Tải bản đầy đủ (.doc) (42 trang)

Đề tài: Vấn đề xóa đói giảm nghèo trong chính sách xã hội thời kỳ đổi mới và nguyên nhân căn bản dẫn tới tình trạng tái nghèo hiện nay doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (247.03 KB, 42 trang )

Đường lối Cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam
Tiểu luận
Đường lối Cách mạng của
Đảng cộng sản Việt Nam
Hoàng Thị Nguyệt Minh
1
Đường lối Cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam
Mục Lục
Hoàng Thị Nguyệt Minh
2
Đường lối Cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam
PHẦN I: MỞ ĐẦU
Bước sang thế kỷ XXI, đói nghèo vẫn là vấn đề có tính toàn cầu. Một bức
tranh tổng thể là thế giới với gần một nửa số dân sống dưới 2USD*/ngày và cứ 8
trong số 100 trẻ em không sống được đến 5 tuổi. Vì vậy một phong trào sôi nổi và
rộng khắp trên thế giới là phải làm như thế nào để đẩy lùi nghèo đói. Còn Việt
Nam thì sao? Trong những năm gần đây, Việt Nam được đánh giá là một trong
những nước có công tác xoá đói giảm nghèo tốt nhất theo tiêu chuẩn và phương
pháp xác định đường nghèo khổ của WB, tỷ lệ nghèo ở Việt Nam giảm từ 58,1%
năm 1993 xuống còn 37,4% năm 1998 và hiện nay còn khoảng 30%. Theo tiêu
chuẩn quốc gia tỷ lệ nghèo đói của nước ta giảm từ 30,01% năm 1992 xuống 11%
năm 2000. Tuy quy mô đói nghèo toàn quốc giảm nhanh. Nhưng thực trạng cho
thấy, Việt Nam vẫn là một nước nghèo. Con số các hộ bị tái nghèo là rất lớn bình
quân hàng năm khoảng 50.000 hộ (riêng năm 1996 và 1997 mỗi năm khoảng gần
100.000 hộ do bão lụt. Nếu so sánh tình trạng đói nghèo của nước ta với các nước
trên thế giới thì tính bức xúc của nó là rất lớn, ngưỡng nghèo của Việt Nam vẫn xa
với ngưỡng nghèo của thế giới.
Vấn đề xóa đói giảm nghèo và tái nghèo đến nay vẫn là những vấn đề quan
trọng và nóng bỏng, chính vì vậy nhóm chúng em lựa chọn thực hiện đề tài: “Vấn
đề xóa đói giảm nghèo trong chính sách xã hội thời kỳ đổi mới và nguyên nhân
căn bản dẫn tới tình trạng tái nghèo hiện nay”.


Hoàng Thị Nguyệt Minh
3
Đường lối Cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam
PHẦN II: NỘI DUNG
I. VẤN ĐỀ XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO TRONG CHÍNH SÁCH XÃ
HỘI THỜI KỲ ĐỔI MỚI:
1. Đói nghèo và việc xóa đói giảm nghèo:
Cho đến hôm nay, đói nghèo vẫn là nỗi ám ảnh thường trực đối với cả loài
người. Thế giới đã chứng kiến những thảm họa của chiến tranh, thảm họa của
thiên tai, dịch bệnh với bao nỗi kinh hoàng. Thế nhưng hậu quả do những nạn đói
gây ra cũng vô cùng khủng khiếp. Điều đáng sợ hơn nữa là: Nếu như các cuộc
chiến tranh dù khốc liệt vô cùng nhưng rồi trước sau cũng được giải quyết, nếu
như những thảm họa do thiên tai, dịch bệnh gây ra từng bước cũng sẽ được khắc
phục thì vấn đề nghèo đói của nhân loại lại là một vấn đề vừa cấp bách, vừa phức
tạp lại như một căn bệnh kinh niên khó bề chạy chữa.
Đói nghèo là nỗi bất hạnh và là một phi lý lớn. Trong khi nền văn minh thế
giới đã đạt được những thành tựu hiển nhiên về tiến bộ khoa học - công nghệ, làm
tăng đáng kể của cải vật chất xã hội, tăng thêm vượt bậc sự giàu có cho con người,
thì thảm cảnh đeo đẳng mãi trên lưng con người lại vẫn là sự nghèo đói. Hàng tỷ
người, thực tế là một phần ba số dân thế giới vẫn khốn cùng và đói khát. Thiệt thòi
lớn nhất là trẻ em. Hằng ngày có gần 100 triệu trẻ em không có cái ăn, trên 100
triệu trẻ em vô gia cư chỉ sống nhờ của bố thí hoặc sống dựa vào sự lao động quá
sức, kể cả bằng các nghề đặc biệt là móc túi, mại dâm; trên 50 triệu trẻ em làm
việc trong những ngành có hại; hàng trăm triệu trẻ em tuổi từ 6 - 11 không được
cắp sách đến trường.
Đói nghèo diễn ra trên tất cả các châu lục với những mức độ khác nhau.
Đặc biệt ở các nước đang phát triển, sự đói nghèo của dân cư đang là một vấn đề
nhức nhối rất cấp bách phải tháo gỡ nhưng cũng vô cùng khó khăn trong việc thực
hiện xóa đói giảm nghèo.
Hoàng Thị Nguyệt Minh

4
Đường lối Cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam
Sự nghèo đói thì ai cũng thấy và không nước nào thiếu những chương trình
hoặc những chính sách để thực hiện việc xóa đói giảm nghèo. Có rất nhiều các tổ
chức của Liên Hợp Quốc và của cộng đồng quốc tế thực hiện sứ mệnh vẻ vang
này trên phạm vi hành tinh. Người ta đã tổ chức những chiến dịch lớn với hàng
vạn tấn lương thực, hàng triệu USD để cứu giúp những người hoạn nạn ở các nước
châu Phi, châu Á hoặc như ở Haiti vừa qua. Sự giúp đỡ về vật chất và tinh thần là
rất đáng kể. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, dù đây là công việc mà toàn cầu quan
tâm nhưng rồi các nước đói vẫn hoàn đói, sự trợ giúp của cộng đồng đối với một
bộ phận dân cư khốn khó cũng chỉ như muối bỏ biển, chưa đủ độ, chưa triệt để.
Vấn đề xóa đói giảm nghèo luôn gắn bó và chịu ảnh hưởng của quan hệ
giai cấp và các chế độ xã hội khác nhau. Hiện tượng bị tha hóa và tự tha hóa con
người dưới chế độ tư bản chủ nghĩa luôn là một lực cản đối với công việc xóa đói
giảm nghèo. Chính xã hội, mà mục tiêu duy nhất và cuối cùng là lợi nhuận, là tiền
bạc đã làm phân hóa xã hội, đẩy nhiều người vào cảnh nghèo nàn khốn khó.
Khoảng cách chênh lệch mức sống giữa sự xa xỉ với sự bần hàn càng bị nặng nề
hơn bởi chính sự vô trách nhiệm của các nước phát triển phương Tây, của giai cấp
những người giàu có. Thái độ “sống chết mặc bay” vẫn phổ biến trong hành vi cư
xử ở xã hội của những kẻ say lợi nhuận. Vì vậy, quan điểm cũng như hành động
của giới chức phương Tây trong việc giải quyết nghèo đói trên thế giới hiện nay
chỉ giới hạn trong phạm vi hẹp, chỉ là để làm giảm cơn đau khốn khó, hoặc cùng
lắm đó là việc làm mang tính nhân đạo mà thôi.
Đảng ta coi cơ sở phương pháp luận quan trọng và cơ bản nhất để phân tích
vấn đề đói nghèo và xóa đói giảm nghèo là giải phóng con người khỏi mọi áp bức,
bất công, thực hiện công bằng xã hội. Chủ nghĩa xã hội là quá trình kiến tạo hạnh
phúc và cũng là quá trình đấu tranh vì sự công bằng, đấu tranh để thủ tiêu nguồn
gốc bất công xã hội.
Vấn đề công bằng xã hội - vấn đề có quan hệ trực tiếp và quyết định đối với
việc xóa đói giảm nghèo đã được Đảng ta luôn quan tâm chú ý. Những đại hội

Hoàng Thị Nguyệt Minh
5
Đường lối Cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam
Đảng gần đây, từ Đại hội VI đến Đại hội XI, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết,
nhiều văn bản đề cập tới vấn đề công bằng xã hội.
Chúng ta hiểu công bằng xã hội vừa là mục tiêu vừa là động lực để phát
triển. Công bằng xã hội không bó hẹp trong lĩnh vực kinh tế mà liên quan tới tất cả
các lĩnh vực kinh tế - chính trị - pháp luật - văn hóa - xã hội. Công bằng xã hội
phải được giải quyết và chỉ có thể được giải quyết gắn liền với sự phát triển sản
xuất, xây dựng xã hội thực sự dân chủ, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam. Công
bằng xã hội đòi hỏi phải huy động mọi nguồn lực trong nhân dân, xã hội hóa
nhiệm vụ đền ơn đáp nghĩa, xây dựng và thực hiện tốt kế hoạch phát triển kinh tế -
xã hội trên cơ sở vừa tăng nhanh tốc độ phát triển, vừa giảm dần sự mất cân đối
giữa các vùng; giảm dần khoảng cách về thu nhập, mức sống, hưởng thụ giáo dục,
văn hóa, bảo vệ sức khỏe của các tầng lớp dân cư ở các vùng khác nhau. Đặc biệt,
công bằng xã hội đòi hỏi phải thực hiện tốt chương trình xóa đói giảm nghèo, an
sinh xã hội.
Trong các văn kiện quan trọng của Đảng Cộng sản Việt Nam, vấn đề xóa
đói giảm nghèo được nhiều lần đề cập tới. Để bảo đảm và hướng tới công bằng xã
hội, Đảng ta khẳng định “khuyến khích làm giàu hợp pháp, chống làm giàu phi
pháp đi đôi với chăm lo xóa đói, giảm nghèo, thu hẹp dần khoảng cách về trình độ
phát triển, về mức sống giữa các vùng căn cứ cách mạng và kháng chiến cũ, các
gia đình thuộc diện chính sách, làm cho mọi người, mọi nhà đều tiến tới cuộc sống
ấm no, hạnh phúc, ai cũng có việc làm, có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành
và chữa bệnh, từng bước thực hiện điều Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng mong ước”.
Trong quá trình thiết kế, chỉ đạo thi công việc xây dựng nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở nắm bắt những mặt mạnh và
mặt yếu của cơ chế thị trường, Đảng ta đã đưa ra những quan điểm chỉ đạo: “Để
phát triển sức sản xuất, cần phát huy khả năng của mọi thành phần kinh tế, thừa

nhận trên thực tế còn có bóc lột và sự phân hóa giàu nghèo nhất định trong xã hội,
Hoàng Thị Nguyệt Minh
6
Đường lối Cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam
nhưng phải luôn quan tâm, bảo vệ lợi ích của người lao động, vừa khuyến khích
làm giàu hợp pháp, chống làm giàu phi pháp, vừa coi trọng xóa đói, giảm nghèo,
từng bước thực hiện công bằng xã hội, tiến tới làm cho mọi người, mọi nhà đều
khá giả”.
Chú trọng đúng mức đến vấn đề đói nghèo trong xã hội, với nhãn quan
chính trị nhạy bén và với trách nhiệm cao cả trước nhân dân, Đảng ta đã đưa ra
những chương trình rộng lớn để tập trung giải quyết là “Chương trình về xóa đói,
giảm nghèo”. Trên cơ sở đó, Nhà nước cũng đã có hàng chục chương trình cấp
quốc gia và dự án đang được thực thi có nội dung gắn với xóa đói giảm nghèo.
Vấn đề xóa đói giảm nghèo trong chính sách xã hội thời kỳ đổi mới được Đảng ta
xuyên suốt từ đại hội VI đến đại hội XI.
2. Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ VI:
Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam VI họp từ ngày 15 đến ngày 18 tháng 12
năm 1986 tại Hà Nội (họp nội bộ từ ngày 5 đến ngày 14 tháng 12 năm 1986). Dự
đại hội có 1.129 đại biểu thay mặt cho gần 1,9 triệu đảng viên của cả nước, 32
đoàn đại biểu của các Đảng và các tổ chức quốc tế.
Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam VI diễn ra trong bối cảnh sai lầm của đợt
tổng cải cách giá – lương – tiền cuối năm 1985 làm cho nền kinh tế Việt Nam
càng trở nên khó khăn. Việt Nam đã không thực hiện được mục tiêu đề ra là cơ
bản ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định đời sống nhân dân. Số người bị
thiếu đói tăng, bội chi lớn. Nền kinh tế Việt Nam lâm vào khủng hoảng trầm trọng.
Trong tiến trình đổi mới đất nước, Đại hội VI là bước đột phá đầu tiên
về đổi mới tư duy của Đảng về phát triển kinh tế. Đó là việc xác lập, xây dựng cơ
cấu kinh tế phù hợp với sự vận động của quy luật khách quan và trình độ của nền
kinh tế. Đại hội có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát triển của đất nước, tạo ra sự
ổn định về chính trị, xã hội, giữ vững an ninh - quốc phòng. Cũng tại Đại hội, lần

đầu tiên Đảng ta nâng các vấn đề xã hội lên tầm chính sách xã hội, đặt rõ tầm quan
Hoàng Thị Nguyệt Minh
7
Đường lối Cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam
trọng của chính sách xã hội đối với chính sách kinh tế và chính sách ở các lĩnh vực
khác. Đại hội cho rằng trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện
chính sách xã hội nhưng những mục tiêu xã hội lại là mục đích của các hoạt động
kinh tế.
Đường lối đổi mới do Đại hội VI của Đảng khởi xướng đã mở đầu cho thời
kỳ phát triển mới trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trong quá
trình đổi mới, trước hết và chủ yếu là đổi mới kinh tế (gắn với từng bước đổi mới
chính trị), Đảng ta rất quan tâm tới vấn đề xác lập một cơ cấu kinh tế phù hợp với
đặc điểm, trình độ phát triển của nền kinh tế trong chặng đường đầu tiên của thời
kỳ quá độ.
Đại hội chỉ ra đổi mới cơ cấu kinh tế cuối cùng cũng là nhằm xây dựng cơ
sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, tiến tới hoàn thiện quan hệ sản xuất xã
hội chủ nghĩa, đáp ứng nhu cầu không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân, bảo đảm vững chắc nền an ninh quốc phòng, sử dụng và phát
huy hiệu quả sức mạnh tổng hợp của đất nước vào mục tiêu phát triển.
Đại hội VI chỉ rõ phải nhận thức cho đúng về CNXH, về bố trí cơ cấu kinh
tế, phải căn cứ vào điều kiện lịch sử mới của đất nước và xu thế phát triển để đổi
mới tư duy, đổi mới nhận thức về cơ cấu kinh tế. So với trước năm 1986, trong bố
trí cơ cấu kinh tế, vấn đề mới được Đại hội VI đặc biệt chú ý là tính “phù hợp điều
kiện thực tế, bảo đảm cho nền kinh tế phát triển ổn định”.
Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã có sự quan tâm đặc biệt
đến việc xóa đói, giảm nghèo, coi đó là một nội dung của nhiệm vụ cách mạng,
một nhu cầu bức thiết của nhân dân, nhất là khi đất nước ở trong tình trạng nghèo
nàn và trải qua chiến tranh.
Ngay sau khi nước nhà giành được độc lập, một trong những chủ trương
hàng đầu của Chính phủ lâm thời do Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo là “diệt giặc

đói”. Sau khi lãnh đạo toàn dân thực hiện thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực
Hoàng Thị Nguyệt Minh
8
Đường lối Cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam
dân Pháp và đế quốc Mỹ, thống nhất đất nước. Đảng ta lãnh đạo nhân dân cả nước
thực hiện nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình
mới. Để thực hiện thành công nhiệm vụ xóa đói, giảm nghèo, Đại hội VI của Đảng
đã đề ra mục tiêu là “bảo đảm nhu cầu ăn của toàn xã hội và bước đầu có dự trữ.
Vấn đề lương thực phải được giải quyết một cách toàn diện”
Đại hội VI đã đề ra mục tiêu phải thực hiện trong 5 năm (1986-1990):
“Về lương thực, thực phẩm: Bảo đảm lương thực đủ ăn cho toàn xã hội và
có dự trữ. Đáp ứng một cách ổn định nhu cầu thiết yếu về thực phẩm. Mức tiêu
dùng lương thực, thực phẩm phải bảo đảm tái sản xuất sức lao động
Về hàng tiêu dùng: sản xuất đáp ứng được nhu cầu bình thường của nhân
dân thành thị và nông thôn về những sản phẩm công nghiệp thiết yếu;
Về hàng xuất khẩu: tạo được một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực, đạt kim
ngạch xuất khẩu đáp ứng được phần lớn nhu cầu nhập khẩu vật tư, máy móc, phụ
tùng và những hàng hóa cần thiết”
Ổn định tình hình kinh tế - xã hội bao gồm ổn định sản xuất, ổn định phân
phối, lưu thông, ổn định đời sống vật chất và văn hóa, tăng cường hiệu lực của tổ
chức quản lí, lập lại trật tự, kỉ cương và thực hiện công bằng xã hội.
Ổn định và phát triển gắn liền với nhau trong quá trình vận động tiến lên,
ổn định để phát triển và có phát triển mới ổn định được.
Muốn thực hiện những "nhiệm vụ bao trùm, mục tiêu tổng quát “của chặng
đường đầu tiên (phải trong nhiều kế hoạch 5 năm nữa) thì trong 5 năm trước mắt
(1986-1990) cần tập trung sức người, sức của thực hiện bằng được nhiệm vụ, mục
tiêu của ba chương trình về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất
khẩu.
Những mục tiêu cụ thể đó là:
Hoàng Thị Nguyệt Minh

9
Đường lối Cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam
- Bảo đảm nhu cầu lương thực của xã hội và có dự trữ; đáp ứng một cách
ổn định nhu cầu thiết yếu về thực phẩm. Mức tiêu dùng lương thực, thực phẩm đủ
tái sản xuất sức lao động.
- Đáp ứng nhu cầu của nhân dân về những mặt hàng tiêu dùng thiết yếu.
- Tạo được một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực; tăng nhanh kim ngạch xuất
khẩu để đáp ứng được phần lớn nhu cầu nhập khẩu vật tư, máy móc, phụ tùng và
những hàng hóa cần thiết.
Muốn thực hiện những mục tiêu của Ba chương trình kinh tế, thì nông
nghiệp, kể cả lâm nghiệp, ngư nghiệp phải được đặt đúng vị trí là mặt trận hàng
đầu và được ưu tiên đáp ứng nhu cẩu về vốn đấu tư, về năng lực, vật tư, lao động,
kĩ thuật.
Kết quả bước đầu đạt được là:
Về lương thực, thực phẩm, từ chỗ thiếu ăn triền miên (năm 1988, năm ta
phải nhập hơn 45 vạn tấn gạo), đến năm 1990, chúng ta đã vươn lên đáp ứng nhu
cầu trong nước, có dự trữ và xuất khẩu, góp phần quan trọng ổn định đời sống
nhân dân và thay đổi cán cân xuất - nhập khẩu. Đó là kết quả tổng hợp của việc
phát triển sản xuất, thực hiện chính sách khoán trong nông nghiệp, xóa bỏ chế độ
bao cấp, tự do lưu thông và điều hòa cung cầu lương thực thực phẩm trên phạm vi
cả nước. Sản lượng lương thực năm 1988 đạt 19,50 triệu tấn (vượt năm 1987 hơn
2 triệu tấn) và năm 1989 đạt 21,40 triệu tấn.
3. Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ VII:
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII họp từ ngày 24 đến ngày 27 tháng 6
năm 1991 tại Hà nội. Tham dự đại hội có 1176 đại biểu, thay mặt cho hơn hai triệu
đảng viên của toàn đảng. Đại hội họp trong hoàn cảnh sau năm năm tiến hành đổi
mới, nhân dân ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, nhất là về mặt kinh tế.
Những nội dung cơ bản được nêu trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VII của Đảng: Thông qua "Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành
Hoàng Thị Nguyệt Minh

10
Đường lối Cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam
Trung Ương (khoá VI) tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII", "Chiến lược ổn
định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000, "Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội":
- Kiểm điểm, tổng kết tình hình 5 năm thực hiện nghị quyết đại hội đảng
lần thứ VI, đánh giá thành tựu, tồn tại, rút ra các bài học kinh nghiệm lớn.
- Về kiểm điểm đánh giá tình hình, đại hội khẳng định: công cuộc đổi mới
đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Nền kinh tế đã có những chuyển biến tích
cực, bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo
cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước Tình hình chính trị của đất nước
giữ được ổn định, sinh hoạt dân chủ trong xh ngày càng phát huy
- Đại hội cũng nhận định là: thành tự đổi mới tuy đã đạt nhiều thành tựu
quan trọng nhưng còn nhiều hạn chế. Nước ta còn nhiều yếu kém, vẫn chưa ra
khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội. Còn nhiều vấn đề kinh tế, xã hội nóng bỏng
chưa được giải quyết. Nước ta cũng còn đang đứng trước những khó khăn khách
quan như vẫn còn bị đế quốc mỹ và các thế lực thù địch bao vây, cấm vận. Hệ
thống XHCN thế giới đang khủng hoảng sâu sắc và đang đứng trước những thử
thách quyết liệt.
Mục tiêu tổng quát của Chiến lược đến năm 2000 là: ra khỏi khủng hoảng,
ổn định tình hình kinh tế - xã hội, phấn đấu vượt qua tình trạng nước nghèo và
kém phát triển, cải thiện đời sống của nhân dân, củng cố quốc phòng và an ninh,
tạo điều kiện cho đất nước phát triển nhanh hơn vào đầu thế kỷ XXI.
Mục tiêu này bao gồm những nội dung dưới đây:
Một là, vượt qua những khó khăn gay gắt trước mắt, ra khỏi khủng hoảng,
ổn định tình hình kinh tế - xã hội. Đẩy lùi và khống chế lạm phát, ổn định và phát
triển sản xuất, ổn định đời sống của nhân dân, thu hẹp chênh lệch trong thanh toán
quốc tế; chấm dứt tình trạng xuống cấp về giáo dục, văn hoá, y tế, đẩy lùi các tệ
nạn xã hội; tiếp tục đẩy mạnh cải cách kinh tế, hình thành đồng bộ cơ chế thị
Hoàng Thị Nguyệt Minh

11
Đường lối Cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam
trường; chỉnh đốn và nâng cao hiệu lực quản lý của bộ máy nhà nước, chống tham
nhũng, thiết lập trật tự, kỷ cương trong kinh tế và xã hội. Nhiệm vụ này là trọng
tâm của kế hoạch 5 năm 1991-1995.
Hai là, phấn đấu xoá nạn đói, giảm số người nghèo khổ, giải quyết vấn đề
việc làm, bảo đảm các nhu cầu cơ bản, cải thiện đời sống vật chất, văn hoá và tinh
thần của nhân dân, tăng dần tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế, thu hút nhiều nguồn lực
bên ngoài; tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật, chuyển dịch rõ rệt cơ cấu kinh tế
theo hướng công nghiệp hoá.
Ba là, củng cố và xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, phát triển giáo
dục và đào tạo, nâng cao dân trí, năng lực khoa học và công nghệ đáp ứng nhu cầu
của những năm 90 và chuẩn bị cho tương lai.
Bốn là, củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh trong tình hình mới, bảo
đảm trật tự, an toàn và môi trường hoà bình, ổn định, hợp tác cho sự nghiệp phát
triển kinh tế.
Từ giữa năm 1988 trở đi, các chủ trương, chính sách đổi mới bắt đầu mang
lại kết quả rõ rệt, tình hình kinh tế và đời sống nhân dân dần dần được cải thiện,
sinh hoạt dân chủ trong xã hội ngày càng được phát huy, lòng tin của nhân dân
vào công cuộc đổi mới tăng lên.
Tuy nhiên, những kết quả do đổi mới đem lại còn hạn chế và chưa vững
chắc. Do những thiếu sót chủ quan và tác động bất lợi của những yếu tố khách
quan, từ quý II-1990 đến nay, bên cạnh những nhân tố tích cực tiếp tục được phát
huy, tình hình kinh tế, xã hội có những diễn biến phức tạp mới. Nhiều cơ sở sản
xuất kinh doanh đình đốn kéo dài, lạm phát ở mức cao, tình trạng tham nhũng, tiêu
cực, bất công trong xã hội tiếp tục phát triển; đời sống của những người mà nguồn
thu nhập chính dựa vào tiền lương hoặc trợ cấp xã hội và một bộ phận nông dân
tiếp tục giảm sút; tâm trạng lo lắng trong một bộ phận nhân dân có chiều hướng
tăng lên.
Hoàng Thị Nguyệt Minh

12
Đường lối Cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam
Đại hội VII đã xác định xóa đói giảm nghèo là một trong những chương
trình kinh tế - xã hội vừa cấp bách trước mắt vừa cơ bản lâu dài. Đồng thời việc
xóa đói giảm nghèo đòi hỏi cũng phải có những chính sách thích hợp mới đạt
được hiệu quả. Một trong những chính sách giải quyết có hiệu quả nhất vấn đề xóa
đói giảm nghèo đó là chính sách chi tiêu công hợp lý của nhà nước cho công tác
xóa đói giảm nghèo. Chi tiêu công cho công tác xóa đói giảm nghèo là việc chi
dùng vốn đầu tư để đầu tư phát triển các ngành kinh tế, đầu tư vào cơ sở hạ tầng
và kết cấu hạ tầng xã hội, từng bước nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống cho
người nghèo để giúp họ thoát khỏi cảnh nghèo đói. Khi Việt Nam chuyển sang
kinh tế thị trường định hướng XHCN, chi tiêu công sẽ ngày càng trở thành một
công cụ chính sách quan trọng để đạt được các mục tiêu tăng trưởng và giảm
nghèo. Và việc này đòi hỏi sự kết hợp chặt chẽ hơn nữa giữa các cơ quan chức kế
hoạch và ngân sách tại tất cả các cấp chính quyền.
Mục tiêu của chính sách xã hội thống nhất với mục tiêu phát triển kinh tế,
đều nhằm phát huy sức mạnh của nhân tố con người và vì con người. Kết hợp hài
hoà giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, xã hội, giữa tăng trưởng kinh tế
với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần của nhân dân. Coi
phát triển kinh tế là cơ sở và tiền đề để thực hiện các chính sách xã hội, thực hiện
tốt chính sách xã hội là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế.
- Phương hướng giải quyết đời sống 5 năm tới là: đáp ứng tốt hơn các nhu
cầu thiết yếu và ngày càng đa dạng của các tầng lớp dân cư; bảo đảm vững chắc
nhu cầu lương thực, khắc phục tình trạng thiếu đói thường xuyên và nạn đói giáp
hạt ở một số vùng; nâng mức cung ứng và tiêu dùng thực phẩm, tăng thêm dinh
dưỡng bữa ăn của đông đảo nhân dân.
- Cải thiện điều kiện ở của nhân dân, chú trọng các thành phố lớn, một số
vùng nông thôn và các vùng hay gặp thiên tai. Từng bước cải thiện các điều kiện
vệ sinh công cộng, bảo vệ môi trường, xây dựng nếp sống văn minh. Phát triển và
nâng cao chất lượng hệ thống giao thông công cộng.

Hoàng Thị Nguyệt Minh
13
Đường lối Cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam
4. Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ VIII
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra từ
ngày 28-6 đến 1-7-1996, tại Hội trường Ba Đình, Hà Nội. Dự Đại hội có 1.198
đảng viên đại diện cho gần 2 triệu 130 nghìn đảng viên trong cả nước. Đại hội lần
thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam họp vào thời điểm lịch sử có ý nghĩa cực
kỳ quan trọng. Công cuộc đổi mới toàn diện mở đầu từ Đại hội VI đã trải qua gần
10 năm. Từ đó đến nay, nước ta đã có những thay đổi to lớn và sâu sắc. Đại hội
VIII có nhiệm vụ kiểm điểm kết quả 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VII, tổng
kết 10 năm đổi mới, đề ra những mục tiêu, phương hướng, nhiệm vụ của toàn
Đảng và toàn dân ta trong thời kỳ mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
mà nhiệm vụ trung tâm là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đại hội VIII đã xác định giai đoạn từ nay đến năm 2000 là bước rất quan
trọng của thời kỳ phát triển mới - đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Nhiệm vụ của nhân dân ta là tập trung mọi lực lượng, tranh thủ thời cơ, vượt
qua thử thách, đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ, tiếp
tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phấn đấu đạt và vượt
mục tiêu được đề ra trong Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến
năm 2000: tăng trưởng kinh tế nhanh, hiệu quả cao và bền vững đi đôi với giải
quyết những vấn đề bức xúc về xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng, cải thiện đời
sống của nhân dân, nâng cao tích lũy từ nội bộ nền kinh tế, tạo tiền đề vững chắc
cho bước phát triển cao hơn vào đầu thế kỷ sau.
Trong các vấn đề bàn đến, vấn đề xóa đói giảm nghèo là một trong những
vấn đề được Đại hội quan tâm, chú ý, đặt mục tiêu phải làm tốt trong những năm
tiếp theo:
- Tạo việc làm nhiều hơn số lao động tăng thêm hằng năm, giảm đáng kể
thất nghiệp; xóa đói, tiếp tục giảm nghèo.

Hoàng Thị Nguyệt Minh
14
Đường lối Cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam
- Cải thiện điều kiện ăn, ở, học hành, chữa bệnh, đi lại, nâng cao mức
hưởng thụ văn hóa của nhân dân, đặc biệt các vùng nông thôn, miền núi.
- Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói giảm nghèo.
Thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển, về mức sống giữa các vùng, các
dân tộc, các tầng lớp dân cư.
- Các vấn đề chính sách xã hội nói chung và xóa đói giảm nghèo nói riêng
đều giải quyết theo tinh thần xã hội hóa. Nhà nước giữ vai trò nòng cốt đồng thời
động viên mỗi người dân, các doanh nghiệp, các tổ chức trong xã hội, các cá nhân
và tổ chức nước ngoài cùng tham gia giải quyết những vấn đề xã hội.
- Thực hiện tốt chương trình xóa đói giảm nghèo, nhất là đối với vùng căn
cứ cách mạng, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Xây dựng và phát triển quỹ xóa đói
giảm nghèo bằng nhiều nguồn vốn trong và ngoài nước; quản lý chặt chẽ, đầu tư
đúng đối tượng và có hiệu quả.
- Tổ chức tốt đời sống xã hội trên từng địa bàn để trong điều kiện thu nhập
bình quân đầu người còn thấp vẫn tạo được một cuộc sống khá hơn cho nhân dân.
Mở rộng diện các xã có điện, có đường, có trường học, có trạm y tế, có nước
sạch…
- Giảm tỷ lệ nghèo đói trong tổng số hộ của cả nước từ 20-25% hiện nay
xuống còn khoảng 10% vào năm 2000, bình quân giảm 3000 nghìn hộ/năm.
- Trong 2-3 năm đầu của kế hoạch 5 năm, tập trung xoá về cơ bản nạn đói
kinh niên.
Cơ chế chính sách đối với người nghèo và xã nghèo:
Hiện nay có 14 chương trình quốc gia và dự án được thực hiện có nội dung
gắn với xoá đói, giảm nghèo. Từ năm 1996 sẽ lồng ghép chương trình xoá đói,
giảm nghèo với các chương trình khác, trong đó lấy chương trình quốc gia về giải
quyết việc làm và về phủ xanh đất trống đồi núi trọc làm nòng cốt.
Hoàng Thị Nguyệt Minh

15
Đường lối Cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam
Bổ sung các chính sách giúp cho người nghèo, hộ nghèo, xã nghèo tổ chức
sản xuất, bảo đảm cuộc sống và nâng lên khá giả, trước mắt tập trung vào các
chính sách sau đây:
Uỷ ban nhân dân các cấp tỉnh, huyện rà soát lại toàn bộ diện tích đất đai
trên địa bàn lãnh thổ, thu hồi đất đai đã cấp không đúng đối tượng, không đúng
chính sách, thu hồi đất đã cấp cho các doanh nghiệp, các cơ quan sử dụng không
đúng mục đích, để giao cho các hộ nông dân nghèo chưa được giao đất hoặc giao
chưa đủ mức. Vận động và giúp đỡ hộ nông dân nghèo đến các vùng kinh tế mới
mau chóng ổn định sản xuất và đời sống.
Mở rộng các quỹ tín dụng cho các hộ nghèo vay vốn sản xuất, với lãi suất
ưu đãi. Các hộ nghèo được Uỷ ban nhân dân xã, phường chứng nhận được vay
vốn không phải thế chấp. Thông qua ngân hàng phục vụ người nghèo và các quỹ
hỗ trợ của các tổ chức đoàn thể bảo đảm 90-95% số hộ nghèo được vay vốn sản
xuất, trong đó các hộ thuộc đối tượng chính sách, các hộ đói nghèo nhất được ưu
tiên vay trước. Nguồn vốn để thực hiện mục tiêu này bao gồm vốn tự có của ngân
hàng, vốn của các chương trình, vốn của quỹ xoá đói, giảm nghèo, vốn tài trợ quốc
tế kể cả vốn vay, vốn hỗ trợ của ngân sách Nhà nước
Các cơ sở đào tạo và các trung tâm dạy nghề của Nhà nước thực hiện việc
đào tạo nghề miễn phí đối với con em các hộ nghèo; đồng thời hỗ trợ kinh phí cho
các doanh nghiệp nhận tuyển con em các hộ nghèo vào đào tạo và làm việc.
Xây dựng đội ngũ những người tình nguyện, bao gồm các cán bộ kỹ thuật,
sinh viên mới tốt nghiệp và những nông dân làm ăn giỏi trong vùng, để hướng dẫn
cách làm ăn và phổ biến các biện pháp kỹ thuật giúp đỡ người nghèo sản xuất kinh
doanh.
Đối với các vùng cao, vùng sâu, vùng xa sản phẩm tiêu thụ khó khăn, giá
thấp, Nhà nước thông qua các doanh nghiệp Nhà nước bao tiêu sản phẩm và trợ
giá.
Hoàng Thị Nguyệt Minh

16
Đường lối Cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam
Xây dựng chính sách tài trợ đầu tư 6 loại công trình xã hội thiết yếu cho
1.300 xã nghèo nhất (đường ôtô và đường dây điện đến trung tâm xã; nước sạch
cho dân cư; phòng học cho học sinh cấp I, II, xoá lớp ca 3; trạm y tế; chợ tại xã
hoặc liên xã).
Con em các hộ nghèo đi học các trường phổ thông đều được miễn học phí
(hoặc được cấp học bổng để đóng học phí); ở bậc tiểu học được mượn sách giáo
khoa, cấp không vở viết và được miễn mọi khoản đóng góp khác. Đối với các hộ
quá khó khăn có thể xét trợ cấp thêm học bổng. Tổ chức các lớp học tình thương
cho con em người nghèo do những giáo viên tình nguyện giảng dạy.
Các học sinh giỏi là con em các hộ nghèo, nhất là con em đồng bào các dân
tộc ít người, được ưu tiên xét chọn vào các trường dân tộc nội trú, các trường đại
học, cao đẳng và ưu tiên xét học bổng hằng năm.
Cấp miễn phí thẻ bảo hiểm y tế cho các hộ nghèo theo số người trong gia
đình. Các tỉnh, thành phố có điều kiện, có thể thành lập cơ sở khám chữa bệnh
nhân đạo cho người nghèo.
Phối hợp các chương trình xã hội khác như: Dân số, kế hoạch hoá gia đình,
chống sốt rét, bướu cổ, tiêm chủng mở rộng, phòng chống tệ nạn xã hội và chương
trình hành động quốc gia vì trẻ em 1991 - 2000 để chăm sóc sức khoẻ cho người
nghèo.
Tổ chức điều tra xác định số hộ nghèo đói do mất khả năng lao động và
xây dựng tiêu chuẩn chính sách trợ cấp cụ thể theo chính sách cứu tế xã hội nhằm
ổn định đời sống lâu dài cho họ.
5. Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ IX
Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam diên x ra từ ngày 19/4 đến ngày
22/4/2001 Tại Hà Nội
Nhiệm vụ của Đại hội là nhìn lại chặng đường 71 năm cách mạng Việt
Nam; tổng kết năm năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII; 15 năm đổi mới đất
Hoàng Thị Nguyệt Minh

17
Đường lối Cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam
nước, mười năm thực hiện chiến lược kinh tế - xã hội; rút ra bài học kinh nghiệm
sâu sắc, từ đó phát triển và hoàn thiện đường lối, định ra chiến lược phát triển đất
nước trong hai thập kỷ đầu của thế kỷ 21; hoạch định phương hướng nhiệm vụ xây
dựng Đảng ta ngang tầm đòi hỏi của dân tộc trong thời kỳ mới; sửa đổi, bổ sung
Điều lệ Đảng.
Mục tiêu của Đảng: Hoạch định Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10
năm (2001-2010), với mục tiêu tổng quát là: Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém
phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, tạo nền
tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng
hiện đại Đại hội đã thông qua Điều lệ Đảng bổ sung, sửa đổi.
Đại hội Đảng lần thứ IX (4-2001) và các Hội nghị Trung ương Khoá IX đã
cụ thể hoá và bổ sung các quan điểm về chính sách xã hội của Đại hội VIII, với
những nội dung cơ bản về vấn đề xóa đói giảm nghèo trong chính sách xã hội:
- Giải quyết chính sách xã hội phải gắn liền với quá trình xây dựng thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt là “phát triển thị trường
lao động; người lao động được tìm và tạo việc làm ở mọi nơi trong nước; đẩy
mạnh xuất khẩu lao động với sự tham gia của các thành phần kinh tế”
- Trong giải quyết các chính sách xã hội, Nhà nước vừa là người điều tiết,
vừa là nhà đầu tư.
- Coi trọng công bằng trong hưởng thụ các dịch vụ xã hội, đặc biệt là công
bằng trong thụ hưởng dịch vụ giáo dục và chăm sóc y tế, với việc tạo cơ hội cho
những đối trọng, những vùng còn khó khăn có cơ hội được chăm sóc tốt hơn.
- Xã hội hoá việc giải quyết các vấn đề xã hội, động viên toàn xã hội tham
gia giải quyết các vấn đề xã hội.
- Thực hiện các chính sách xã hội hướng vào phát triển và lành mạnh hoá
xã hội.
Hoàng Thị Nguyệt Minh
18

Đường lối Cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam
Đại hội xác định mô hình kinh tế tổng quát của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam là phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa; đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đại hội IX của Đảng nêu rõ: Đẩy mạnh CNH, HĐH, xây dựng nền kinh tế
độc lập, tự chủ, đưa nước ta trở thành nước công nghiệp; ưu tiên phát triển lực
lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng
XHCN; phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng
trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất
và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải
thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng -
an ninh. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội mười năm 2001 - 2010 nhằm đưa
nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một
nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học
và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng
cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN được hình thành về cơ bản;
vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao.
6. Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ X
Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam X, được gọi chính thức là Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ X là đại hội lần thứ mười của Đảng Cộng sản Việt Nam,
được tổ chức từ ngày 18 đến 25 tháng 4 năm 2006 tại Hà Nội. 1.176 đại biểu, đại
diện cho 3,1 triệu đảng viên đã tham dự lễ khai mạc.
Đại hội đã thông qua Báo cáo Chính trị với tiêu đề: "Nâng cao năng lực
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh
toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển".
Hoàng Thị Nguyệt Minh
19

Đường lối Cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam
Đại hội chủ trương phải kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong
phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, địa phương.
Trong điều kiện Việt Nam gia nhập WTO, hội nhập sâu rộng hơn vào hệ
thống kinh tế quốc tế, Hội nghị TW 4, khóa X (tháng 1 – 2007) nhấn mạnh phải
giải quyết tốt các vấn đề xã hội nảy sinh trong quá trình thực thi các cam kết với
WTO. Xây dựng cơ chế đánh giá và cảnh báo định kỳ về tác động của việc gia
nhập WTO đối với lĩnh vực xã hội để có biện pháp xử lý chủ động, đúng đắn, kịp
thời.
Hội nghị TW 9 (khóa X) họp từ ngày 5 đến 13-1-2009 kiểm điểm nửa đầu
nhiệm kỳ thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng đã đánh giá sự nghiệp đổi mới
tiếp tục được đẩy mạnh trên mọi lĩnh vực. Chính trị - xã hội ổn định. Cơ bản ổn
định kinh tế vĩ mô, duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao. An sinh xã hội
được chăm lo nhiều hơn. Hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế được đẩy mạnh.
Quốc phòng - an ninh được tăng cường. Chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ được giữ
vững. Đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân,
quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội X của Đảng trong bối cảnh tình
hình quốc tế và trong nước có nhiều khó khăn, thách thức.
Đảng ta đã đưa ra những chương trình rộng lớn để tập trung giải quyết là
“Chương trình về xóa đói, giảm nghèo”. Trên cơ sở đó, Đảng và Nhà nước cũng
đã có hàng chục chương trình cấp quốc gia và dự án đang được thực thi có nội
dung gắn với xóa đói, giảm nghèo.
Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về việc xóa đói giảm nghèo:
Một số luận điểm và chính sách cụ thể của Đảng và Nhà nước:
Một là: xóa đói giảm nghèo vừa là nhiệm vụ cơ bản lâu dài, vừa là nhiệm
vụ trọng tâm trước mắt.
Tính lâu dài của xóa đói giảm nghèo là do:
Hoàng Thị Nguyệt Minh
20
Đường lối Cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam

- Thứ nhất, xóa đói giảm nghèo là nội dung, và nhiệm vụ cần thực hiện để
bảo đảm công bằng xã hội. Thực tiễn cho thấy, có những nguyên nhân nảy sinh
nghèo đói không phải do môi trường xã hội, không do điều kiện kinh tế - địa lý,
mà do hoàn cảnh và đặc điểm của từng cá nhân, từng hộ gia đình. Những trường
hợp này luôn có khả năng xuất hiện và việc xóa đói giảm nghèo mang tính thường
trực.
- Thứ hai, chủ trương của Đảng ta phát triển kinh tế nhiều thành phần là
một định hướng chiến lược. Nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường luôn có
xu hướng phân hóa hai cực giàu nghèo. Vì vậy, cùng với việc tăng cường sự quản
lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa thường xuyên và liên tục, lâu
dài, thì nhiệm vụ xóa đói giảm nghèo, nhất là giảm nghèo, cũng là vấn đề liên tục
và lâu dài mới giải quyết được.
- Thứ ba, dân giàu nước mạnh là mục tiêu cơ bản của chủ nghĩa xã hội.
Thực hiện mục tiêu này là một quá trình phấn đấu gian khổ, lâu dài.
Xóa đói giảm nghèo vừa có tính cơ bản và cần thực hiện liên tục, lâu dài,
lại là một công việc cần kíp, trước mắt, bởi vì sự nghiệp cách mạng và công cuộc
đổi mới luôn đặt ra nhiệm vụ: mỗi bước phát triển kinh tế - xã hội là một bước cải
thiện đời sống của nhân dân; bởi vì đây không chỉ là việc thực hiện truyền thống,
đạo lý của dân tộc “thương người như thể thương thân”, mà còn là nhiệm vụ để
bảo đảm ổn định xã hội, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.
Hai là, tăng trưởng kinh tế là điều kiện giúp cho việc xóa đói giảm nghèo,
nhưng đây là hai nhiệm vụ có tính độc lập tương đối và không phải là một. Có
người cho rằng, muốn xóa đói giảm nghèo trước hết phải đầu tư phát triển sản xuất
để tăng trưởng kinh tế. Chỉ đến khi kinh tế đã phát triển đến giai đoạn nhất định sẽ
hết đói nghèo, vì thế không nên đặt vấn đề xóa đói giảm nghèo là nhiệm vụ lâu dài
và trọng yếu. Thực ra tăng trưởng kinh tế có ảnh hưởng đến việc giải quyết vấn đề
nghèo đói, bởi vì nguyên nhân chính yếu của đói nghèo nói chung là do kinh tế
chưa phát triển. Tuy nhiên, đói nghèo lại do nhiều nguyên nhân khác mang tính
Hoàng Thị Nguyệt Minh
21

Đường lối Cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam
đặc thù. Vả lại trong điều kiện kinh tế nước ta hiện nay, chúng ta chấp nhận kinh
tế nhiều thành phần cùng vận động, phát triển cũng là phải chấp nhận tình trạng
phân hóa giàu nghèo tương đối. Vì vậy, xóa đói giảm nghèo không những là công
việc cần thiết mà là nhiệm vụ cấp bách và quan trọng. Chúng ta xác định sự phân
hóa giàu nghèo không thể tránh khỏi, nên cũng quyết tâm không để xảy ra tình
trạng làm giàu vô tội vạ trên lưng người khác, cũng như tình trạng “kẻ ăn không
hết, người lần không ra”, không thể để người nghèo bị bỏ rơi trước con mắt của
cộng đồng.
Ba là, xóa đói giảm nghèo và thực hiện công bằng xã hội không có nghĩa là
kìm hãm sự phát triển kinh tế, không có nghĩa là cào bằng. Kinh nghiệm của chủ
nghĩa xã hội hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu trước đây đã cho thấy, nếu đặt công
bằng xã hội lên trên hết và tách rời với phát triển kinh tế thì trước hết dẫn tới sự
triệt tiêu các động lực phát triển. Tuy nhiên, nếu đặt hiệu quả kinh tế là mục tiêu
duy nhất thì sẽ làm tăng tình trạng phân hóa hai cực, làm tăng sự khốn khó đối với
không ít quần chúng nhân dân. Bởi vậy, trong khi thực hiện bài toán phát triển đất
nước, làm sao phải tạo mọi điều kiện và tăng nguồn lực cho sự phát triển, đồng
thời hạn chế mặt tiêu cực của nó, đặt vấn đề xóa đói giảm nghèo thành công việc
thường xuyên, liên tục.
Bốn là, xóa đói giảm nghèo là công việc của toàn xã hội. Cần khẳng định
một cách mạnh mẽ rằng, xóa đói giảm nghèo không dừng lại ở việc thực hiện
chính sách xã hội, không phải việc riêng của ngành lao động - xã hội hay một số
ngành khác, mà là nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hóa, là nhiệm vụ chung của
toàn Đảng, toàn dân. Muốn thực hiện thành công việc xóa đói giảm nghèo, tất cả
mọi cán bộ đảng, chính quyền đều phải quan tâm cùng giải quyết, thực hiện các
giải pháp một cách đồng bộ và phải có sự tham gia của toàn thể cộng đồng.
7. Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ XI
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI tổ chức tại Hà Nội từ 12-19/1/2011.
Hoàng Thị Nguyệt Minh
22

Đường lối Cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam
Trong phát biểu mở đầu Đại hội, đồng chí Trương Tấn Sang, Uỷ viên Bộ
Chính trị, Thường trực Ban Bí thư nêu rõ, Đại hội lần này sẽ thông qua Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát
triển năm 2011); Quyết định Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020;
Kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Đại hội X của Đảng; Bàn phương hướng,
mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2011 - 2015; Kiểm điểm sự
lãnh đạo của Ban Chấp hành TƯ Đảng khóa X; Bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng và
bầu Ban Chấp hành TƯ Đảng khóa XI.
Mục tiêu về vấn đề xóa đói giảm nghèo trong chính sách xã hội. Tỉ lệ hộ
nghèo giảm bình quân 1,5- 2%/năm; phúc lợi xã hội, an sinh xã hội và chăm sóc
sức khỏe cộng đồng được bảo đảm. Thu nhập thực tế của dân cư gấp khoảng 3,5
lần so với năm 2010; thu hẹp khoảng cách thu nhập giữa các vùng và nhóm dân
cư. Xoá nhà ở đơn sơ, tỉ lệ nhà ở kiên cố đạt 70%, bình quân 25 m2 sàn xây dựng
nhà ở tính trên một người dân.(CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI
2011-2020)
Tạo môi trường và điều kiện để mọi người lao động có việc làm và thu
nhập tốt hơn. Có chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ tạo động lực để phát
triển; điều tiết hợp lý thu nhập trong xã hội. Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi
đôi với xoá nghèo bền vững; giảm dần tình trạng chênh lệch giàu - nghèo giữa các
vùng, miền, các tầng lớp dân cư. Hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội. Thực hiện tốt
chính sách đối với người và gia đình có công với nước. Chú trọng cải thiện điều
kiện sống, lao động và học tập của thanh niên, thiếu niên, giáo dục và bảo vệ trẻ
em. Chăm lo đời sống những người cao tuổi, neo đơn, khuyết tật, mất sức lao động
và trẻ mồ côi. Hạn chế, tiến tới đẩy lùi tội phạm và giảm tác hại của tệ nạn xã hội.
Bảo đảm quy mô hợp lý, cân bằng giới tính và chất lượng dân số. ( CƯƠNG
LĨNH XÂY DỰNG ĐẤT NƯỚC TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ
NGHĨA XÃ HỘI (BỔ SUNG, PHÁT TRIỂN NĂM 2011).
Hoàng Thị Nguyệt Minh
23

Đường lối Cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam
Tiếp tục đẩy mạnh phát triển các vùng kinh tế, lãnh thổ trọng điểm tạo động
lực cho nền kinh tế. Tăng cường chính sách hỗ trợ phát triển các vùng còn nhiều
khó khăn, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. (Báo cáo
chính trị)
Ý kiến
Ông ĐỒNG SĨ NGUYÊN (nguyên ủy viên Bộ Chính trị, nguyên phó thủ
tướng): Làm giàu cho dân nghèo
Đại hội XI sẽ tiếp tục con đường đổi mới. Tôi mong rằng việc thảo luận và
thông qua các văn kiện tại đại hội sẽ nhấn mạnh, làm nổi bật nội dung “dân giàu”.
Lâu nay chúng ta thường nói “dân giàu, nước mạnh”, nhưng lần này phải tạo đột
phá về cải thiện đời sống người dân. Nói một cách cụ thể, tôi mong đại hội tập
trung trí tuệ để đề ra được một chương trình tầm cỡ quốc gia “làm giàu cho dân
nghèo”, nhất là nông dân, công nhân và trí thức ở thành thị cũng như nông thôn.
Đây phải là một chương trình có tầm nhìn dài hạn cỡ 20-30 năm, nghĩa là
chúng ta mở một cuộc trường chinh mới, không những xóa đói nghèo mà còn tiến
lên từng bước làm giàu cho người dân ở nhiều mức khác nhau, sao cho khi kết
thúc chương trình thì người dân có mức sống trung lưu trở lên.
8. Một số chính sách xóa đói giảm nghèo ở nước ta:
8.1. Chính sách 134:
Chương trình 134 tên gọi khác là chương trình hỗ trợ đất sản xuất, đất ở,
nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó
khăn mà Chính phủ Việt Nam áp dụng từ năm 2004 nhằm mục đích cùng với việc
thực hiện các chương trình kinh tế - xã hội, Nhà nước trực tiếp hỗ trợ đồng bào
dân tộc thiểu số nghèo để có điều kiện phát triển sản xuất, cải thiện đời sống, sớm
thoát nghèo.
1. Đối với sản xuất:
Hoàng Thị Nguyệt Minh
24
Đường lối Cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam

Mức giao đất sản xuất tối thiểu một hộ là 0,5ha đất nương, rẫy hoặc 0,25 ha
đất ruộng lúa nước một vụ hoặc 0,15 ha đất ruộng lúa nước 2 vụ. Căn cứ quỹ đất
cụ thể của từng địa phương, khả năng lao động và số nhân khẩu của từng hộ và
khả năng của ngân sách địa phương, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có thể xem xét,
quyết định giao đất sản xuất cho hộ đồng bào với mức cao hơn.
Việc hỗ trợ đất sản xuất và đất ở đối với hộ đồng bào dân tộc Khơme nghèo
do đặc thù của vùng đồng bằng sông Cửu Long, Nhà nước sẽ có chính sách riêng.
2. Về nhà ở:
Đối với các hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo tại chỗ (kể cả đồng bào dân
tộc Khơme) hiện chưa có nhà ở hoặc nhà ở quá tạm bợ và đã hư hỏng, dột nát thì
thực hiện phương châm: Nhân dân tự làm, Nhà nước hỗ trợ và cộng đồng giúp đỡ.
a. Ngân sách Trung ương hỗ trợ với mức 5 triệu đồng/hộ để làm nhà ở. Căn
cứ tình hình và khả năng ngân sách, các địa phương hỗ trợ thêm và huy động sự
giúp đỡ của cộng đồng.
b. Đối với các địa phương có rừng, có huy hoạch, kế hoạch khai thác gỗ
theo quy định để hỗ trợ đồng bào làm nhà ở. Mức gỗ hỗ trợ cụ thể cho mỗi hộ làm
nhà ở do Ủy ban cấp tỉnh quyết định. Nghiêm cấm việc lợi dụng khai thác gỗ hỗ
trợ làm nhà ở để chặt phá rừng.
3. Về hỗ trợ giải quyết nước sinh hoạt:
a. Đối với các hộ đồng bào dân tộc ở phân tán vùng cao, núi đá, khu vực
khó khăn về nguồn nước sinh hoạt ngân sách Trung ương hỗ trợ 0,5 tấn xi
măng/hộ để xây dựng bể chứa nước mưa hoặc hỗ trợ 300.000 đồng /hộ để đào
giếng hoặc tạo nguồn nước sinh hoạt.
b. Đối với công trình cấp nước sinh hoạt tập trung: Ngân sách Trung ương
hỗ trợ 100% cho các thôn, bản có từ 50% số hộ là đồng bào dân tộc thiểu số trở
lên; hỗ trợ 50% đối với các thôn, bản có từ 20% đến dưới 50% số hộ đồng bào dân
Hoàng Thị Nguyệt Minh
25

×