trực tiếp bệnh nhân, do khoa
Hiếm muộn BV. Phụ sản Từ Dũ ghi nhận. Việc khám, đánh giá
sức khỏe và tình trạng phát triển thể chất của nhóm bé do các
bác sĩ chuyên khoa Nhi thực hiện. Việc đánh giá sự phát triển về
tâm thần và vận động của các bé do các bác sĩ chuyên khoa tâm
lý trẻ em của BV. Tâm thần TPHCM đảm nhiệm. Bảng đánh giá


Denver dùng tầm soát các bất thường về phát triển tâm lý vận
động trẻ em của BV. Tâm thần TPHCM được sử dụng để tầm
soát các bất thường của bé đến khám.
Quá trình khám, thu thập số liệu kéo dài liên tục gần 3 tháng, với
sự tham gia của gần 30 bác sĩ, nữ hộ sinh, điều dưỡng và nhân
viên hậu cần. Mỗi buổi khám có từ 15-20 bé do 2 bác sĩ nhi khoa,
6-8 bác sĩ chuyên khoa tâm lý trẻ em, 6 nữ hộ sinh khám và ghi
nhận, nhằm đảm bảo cho việc khám được chi tiết và chính xác.
Ðặc điểm chung của các bé
Ðến thời điểm giữa năm 2002, gần 300 bé sinh ra từ các biện
pháp hỗ trợ sinh sản đã được trên 1 tuổi (dao động từ 12 tháng
đến 55 tháng). Bệnh viện đã liên hệ với 281 bé của 189 bà mẹ và
mời tham gia nghiên cứu. Sau đó có 221 bé của 145 bà mẹ đồng
ý đến bệnh viện để khám, đạt tỷ lệ gần 80%. Trong đó, bao gồm
các bé sinh ra từ kỹ thuật TTTON cổ điển (130 bé), ICSI (49 bé)
và cho trứng (42 bé), có cả các trường hợp sinh 1, sinh 2, sinh 3
và sinh 4. Ðây là một tỷ lệ khá cao so với các báo cáo trên thế
giới.
Về tình trạng dinh dưỡng
Khảo sát về tình trạng dinh dưỡng được dựa trên các số đo về
chiều cao, cân nặng và vòng đầu. Sau đó đem đối chứng với số
liệu về sự phát triển trung bình của trẻ em Việt Nam theo lứa tuổi.
Trong 221 bé được khảo sát, có 5 bé thừa cân, 216 bé bình
thường, không có bé nào suy dinh dưỡng.
Với đặc điểm mẫu khảo sát gồm nhiều bé sinh từ các chu kỳ đa
thai (sinh 2, 3, 4), sự phát triển về thể chất của các cháu đều nằm
trong giới hạn bình thường. Ðiều này cho thấy, hầu hết các cháu
được chăm sóc khá kỹ về dinh dưỡng, cho nên mặc dù có thể
nhẹ cân lúc sinh nhưng trong vòng 1 năm trở lên, các cháu đã có
thể bắt kịp những trẻ bình thường về mặt thể chất.

Về dị tật bẩm sinh và bất thường khác về sức khỏe
Các bé được bác sĩ nhi khoa khám và đánh giá về những dị tật
bẩm sinh và bất thường của các hệ cơ quan trong cơ thể như: hệ
tim mạch, hô hấp, tai mũi họng, răng hàm mặt, cơ xương, khớp,
sinh dục - tiết niệu, da.
Về tình trạng sức khỏe nói chung, các cháu đến khám đều ở tình
trạng tốt về sức khỏe. Chúng tôi không ghi nhận một vấn đề đặc
biệt nào về sức khỏe và bệnh lý ở các cháu. Tỷ lệ dị tật bẩm sinh
là 1% (1 trường hợp trật khớp háng và 1 trường hợp dính bàn
tay). Nhưng những dị tật này đều là nhẹ và chiếm tỷ lệ khá thấp
so với dân số bình thường.
Sự phát triển về tâm lý và vận động theo thang đánh giá Denver
Ðể đánh giá sự phát triển bất thường về tâm lý vận động, test
Denver được dùng để đánh giá 4 mặt phát triển sau ở mỗi bé: (1)
Cá nhân - xã hội, (2) Ngôn ngữ, (3) Vận động tinh tế, (4) Vận
động thô sơ.
Chúng tôi chưa thể đối chứng kết quả ghi nhận được về tỷ lệ
chậm phát triển tâm lý vận động so với trẻ em cùng lứa tuổi ở
Việt Nam hiện nay, do các bé khảo sát ở nhiều độ tuổi khác nhau.
Tuy nhiên, khi sử dụng thang điểm Denver để đánh giá, các
chuyên gia tâm lý tại BV. Tâm thần TPHCM cho rằng: Tỷ lệ chậm
phát triển tâm thần vận động ở các trẻ sinh 1 và sinh 2 được xem
là ở mức bình thường. Tỷ lệ chậm phát triển tâm lý, vận động có
vẻ cao hơn ở nhóm sinh 3 và sinh 4. Ðiều này cũng được ghi
nhận ở nhiều nghiên cứu khác trên thế giới.
KẾT LUẬN
Nhìn chung, các bé sinh ra từ kỹ thuật TTTON và những kỹ thuật
tương đương tại BV. Phụ sản Từ Dũ phát triển bình thường về
thể chất, tâm lý và vận động. Không có khác biệt về sự phát triển
giữa các trẻ sinh ra từ những kỹ thuật khác nhau. Tuy nhiên cần

tiếp tục theo dõi sự phát triển của các cháu trong thời gian tới để
có những đánh giá đầy đủ và toàn diện hơn.
Các bé sinh ra trong những trường hợp sinh 3 và sinh 4 có
khuynh hướng phát triển chậm hơn các trường hợp sinh 1 và
sinh 2. Do đó, để các cháu phát triển tốt, cần có biện pháp giảm
tỷ lệ đa thai trong điều trị vô sinh. Hiện nay, với việc áp dụng
thành công và đồng bộ nhiều phác đồ và kỹ thuật mới như: giảm
số phôi chuyển ở những trường hợp tiên lượng tốt, trữ lạnh phôi
dư, kỹ thuật giảm thai; BV. Phụ sản Từ Dũ đã gần như kiểm soát
được hoàn toàn tình trạng đa thai (từ 3 thai trở lên). Với gần 300
em bé TTTON ra đời trong năm 2003, chúng tôi chỉ có 1 trong 3
trường hợp sinh 3.
Việc khảo sát sự phát triển của các bé sinh ra từ kỹ thuật TTTON
thể hiện thái độ nghiêm túc và khoa học của Việt Nam trong việc
phát triển các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Ðây sẽ là nền tảng, làm cơ
sở cho sự phát triển về lĩnh vực này tại Việt Nam trong tương lai.
Trên thế giới hiện nay, hàng năm có khoảng 500.000 chu kỳ
TTTON và các kỹ thuật tương đương được thực hiện và tổng số
bé TTTON ra đời đã trên 1 triệu bé (ước tính trung bình trên
100.000 bé/năm). Ở các nước phát triển, số bé ra đời từ kỹ thuật
TTTON chiếm gần 5% tổng số em bé ra đời mỗi năm. Do đó, các
em bé TTTON ngày càng chiếm một tỷ lệ lớn trong cộng đồng.

×