Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

Hoàn thiện chính sách tài chính tín dụng nhằm thúc dẩy sự phát triển của các doanh nghiệp hoạt động theo luật doanh nghiệp việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (304.27 KB, 65 trang )

Mục lục
mở đầu 3
Ch ơng I: Cơ sở lý luận về chính sách tài chính - tín dụng đối với sự phát triển
của các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp. 5
1.1. Các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp trong sự nghiệp
Công nghiệp hoá-Hiện đại hoá đất n ớc 6
1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp
(DNHĐTLDN) 6
1.1.2. Đặc điểm, u điểm và hạn chế của các doanh nghiệp hoạt động theo
Luật doanh nghiệp 7
1.2.2.1.Đặc điểm của các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp
7
1.1.2.2. Ưu điểm của các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp 8
1.1.2.3. Hạn chế của các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp 9
1.1.3. Vai trò của các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp
trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất n ớc 11
1.2. Chính sách tài chính, tín dụng đối với sự phát triển DOANH NGHIệP
HOạT đẫNG THEO LUậT DOANH NGHIệP 17
1.2.1. Chính sách 17
1.2.2. Chính sách tín dụng đối với sự phát triển doanh nghiệp 20
1.2.3. Chính sách tài chính đối với sự phát triển doanh nghiệp 22
1.2.4. Kinh nghiệm của một số n ớc 23
Ch ơng 2 Thực
trạng hoạt động và chính sách tài chính
tín dụng đối với các 26
doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp 26
2.1. thực trạng Hoạt động của các DOANH NGHIệP HOạT độNG THEO
LUậT DOANH NGHIệP 26
2.1.1. Quy mô vốn 26
2.1.2. Trang thiết bị công nghệ 29
2.1.3. Đất đai 31


2.1.4. Trình độ quản lý của chủ doanh nghiệp và tay nghề của ng ời lao
động 32
1
2.1.5. Khả năng thông tin và tiêu thụ sản phẩm 34
2.1.6. Hiệu quả sản xuất kinh doanh và đóng góp cho ngân sách Nhà n ớc
36
2.2. Thực trạng chính sách tài chính tín dụng đối với DOANH NGHIệP
HOạT động THEO LUậT DOANH NGHIệP 37
2.2.1. Chính sách tín dụng 38
2.2.1.1. Những thuận lợi từ tác động của chính sách tín dụng 38
2.2.1.2. Những khó khăn từ tác động của chính sách tín dụng 41
2.2.2. Chính sách tài chính 47
2.2.2.1. Những thuận lợi từ tác động của chính sách tài chính 47
2.2.2.2. Những khó khăn từ tác động của chính sách tài chính 49
Ch ơng 3 giải
pháp hoàn thiện chính sách tài chính tín dụng nhằm thúc đẩy sự phát triển
của các DOANH NGHIệP 53
HOạT động THEO LUậT DOANH NGHIệP 53
3.1. Quán triệt quan điểm phát triển DOANH NGHIệP HOạT độnG THEO
LUậT DOANH NGHIệP của Đảng và Nhà n ớc 53
3.2. Giải pháp về chính sách 57
3.2.1. Chính sách tín dụng 57
3.2.2. Chính sách tài chính 61
3.3. Điều kiện để thực hiện các giải pháp 64
3.3.1. Duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô, giữ vững ổn định chính trị và bảo
đảm ổn định xã hội 64
3.3.2. Kết hợp đồng bộ chính sách tài chính - tín dụng với các chính sách
vĩ mô khác 65
Kết luận 70
Danh mục tài liệu tham khảo 72

2
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xớng và lãnh đạo đã trải qua gần 20
năm. Các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp đã trở thành một bộ
phận không thể thiếu đợc trong nền kinh tế của nớc ta. Đợc hình thành từ nhiều
nguồn khác nhau, với quy mô vốn, trình độ khác nhau, các doanh nghiệp t nhân,
công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần giữ vị trí ngày càng quan trọng
trong việc tạo ra công ăn việc làm, góp phần thiết thực vào chơng trình xoá đói,
giảm nghèo, nâng cao thu nhập cho ngời lao động, đồng thời còn làm cho nền kinh
tế thêm năng động và hiệu quả. Tuy nhiên, trong quá trình hoạt động, các doanh
nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp đang phải đơng đầu với rất nhiều khó
khăn, thách thức. Nguyên nhân, một mặt là do những hạn chế của bản thân các
doanh nghiệp. Mặt khác, việc quản lý Nhà nớc đối với nền kinh tế nhiều thành
phần ở nớc ta vẫn còn khá mới mẻ, hệ thống chính sách cha đồng bộ và hoàn thiện
để hỗ trợ sự phát triển của các doanh nghiệp, để thực sự tạo ra một sân chơi bình
đẳng cho các thành phần kinh tế. Để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc phát
triển các loại hình doanh nghiệp này, thực tiễn đang đặt ra nhiều vấn đề đòi hỏi
Nhà nớc phải giải quyết, trong đó có vấn đề tài chính, tín dụng.
Chính vì những lý do trên, tôi đã chọn đề tài: Hoàn thiện chính sách tài
chính tín dụng nhằm thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp hoạt
động theo Luật doanh nghiệp ở Việt Nam .
2. Mục đích nghiên cứu
3
Mục đích của luận văn là góp phần làm rõ thực trạng hoạt động của các
doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp, làm sáng tỏ những tác động của
chính sách tài chính và chính sách tín dụng đối với các doanh nghiệp này về mặt lý
luận và thực tiễn, đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách tài chính
tín dụng tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động theo Luật
doanh nghiệp phát triển.

3. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu
Các doanh nghịêp thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật doanh nghiệp đợc quy
định bao gồm: công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh và
doanh nghiệp t nhân.
Song để thuận tiện cho việc nghiên cứu, lấy số liệu minh họa và cũng không
ảnh hởng đến kết quả nghiên cứu vì số lợng các công ty hợp danh không nhiều nên
trong đề tài tôi không đề cập đến các công ty hợp danh.
Nh vậy, doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp đợc đề cập trong
luận văn bao gồm công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn và doanh nghiệp
t nhân.
Luận văn nghiên cứu những tác động của chính sách tài chính tín dụng
đối với hoạt động và sự phát triển của các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh
nghiệp.
4. Phơng pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng phơng pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
của chủ nghĩa Mác-Lênin, quán triệt chủ trơng, đờng lối của Đảng, chính sách và
pháp luật của Nhà nớc.
4
Đồng thời, luận văn sử dụng các phơng pháp đặc thù trong nghiên cứu kinh
tế và quản lý kinh tế nh phơng pháp phân tích hệ thống, phơng pháp tổng hợp, ph-
ơng pháp thống kê và so sánh.
5. Đóng góp chủ yếu của luận văn:
- Làm rõ vai trò và thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp hoạt động
theo Luật doanh nghiệp.
- Làm rõ những tác động tích cực và tiêu cực của chính sách tài chính và
chính sách tín dụng đối với sự phát triển của các doanh nghiệp hoạt động theo Luật
doanh nghiệp.
- Đề xuất các giải pháp hoàn thiện chính sách tài chính, chính sách tín dụng
tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các doanh nghiệp hoạt động theo Luật
doanh nghiệp.

6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn chia thành 3 chơng:
Chơng I: Cơ sở lý luận về chính sách tài chính - tín dụng đối với sự phát
triển của các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp.
Chơng II: Thực trạng hoạt động và chính sách tài chính tín dụng đối với
các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp.
Chơng III: Các giải pháp hoàn thiện chính sách tài chính tín dụng nhằm
thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp.
5
Chơng 1
Cơ sở lý luận về chính sách tài chính - tín dụng
đối với sự phát triển của các doanh nghiệp
hoạt động theo Luật doanh nghiệp
1.1. Các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp trong sự
nghiệp Công nghiệp hoá-Hiện đại hoá đất nớc
1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp
(DNHĐTLDN)
Luật Doanh nghiệp Việt Nam đợc ban hành ngày 12/6/1999 xác định
Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn
định, đợc đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực
hiện các hoạt động kinh doanh .
Các doanh nghịêp thuộc phạm vi điều chỉnh của Luật doanh nghiệp đợc quy
định bao gồm: công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh và
doanh nghiệp t nhân.
Công ty hợp danh là doanh nghiệp trong đó phải có ít nhất hai thành viên
hợp danh, ngoài các thành viên hợp danh, có thể có thành viên góp vốn; thành viên
hợp danh phải là cá nhân, có trình độ chuyên môn và uy tín nghề nghiệp và phải
chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về các nghĩa vụ cuả công ty; thành
viên góp vốn chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi số
vốn đã góp vào công ty. Công ty hợp danh không đợc phát hành bất kỳ loại chứng

khoán nào.
Doanh nghiệp t nhân (DNTN) là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự
chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh
6
nghiệp.
Khác với doanh nghiệp t nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ
phần là loại hình doanh nghiệp trong đó các thành viên cùng góp vốn, cùng chia lợi
nhuận, cùng chịu rủi ro tơng ứng với phần vốn góp, chỉ chịu trách nhiệm về các
khoản nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn góp vào
doanh nghiệp.
Công ty trách nhiệm hữu hạn (CTTNHH) là doanh nghiệp trong đó phần vốn
góp của tất cả các thành viên phải đợc đóng góp đủ ngay khi thành lập và đợc ghi
rõ trong điều lệ của công ty, số lợng thành viên không vợt quá 50. Công ty không
đợc quyền phát hành cổ phiếu.
Công ty cổ phần (CTCP) là doanh nghiệp trong đó vốn điều lệ đợc chia
thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần, giá trị mỗi cổ phần gọi là mệnh giá cổ
phiếu, mỗi cổ đông có thể mua 1 hoặc nhiều cổ phiếu, số lợng cổ đông tối thiểu là
3 và không hạn chế số lợng tối đa. Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng
khoán ra công chúng theo quy định của pháp luật về chứng khoán.
Để thuận tiện cho việc nghiên cứu, lấy số liệu minh họa và cũng không ảnh
hởng đến kết quả nghiên cứu vì số lợng các công ty hợp danh không nhiều nên
trong đề tài tôi không đề cập đến các công ty hợp danh.
1.1.2. Đặc điểm, u điểm và hạn chế của các doanh nghiệp hoạt động
theo Luật doanh nghiệp
1.2.2.1.Đặc điểm của các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp
- Các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp sở hữu t nhân về t
liệu sản xuất. Mục tiêu lớn nhất trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp
này là thu đợc lợi nhuận tối đa. Do vậy, nhiều khi gây hậu quả xấu cho xã hội nh
7
tình trạng kinh doanh không kê khai nộp thuế, trốn thuế, thậm chí còn có nhiều

doanh nghiệp ma.
- Các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp chỉ mới ra đời sau khi
có Luật Doanh nghiệp t nhân và Luật Công ty năm 1990 và đặc biệt phát triển
mạnh mẽ sau khi Luật Doanh nghiệp đợc ban hành năm 1999. Do đó, chủ doanh
nghiệp thờng thiếu kiến thức, kinh nghiệm kinh doanh và rất bỡ ngỡ trớc thị trờng,
nhất là thị trờng ngoài nớc.
- Các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp hầu hết là quy mô
vừa và nhỏ, các doanh nghiệp này ban đầu đều dựa vào nguồn vốn tự có, vốn huy
động ngoài rất ít.
- Trình độ phát triển của các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh
nghiệp ở nớc ta còn thấp cả về công nghệ, kỹ năng lao động và quản lý.
- Trình độ xã hội hoá của các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh
nghiệp cha cao, đặc biệt là xã hội hoá về sở hữu, thể hiện rõ nét nhất là loại hình
doanh nghiệp t nhân vẫn chiếm u thế. Hình thức công ty, đặc biệt là công ty cổ
phần có trình độ xã hội hoá về sở hữu cao hơn còn chiếm tỷ trọng thấp.
- Các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp phân bố không đều,
phần lớn tập trung vào những vùng mà cơ sở hạ tầng thuận lợi, dân c đông đúc,
trong một số ngành có suất sinh lời cao.
1.1.2.2. Ưu điểm của các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp
- Chủ doanh nghiệp là những ngời trực tiếp sở hữu vốn nên các doanh
nghiệp này có chủ đích thực. Các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp
gắn với sở hữu t nhân về t liệu sản xuất nên có thể truyền lại cho các thế hệ con
cháu kinh nghiệm, kiến thức kinh doanh và tài sản. Điều đó tạo ra các động lực
thúc đẩy phát triển hoạt động kinh doanh không giới hạn.
8
- Bộ máy quản lý các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp thờng
đơn giản, gọn, nhẹ do đó nó có khả năng ứng biến nhanh nhạy và thích nghi cao
với những biến động của thị trờng. Với quy mô vừa và nhỏ, cơ chế quản lý không
cồng kềnh, phức tạp, nên chủ doanh nghiệp dễ dàng ra quyết định, khi gặp khó
khăn doanh nghiệp dễ xoay chuyển tình hình, dễ thống nhất nội bộ.

- Mục đích hoạt động của các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh
nghiệp thờng rõ ràng và đơn giản là thu lợi nhuận tối đa, ít bị các mục tiêu kinh tế
xã hội khác chi phối nh đối với các doanh nghiệp Nhà nớc.
- Các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp là khu vực thu hút
khá nhiều vốn trong dân, không ỷ lại vào sự trợ giúp của Nhà nớc.
- Các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp có tỷ suất vốn đầu t
trên lao động thấp hơn so với các doanh nghiệp lớn nên chúng có hiệu suất tạo việc
làm cao hơn.
1.1.2.3. Hạn chế của các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp
- Quy mô của các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp thờng
nhỏ, trang thiết bị lạc hậu và lao động phổ thông chiếm một tỷ trọng cao. Do đó
khả năng cạnh tranh nhất là trên thị trờng thế giới rất kém. Hiện nay khoảng 95%
số doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp trong nớc đợc xếp vào hạng
các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Năm 2001 quy mô vốn trung bình của các doanh
nghiệp t nhân khoảng 525 triệu đồng, công ty cổ phần là 4,9 tỷ đồng, công ty trách
nhiệm hữu hạn khoảng 1,1 tỷ đồng.
- Thiếu hẳn khả năng nghiên cứu và phát triển để đáp ứng những thay đổi
diễn ra trong nền kinh tế thị trờng.
- Yếu kém trong quan hệ kinh doanh và mạng lới tiêu thụ sản phẩm. Tiêu
9
thụ sản phẩm trên cả thị trờng trong nớc và thị trờng nớc ngoài còn là một trong
những hạn chế lớn của các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp. Cụ thể
là thiếu các thông tin về giá, về thị trờng.
- Một số lớn chủ doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp do cha
qua đào tạo cơ bản nên khả năng lãnh đạo điều hành kém, cộng với sự ít hiểu biết
về pháp luật trong kinh doanh và thái độ chấp hành luật pháp kém, dẫn đến tình
trạng nhiều doanh nghiệp vi phạm pháp luật. Hiện tợng sử dụng lao động không ký
hợp đồng lao động, không đóng bảo hiểm cho ngời lao động, không bảo đảm các
điều kiện về an toàn lao động... còn phổ biến. Theo số liệu của Bảo hiểm xã hội
Việt Nam, năm 2000 mới có 24,2% số lao động trong các doanh nghiệp hoạt động

theo Luật doanh nghiệp tham gia bảo hiểm xã hội.
- Việc thực hiện pháp lệnh về tài chính và thống kê của Nhà nớc trong các
doanh nghiệp này cha đợc thực hiện nghiêm túc, làm cho Nhà nớc khó kiểm soát
hoạt động của doanh nghiệp, gây ra tình trạng thất thoát thuế trầm trọng. Các thủ
đoạn trốn thuế phổ biến là không kê khai nộp thuế hoặc xin nghỉ kinh doanh nhng
vẫn hoạt động, khai tăng chi phí và giảm giá bán, giảm doanh số để giảm mức nộp
thuế thu nhập doanh nghiệp, thông đồng với cán bộ thuế để giảm mức nộp thuế...
Theo thống kê của 48 địa phơng tính đến 30/5/2001 có 16% số doanh nghiệp hoạt
động theo Luật doanh nghiệp không kê khai nộp thuế. Còn theo báo cáo của 58
tỉnh thành phố, trong năm 2001 có 700 doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh
nghiệp đã ngừng hoạt động nhng không khai báo, thanh quyết toán và trả lại theo
quy định số hoá đơn do Bộ Tài chính phát hành còn d thừa.
- Các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp chỉ mới tập trung
trong lĩnh vực thơng mại và dịch vụ mà cha chú trọng đến đầu t phát triển trong
các ngành sản xuất. Cụ thể hơn, các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh
10
nghiệp có xu hớng tập trung vào kinh doanh ở những lĩnh vực cần ít vốn, khả năng
thu hồi vốn nhanh, lãi cao nh thơng nghiệp, dịch vụ, du lịch... Chỉ khoảng 30% vốn
ban đầu của khu vực doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp đợc đầu t
vào sản xuất công nghiệp và trong sản xuất công nghiệp vốn đầu t đó gần nh chỉ đ-
ợc đa vào ngành chế biến lơng thực thực phẩm và sản xuất hàng tiêu dùng.
- Cách làm ăn chạy theo lợi nhuận tối đa đã nảy sinh các hoạt động không
lành mạnh nh làm hàng giả, hàng kém chất lợng.
- Phân bố không hợp lý, phần lớn các doanh nghiệp hoạt động theo Luật
doanh nghiệp tập trung ở các thành phố lớn, cha thực sự tạo ra sự phát triển cân đối
giữa các vùng lãnh thổ. Năm địa phơng có số doanh nghiệp hoạt động theo Luật
doanh nghiệp đăng ký kinh doanh cao nhất cả nớc là thành phố Hồ Chí Minh, Hà
Nội, Đồng Nai, Tiền Giang, Bình Dơng đã chiếm tới 53,3% số doanh nghiệp hoạt
động theo Luật doanh nghiệp đăng ký kinh doanh của cả nớc. Trong khi đó năm
địa phơng có số doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp đăng ký kinh

doanh ít nhất là Bắc Kạn, Sơn La, Lai Châu, Yên Bái, Bắc giang chỉ chiếm 0,5% cả
nớc.
Nghiên cứu những đặc điểm, u điểm và hạn chế của các doanh nghiệp hoạt
động theo Luật doanh nghiệp có ý nghĩa trong việc xác định nội dung và phơng
thức tác động của quản lý Nhà nớc, tìm ra những giải pháp chính sách phù hợp
phát huy những thế mạnh và tháo gỡ những khó khăn, khắc phục giảm thiểu những
tác động tiêu cực để thúc đẩy các doanh nghiệp này phát triển.
1.1.3. Vai trò của các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh
nghiệp trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nớc
- Các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp có vai trò quan trọng
trong sự tăng trởng của nền kinh tế. Chúng đóng góp một phần không nhỏ vào tổng
11
sản phẩm quốc nội. Theo số liệu thống kê, cả ba loại hình doanh nghiệp hoạt động
theo Luật doanh nghiệp chiếm hơn 7% tỷ trọng trong GDP.
Bảng 1.1. Tỷ trọng các khối doanh nghiệp trong GDP
( Giá hiện hành)
Đơn vị tính: %
1998 1999 2000 2001
Doanh nghiệp Nhà nớc 40,17 38,74 38,52 38,59
DNHĐTLDN 7,07 7,26 7,30 7,97
Hợp tác xã 8,94 8,84 8,88 8,21
Hộ gia đình và nông dân 33,99 32,93 32,31 32,13
Khu vực đầu t nớc ngoài 9,82 12,23 12,99 13,10
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Mấy năm gần đây, tỷ trọng của các doanh nghiệp hoạt động theo Luật
doanh nghiệp trong GDP có xu hớng ngày càng tăng. Nguyên nhân chủ yếu là do
Đảng và Nhà nớc đã đa ra đợc những chủ trơng, đờng lối và chính sách khuyến
khích các doanh nghiệp này phát triển.
- Trình độ lực lợng sản xuất của nớc ta còn thấp, trong khi tiềm năng phát
triển của nền kinh tế vẫn còn lớn nhng khả năng khai thác thì hạn chế. Sự độc

chiếm của hình thức sở hữu Nhà nớc và sở hữu tập thể không cho phép khai thác
hết những tiềm năng to lớn của đất nớc ( đặc biệt nh tiềm năng về lao động, vốn,
đất đai,...). Chỉ có con đờng phát triển các thành phần kinh tế hoạt động theo Luật
doanh nghiệp mới có khả năng khai thác hết các tiềm năng của đất nớc. Nói cách
khác không thể phát triển đợc lực lợng sản xuất khi không cho phép các thành
phần kinh tế hoạt động theo Luật doanh nghiệp phát triển.
Bảng 1.2. Số lợng các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp đăng ký
kinh doanh hàng năm
12
0
5000
10000
15000
20000
25000
30000
1996 1997 1998 1999 2000 2001
năm
cơ sở
số lượng
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Tính đến 31/10/2001 số lợng doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh
nghiệp trên địa bàn cả nớc là 66780 doanh nghiệp. Trong số các doanh nghiệp này
thì 38% là đợc đăng ký kinh doanh từ năm 1991-1995, 25,5% là từ năm
1996-1999, còn 36,5% là đợc đăng ký từ năm 2000 đến 31/10/2001. Tính từ đầu
năm 2000 đến hết tháng 10 năm 2001 số doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh
nghiệp đăng ký kinh doanh là 24387 doanh nghiệp, nhiều hơn cả số đăng ký 5 năm
trớc cộng lại.
Trong số 66780 doanh nghiệp này thì loại hình doanh nghiệp t nhân chiếm
58,75%, công ty trách nhiệm hữu hạn chiếm 38,68%, công ty cổ phần chỉ chiếm

2,55%. Nh vậy, trong số các loại hình doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh
nghiệp thì doanh nghiệp t nhân chiếm tỷ trọng lớn nhất.
- Trong quá trình mở cửa nền kinh tế, từng bớc hoà nhập với khu vực và thế
giới thì các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp sẽ là một cầu nối quan
trọng cho sự hoà nhập đó. Các nhà đầu t nớc ngoài cần phải có những ngời bạn
đồng hành để cho họ an tâm đầu t vốn, khoa học công nghệ... Chính các doanh
nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp có thể thu hút vốn, kỹ thuật, công nghệ
13
sản xuất...và là ngời bạn đồng hành tạo ra sự tin tởng cho các nhà đầu t nớc ngoài.
- Trong quá trình cải cách các doanh nghiệp Nhà nớc nh cổ phần hoá, bán,
khoán, cho thuê... đã nảy sinh một số vấn đề nh thất nghiệp, sự bỏ ngỏ một số
ngành và lĩnh vực không có tầm quan trọng sống còn mà Nhà nớc không cần nắm
giữ. Chính các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp sẽ tạo ra công ăn
việc làm, giải quyết vấn đề thất nghiệp và tạo ra sự phát triển cân đối cho nền kinh
tế. Tính đến thời điểm 31/12/2001, tổng số lao động làm việc trong các doanh
nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp là hơn 1 triệu ngời.

Bảng 1.3. Số lao động của các doanh nghiệp hoạt
động theo Luật doanh nghiệp
0
200000
400000
600000
800000
1000000
1200000
1996 1997 1998 1999 2000 2001
năm
người
Số lao

động
Nguồn: Tổng cục thống kê
- Các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp là khu vực thu hút
khá nhiều vốn trong dân do tính chất hiệu quả, quy mô sản xuất chủ yếu là vừa và
nhỏ đòi hỏi vốn không nhiều, thời gian thu hồi vốn nhanh, tạo dần tập quán đầu t
vào sản xuất, hình thành khu vực mồi cho việc thực hiện có kết quả vấn đề huy
động vốn của dân c. Việc thu hút vốn dân c đầu t vào các doanh nghiệp hoạt động
theo Luật doanh nghiệp nh trên là đóng góp lớn của khu vực kinh tế này, đặc biệt,
14
nếu xét ở Việt nam cha có thói quen và điều kiện làm giàu bằng nguồn vốn tích luỹ
lớn và cũng cha có chính sách thích hợp khuyến khích sản xuất, tiết kiệm để đầu t,
nếu nguồn tiết kiệm trong nhân dân vừa ít lại ứ đọng và cha đợc sử dụng để đầu t
sản xuất. Và khi nguồn tiết kiệm cha nhiều, phân tán trong dân c thì việc lựa chọn
ngành nghề, quy mô đầu t để có hiệu quả thu hồi vốn nhanh là xu thế chung. Năm
2000, vốn đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh
nghiệp tăng rất nhanh đạt 13831 tỷ đồng gấp 4,5 lần so với năm 1996, chiếm
9,37% tổng vốn đầu t xã hội. Cũng trong năm 2000, tổng số vốn sử dụng của
doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp là hơn 110000 tỷ đồng, tăng
38,46% so với năm 1999, trong đó vốn đầu t phát triển là hơn 6500 tỷ đồng tăng
18% so với năm 1999.
- Các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp có khả năng tập trung
vốn, trí tuệ vào các ngành kinh tế phát triển hay những ngành kinh tế đòi hỏi nhiều
hàm lợng tri thức cũng nh có khả năng lấp đầy những khoảng trống trong các lĩnh
vực sản xuất kinh doanh không cần nhiều vốn và có mức lợi nhuận thấp. Theo số
liệu thống kê 33720 doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp trong năm
2000, số doanh nghiệp kinh doanh thơng mại, dịch vụ chiếm đông nhất 51,9%,
doanh nghiệp sản xuất công nghiệp chiếm 20,8%, doanh nghiệp hoạt động trong
lĩnh vực xây dựng chiếm 8,3%, giao thông vận tải 2,5%.
Bảng 1.4. Cơ cấu các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp
theo ngành kinh tế

15
Xây dựng
8%
Sản xuất
công nghiệp
21%
Thương mại,
dịch vụ 51%
Khác 17%
Giao thông
vận tải
3%
Nguồn: Tổng cục Thống kê
- Các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp sản xuất một khối l-
ợng sản phẩm, dịch vụ tơng đối lớn đáp ứng cho nhu cầu của xã hội, làm giảm bớt
áp lực cầu của thị trờng đồng thời góp phần vào Ngân sách Nhà nớc.
- Các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp đã đóng góp một
phần vào việc đào tạo lực lợng cán bộ quản lý có chất lợng cao cho đất nớc, là nơi
đào tạo và sàng lọc các nhà doanh nghiệp thông qua thực tế kinh doanh.
- Các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp có vai trò quan trọng
trong việc duy trì sự tự do cạnh tranh. Tự do cạnh tranh là con đờng tốt nhất để
phát huy tiềm lực. ở nớc ta, một số các doanh nghiệp Nhà nớc đặc biệt là các tổng
công ty thờng là những doanh nghiệp lớn, cần nhiều thị trờng lớn, đòi hỏi phải có
sự bảo hộ của Chính phủ và phải có sự độc quyền. Còn các doanh nghiệp hoạt
động theo Luật doanh nghiệp hầu hết là các doanh nghiệp vừa và nhỏ ( có đến 95%
các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp là các doanh nghiệp vừa và
nhỏ), tình trạng độc quyền không xảy ra, họ sẵn sàng chấp nhận tự do cạnh tranh,
có tính tự chủ cao độ. Các doanh nghiệp này không ỷ lại vào sự giúp đỡ của Nhà n-
16
ớc và vì mu lợi, họ sẵn sàng khai thác các cơ hội để phát triển mà không ngại rủi

ro.
1.2. Chính sách tài chính, tín dụng đối với sự phát triển DOANH
NGHIệP HOạT đẫNG THEO LUậT DOANH NGHIệP
1.2.1. Chính sách
Theo quan niệm phổ biến, chính sách là tổng thể các t tởng, quan điểm, giải
pháp và công cụ mà chủ thể quản lý sử dụng để tác động lên các đối tợng và khách
thể quản lý nhằm thực hiện những mục tiêu nhất định của hệ thống theo định hớng
mục tiêu tổng thể.
Chính sách kinh tế xã hội là tổng thể các t tởng, quan điểm, giải pháp và
công cụ mà Nhà nớc sử dụng để tác động lên các đối tợng và khách thể quản lý
nhằm giải quyết vấn đề chính sách, thực hiện những mục tiêu nhất định theo định
hớng mục tiêu tổng thể của xã hội.
Nh vậy, cùng với pháp luật và kế hoạch, chính sách là một trong những công
cụ chủ yếu và quan trọng mà Nhà nớc sử dụng để thực hiện chức năng quản lý kinh
tế xã hội của mình. Mỗi chính sách cụ thể là tập hợp các giải pháp nhất định để
thực hiện các mục tiêu bộ phận trong quá trình hớng tới đạt mục tiêu chung của
phát triển kinh tế quốc dân và phát triển xã hội. Nói cách khác, một chính sách bất
kỳ thờng đợc kết cấu bởi 2 bộ phận: các mục tiêu cần đạt, các giải pháp và công cụ
cần áp dụng.
Chính sách làm một hệ thống đa chủng loại, có thể ghép thành 2 nhóm lớn:
nhóm thứ nhất là các chính sách kinh tế, chủ yếu gồm có chính sách cơ cấu kinh
tế, chính sách tài chính, chính sách tiền tệ, chính sách giá cả, chính sách kinh tế
đối ngoại . . . Nhóm thứ hai là các chính sách xã hội, chủ yếu gồm có chính sách
dân số và lao động, giáo dục, chính sách y tế, chính sách bảo đảm xã hội, chính
17
sách văn hoá, chính sách khoa học công nghệ, chính sách bảo vệ môi trờng.
Trong hệ thống công cụ quản lý kinh tế quốc dân, chính sách là bộ phận
năng động nhất, có độ nhạy cảm cao trớc những biến động trong đời sống kinh tế
xã hội của đất nớc nhằm giải quyết những vấn đề bức xúc mà xã hội đặt ra. Thực
tiễn nớc ta và nhiều nớc trên thế giới đều chứng tỏ: phần lớn những thành công

trong công cuộc đổi mới và cải cách kinh tế đều bắt nguồn từ việc lựa chọn và áp
dụng những chính sách thích hợp, có hiệu suất cao để khai thác tối u các lợi thế so
sánh của đất nớc.
Nh vậy, một hệ thống chính sách đồng bộ, phù hợp với yêu cầu phát triển
của đất nớc trong từng thời kỳ lịch sử nhất định sẽ là bảo đảm vững chắc cho sự
vận hành bình thờng, hữu hiệu của nền kinh tế thị trờng. Nhờ đó mà có thể khơi
dậy đợc các loại tiềm năng, sử dụng hợp lý và tiết kiệm các nguồn lực, phát huy
tính tích cực, sáng tạo và ý chí vơn lên làm giàu của các tầng lớp dân c. Ngợc lại,
chỉ cần một chính sách sai lầm, sẽ gây ra phản ứng tiêu cực dây chuyền đến các
chính sách khác, cũng nh đến các bộ phận khác của hệ thống công cụ quản lý kinh
tế quốc dân; kết quả dẫn đến là giảm thiểu hiệu suất tác động của hệ thống chính
sách , làm suy yếu động lực phát triển kinh tế xã hội.
Kinh nghiệm thực tế cũng cho thấy, sự sai lầm của một chính sách có ảnh h-
ởng xấu đến cuộc sống của hàng triệu con ngời trong xã hội, thậm chí đến sự thịnh
vợng hay suy yếu của một quốc gia, sự tồn vong của một dân tộc. Cái giá phải trả
cho sự sai lầm của một chính sách là rất lớn cả về mặt vật chất lẫn về mặt tinh
thần, cả ở trong nớc và ngoài nớc. Hơn nữa, việc khắc phục hậu quả của một chính
sách sai lầm thờng gặp phải rất nhiều khó khăn và trở ngại, đòi hỏi phải mất nhiều
thời gian, công sức và tiền của.
Hệ thống các chính sách cũng là công cụ quản lý quan trọng của Nhà nớc
18
đối với các doanh nghiệp.
Bảng 1.5. Một số chính sách tác động đến doanh nghiệp
Hệ thống các chính sách tác động đến doanh nghiệp có thể phân thành các
chính sách kinh tế và các chính sách văn hoá xã hội.
Hệ thống các chính sách kinh tế tác động đến doanh nghiệp có thể kể đến
nh chính sách tài chính, chính sách tiền tệ tín dụng, chính sách phát triển các loại
thị trờng, chính sách cạnh tranh, chính sách kinh tế đối ngoại, chính sách thơng
mại, chính sách đầu t . . . Các chính sách kinh tế có tầm quan trọng hàng đầu đối
với sự phát triển của các doanh nghiệp. Sự phát triển mạnh mẽ của các doanh

nghiệp nói chung và của các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp nói
riêng trong những năm gần đây là do Đảng và Nhà nớc ta đã chú trọng đề ra và
thực thi thành công nhiều chính sách kinh tế đúng đắn.
Các chính sách văn hoá xã hội tác động đến sự phát triển của các doanh
nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp nh chính sách lao động và việc làm,
chính sách giáo dục và đào tạo, chính sách phát triển khoa học, kỹ thuật và công
nghệ . . .
19
Chính sách tín dụng
Chính sách khoa học
công nghệ

Chính sách kinh tế đối
ngoại
Chính sách lao động và
đào tạo
Chính sách đất đai
Chính sách tài chính
Doanh
nghiệp
1.2.2. Chính sách tín dụng đối với sự phát triển doanh nghiệp
Chính sách tín dụng là tổng thể các quan điểm, t tởng, các giải pháp và công
cụ mà Nhà nớc sử dụng để đảm bảo việc cung cấp tín dụng cho nền kinh tế.
Mục tiêu của chính sách tín dụng là đảm bảo cung cấp tín dụng cho nền
kinh tế; thông qua hoạt động của hệ thống tài chính trung gian, các nguồn vốn
trong xã hội đợc huy động và phân bổ nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã
hội của đất nớc.
Các công cụ chủ yếu của chính sách tín dụng là lãi suất, dự trữ bắt buộc và
hoạt động thị trờng mở, hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng và dự trữ tối thiểu bắt
buộc là các công cụ điều chỉnh nặng về số lợng và trực tiếp, chúng không phải bao

giờ cũng kiểm soát đợc các biến động liên tục về giá cả, hiệu quả sản xuất và hiệu
lực kinh doanh trên thị trờng vốn. Trong trờng hợp các hoạt động kinh tế đã tinh vi
và nhạy cảm, ngời ta thờng tăng cờng sử dụng lãi suất tín dụng làm công cụ chủ
yếu để điều chỉnh gián tiếp cung - cầu tín dụng. Thông thờng thì chính sách lãi
suất có ảnh hởng quyết định tới mức cầu và từ đó tới mức cung tín dụng.
Chính sách tín dụng là một bộ phận của chính sách tiền tệ. Chính sách tín
dụng có tác động rất lớn đối với các hoạt động kinh tế thông qua tác động tới nhu
cầu vốn của các doanh nghiệp, tới lợi nhuận của các doanh nghiệp.
Có thể khẳng định rằng, không một doanh nghiệp nào hoạt động mà không
có nhu cầu hỗ trợ vốn từ bên ngoài, và tín dụng ngân hàng chính là kênh đáp ứng
tốt nhất nhu cầu này. Đối với các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp,
một hạn chế mang tính phổ biến là quy mô vốn nhỏ bé, thờng xuyên thiếu vốn để
sản xuất kinh doanh. Do đó, nguồn vốn bổ sung từ bên ngoài, đặc biệt là tín dụng
ngân hàng có ý nghĩa quan trọng không kém bộ phận vốn tự có của doanh nghiệp.
Muốn mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh thì cần phải có vốn, để có thể sử
dụng tiền vốn của ngân hàng thì doanh nghiệp cần phải trả một khoản chi phí - đó
20
là chi phí tiền vay. Trong hạch toán, chi phí tiền vay là một khoản đầu vào quan
trọng và có ảnh hởng trực tiếp tới giá thành sản phẩm. Nếu chi phí tiền vay lớn thì
giá thành sản phẩm sẽ tăng và khả năng cạnh tranh của sản phẩm sẽ giảm xuống
đáng kể. Do đó trong thực tế kinh doanh, doanh nghiệp cần phải tính toán chi tiết
và cụ thể khoản tiền vay này. Một trong những cấu thành quan trọng nhất của chi
phí tiền vay là lãi suất. Nếu lãi suất càng tăng thì chi phí để vay đợc một đồng vốn
càng tăng lên và lợi nhuận sẽ càng giảm do đó không khuyến khích doanh nghiệp
vay vốn đầu t mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Hơn nữa, khi lãi suất tăng
lại khuyến khích dân chúng gia tăng tiết kiệm, hạn chế tiêu dùng và hiện tợng này
cũng không có lợi cho doanh nghiệp. Ngợc lại, khi lãi suất giảm thì sẽ khuyến
khích doanh nghiệp vay vốn mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, khuyến
khích tiêu dùng. Tóm lại, tăng hoặc giảm lãi suất cho vay có tác dụng hạn chế hay
khuyến khích đầu t t nhân.

Chính sách tín dụng ngoài tác động trực tiếp đến việc tạo nguồn vốn, giải
quyết nhu cầu vốn cho hoạt động của các doanh nghiệp, thì nó còn là một công cụ
quan trọng hàng đầu của Nhà nớc trong việc hỗ trợ, định hớng cho sự phát triển
của các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp. Khi Chính phủ áp dụng
chính sách lãi suất hợp lý sẽ khích thích sự phát triển của nền kinh tế nói chung và
của các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp nói riêng. Hay thông qua
các quỹ bảo lãnh tín dụng sẽ giúp cho các doanh nghiệp hoạt động theo Luật
doanh nghiệp có thể vay đợc những khoản tiền phù hợp với mục tiêu phát triển sản
xuất kinh doanh của mình mà không bị hạn chế bởi năng lực tài chính của bản thân
doanh nghiệp, nhất là đối với những khoản cho vay dài hạn mà các ngân hàng th-
ơng mại thờng rất ngại cho vay vì rủi ro cao.
21
1.2.3. Chính sách tài chính đối với sự phát triển doanh nghiệp
Chính sách tài chính là tổng thể các quan điểm, t tởng, các giải pháp và công
cụ mà Nhà nớc sử dụng để tạo nguồn vốn, huy động, phân phối và sử dụng các
nguồn vốn cho xã hội.
Mục tiêu của chính sách tài chính là động viên mọi nguồn vốn và mọi tiềm
năng để phát triển kinh tế xã hội; nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn vốn;
đảm bảo mức độ lạm phát hợp lý; cân bằng cán cân thanh toán.
Đối với doanh nghiệp, chính sách tài chính hớng vào việc mở rộng khả năng
hoạt động mạnh mẽ và có hiệu quả cao của các đơn vị sản xuất kinh doanh
những tế bào tài chính; làm cho các nguồn vốn chu chuyển nhanh và linh hoạt.
Đối với bất kỳ một quốc gia nào, chính sách tài chính luôn là một công cụ
quan trọng để quản lý về mặt vĩ mô. Thông qua chính sách tài chính, Chính phủ có
thể có những tác động khuyến khích hoặc hạn chế đối với sự phát triển của một số
thành phần, lĩnh vực kinh tế hớng theo chiến lợc phát triển của quốc gia.
Công cụ chủ yếu của chính sách tài chính tác động trực tiếp đến các doanh
nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp là thuế. Thuế có tác động trực tiếp và
mạnh mẽ tới kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nói chung và của
doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp nói riêng. Tất cả các doanh

nghiệp trong quyết định đầu t của mình đều phải quan tâm tới chính sách thuế.
Trong thực tế có thể thấy chính sách thuế hợp lý thì sẽ khuyến khích doanh nghiệp
đầu t và phát triển kinh doanh. Có rất nhiều tiêu chí để phân loại thuế nhng có thể
chia thuế làm 2 loại thuế trực thu và thuế gián thu. Thuế gián thu là loại thuế mà
đơn vị sản xuất kinh doanh thay mặt ngời tiêu dùng nộp cho Nhà nớc, thuế gián
thu có thể kể đến nh thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế nhập khẩu.
Thuế trực thu là loại thuế mà ngời nộp thuế đồng thời là ngời thực sự trả thuế, ví dụ
nh thuế thu nhập doanh nghiệp - là loại thuế mà doanh nghiệp phải trích một phần
22
lợi nhuận của mình để nộp cho cơ quan thuế. Nếu thuế suất thuế gián thu ( ví dụ
giá trị gia tăng) càng cao thì giá thành sản phẩm càng cao. Theo quy luật cung cầu
thì điều này hoàn toàn không có lợi đối với hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp. Cũng nh vậy nếu thuế suất thuế trực thu (ví dụ thuế thu nhập doanh
nghiệp) càng cao thì lợi nhuận của doanh nghiệp càng giảm, càng hạn chế hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp. Nói cách khác, thuế suất sẽ tác động trực tiếp
đến giá thành sản phẩm và lợi nhuận ròng của doanh nghiệp. Tóm lại, khi mức
đánh thuế của Chính phủ tăng lên, phần thu nhập còn lại của nhà đầu t giảm
xuống, và điều tất yếu xảy ra là đầu t vào sản xuất kinh doanh sẽ giảm sút, nhất là
đối với khu vực t nhân. Ngợc lại, khi thuế suất giảm xuống sẽ có tác dụng kích
thích đầu t. Đặc biệt đối với các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp,
với đặc điểm linh hoạt, dễ thay đổi ngành nghề kinh doanh, khả năng cạnh tranh
hạn chế thì phản ứng của các doanh nghiệp này đối với sự thay đổi của chính sách
thuế càng nhạy cảm hơn. Nh vậy để khuyến khích các doanh nghiệp mở rộng hoạt
động sản xuất kinh doanh thì chính phủ cần phải có một chính sách thuế hợp lý
vừa đảm bảo ngân sách có nguồn thu cao, vừa đảm bảo để các doanh nghiệp có đủ
điều kiện tài chính tiếp tục đầu t phát triển.
1.2.4. Kinh nghiệm của một số nớc
Hệ thống chính sách là một trong những công cụ quản lý vô cùng quan
trọng của Nhà nớc trong nền kinh tế thị trờng. Phân biệt rõ quản lý Nhà nớc về
kinh tế với quản trị kinh doanh, Nhà nớc sẽ hạn chế tối đa sự can thiệp trực tiếp

của mình vào thị trờng mà sẽ tác động một cách gián tiếp thông qua hệ thống
chính sách đồng bộ, trong đó đặc biệt phải kể đến chính sách tài chính và chính
sách tiền tệ tín dụng. Nhìn chung các Chính phủ đều sử dụng chính sách tài chính
kết hợp với chính sách tiền tệ tín dụng đúng đắn để vừa ổn định nền kinh tế vừa tạo
điều kiện cho đầu t t nhân phát triển.
23
Ví dụ, Nhật Bản có một hệ thống các biện pháp hỗ trợ cho các doanh nghiệp
vừa và nhỏ (chủ yếu các doanh nghiệp này thuộc khu vực t nhân), trong đó quan
trọng nhất là những hỗ trợ về tài chính, tín dụng qua vốn và lãi suất. Hỗ trợ về tài
chính của Nhật bản không hề mang tính bao cấp, mà thể hiện sự chăm lo của Nhà
nớc qua biện pháp tài trợ dới hình thức tín dụng của Nhà nớc có hoàn trả cả vốn và
lãi, nhng với lãi suất thấp.
Một ví dụ khác về Đài Loan, chính sách tài chính và tín dụng của nớc này
tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp t nhân tiếp cận đợc các nguồn tín
dụng và bảo lãnh tín dụng, t vấn về quản lý tài chính và tín dụng, giúp các doanh
nghiệp t nhân trong các hoạt động kế toán và tiếp cận với thị trờng chứng khoán.
Đài Loan đã chú trọng nhiều tới việc khuyến khích các ngân hàng cung cấp tài
chính cho doanh nghiệp vừa và nhỏ ( chủ yếu thuộc khu vực t nhân) và quy định tỷ
lệ cung cấp tài chính cho các doanh nghiệp này cần phải tăng lên hàng năm. Mặc
dù một số doanh nghiệp t nhân có tiềm lực phát triển nhng việc thiếu tài sản thế
chấp làm cho họ không thể nhận đợc sự hỗ trợ tài chính từ các ngân hàng, năm
1974 Chính phủ Đài Loan đã yêu cầu các thể chế tài chính góp vốn cùng Chính
phủ thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ để giúp các
doanh nghiệp này thiếu tài sản thế chấp có thể xin vay vốn từ các cơ sở tài chính
với sự bảo lãnh của quỹ này. Một biện pháp quan trọng nữa trong hỗ trợ tài chính
cho các doanh nghiệp t nhân là việc mời một nhóm chuyên gia để t vấn cho các
doanh nghiệp này, đa ra những đánh giá khách quan về tình hình tài chính của các
doanh nghiệp tạo niềm tin để các tổ chức tài chính tham khảo trớc khi cho vay.
Ngoài ra, Chính phủ Đài Loan còn có chơng trình hớng dẫn cho các doanh nghiệp
t nhân quản lý tài chính và kiểm soát nội bộ nhằm giúp các doanh nghiệp này cải

thiện hệ thống kế toán của họ, tăng cờng khả năng phân tích chi phí, thành lập các
hệ thống kiểm soát và đánh giá nội bộ, tăng cờng khả năng vạch kế hoạch kinh
24
doanh, c¶i thiÖn c¸c biÖn ph¸p thu håi vèn kinh doanh vµ thiÕt lËp quan hÖ víi hÖ
thèng ng©n hµng.
25

×