Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Tố tụng dân sự Vấn đề cung cấp, thu thập, nghiên cứu và đánh gia chứng cứ tại Tòa án sơ thẩm, Tòa án phúc thẩm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (197.27 KB, 18 trang )

MỞ ĐẦU
Để giải quyết các tranh chấp dân sự, Tòa án phải dựa trên việc cung cấp,
thu thập nghiên cứu, đánh giá chứng cứ một cách khách quan, đầy đủ, toàn diện.
Từ khi BLTTDS 2004 ra đời, vấn đề liên quan đến chứng cứ đã được qui định
khá cụ thể. Tuy nhiên, thực tế áp dụng đã cho thấy vẫn còn nhiêu qui định của
pháp luật còn hạn chế, chưa phát huy được hiệu quả trong thực tiễn xét xử. Do
vậy, “Vấn đề cung cấp, thu thập, nghiên cứu và đánh gia chứng cứ tại TA sơ thẩm,
TA phúc thẩm” đòi hỏi phải được quan tâm xác đáng, nhằm hoàn thiện các qui
định của pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng trên thực tế.
NỘI DUNG
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CUNG CẤP, THU THẬP, NGHIÊN CỨU VÀ
ĐÁNH GIÁ CHỨNG CỨ TẠI TA CẤP SƠ THẨM, PHÚC THẨM
1. Khái niệm, đặc điểm và bản chất của hoạt động cung cấp, thu thập, nghiên
cứu và đánh giá chứng cứ
Trước hết cần phải hiểu về khái niệm chứng cứ: Theo qui định tại Điều 81
BLTTDS 2004: “Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được ĐS và
cá nhân, cơ quan, tổ chức khác giao nộp cho TA hoặc do TA thu thập được theo
trình tự, thủ tục do Bộ luật này qui định mà TA dùng làm că cứ để xác định yêu
cầu hay sự phản đối của ĐS là có căn cứ và hợp pháp hay không cũng như
những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn VADS”. Theo qui định
tại Điều 82 BLTTDS, nguồn CC bao gồm: Các tài liệu đọc, nghe, nhìn được; các
vật chứng; lời khai của ĐS, lời khai của người làm chứng; kết luận giám định;
biên bản ghi kết quả thẩm định tại chỗ; tập quán; kết quả định giá tài sản, thẩm
định giá tài sản; các nguồn khác mà pháp luật có qui định.
1
Cung cấp CC được hiểu là hoạt động tố tụng cơ bản của các chủ thể CM
giao nộp CC do mình thu thập được cho Tòa án, nhằm CM các tình tiết, sự kiện
làm cơ sở cho những yêu cầu của mình và phản đối yêu cầu của phía bên kia.
Khoản 1 Điều 6 BLTTDS cũng qui định: “ Cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện
yêu cầu để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác có quyền và nghĩa
vụ cung cấp CC, CM như đương sự”. Hoạt động cung cấp CC có đặc điểm: Chủ


thể CM – ĐS và cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện, yêu cầu bảo vệ lợi ích hợp
pháp của người khác – bình đẳng với nhau trong việc đưa ra yêu cầu và có nghĩa
vụ cung cấp CC. Người khởi kiện có nghĩa vụ cung cấp CC để CM cho yêu cầu
khởi kiện; bị đơn có yêu cầu phản tố có nghĩa vụ cung cấp CC để CM tính không
có căn cứ trong yêu cầu của nguyên đơn và tính có cơ sở của yêu cầu phản tố; ĐS
khi yêu cầu TA thu thập CC thì phải chỉ rõ việc không thể tự mình thu thập CC.
Thu thập CC là hoạt động TTDS của các chủ thể CM trong việc phát hiện ,
ghi nhận, thu giữ và bảo quản CC theo thủ tục do pháp luật qui định.
Bản chất của việc thu thập CC là tìm ra những tình tiết, sự kiện có liên
quan đến VVDS nhằm tìm ra sự thật khách quan, tạo cơ sở cho việc giải quyết
VVDS.
Nghiên cứu CC là việc các chủ thể CM độc lập xem xét, tìm hiểu CC trong
hồ sơ VVDS, kiểm tra, xem xét CC tại phiên tòa để xác định mức độ phản ánh
chính xác của CC về những tinh tiết, sự kiện cần thiết khác cho việc giải quyết
đúng đăn VADS. Nghiên cứu CC được đặt ra khi có các CC đã được thu thập,
bước đầu xác định giá trị CM của CC, mức độ phản ánh chính xác của CC, làm
tiền đề cho việc đánh giá CC. Hoạt động nghiên cứu CC được thực hiện trong
suốt quá trình CM, trong từng giai đoạn TT, và đều phải thực hiện theo đúng
những thủ tục, qui định của pháp luật.
Đánh giá CC là hoạt động tư duy logic của các chủ thể CM, đặc biệt là TA,
được tiến hành trên cơ sở hiểu biết về những tình tiết, sự kiện đã thu thập được,
2
dựa trên cơ sở các qui định của pháp luật, tập quán và niềm tin nội tâm để xác
định mức độ tin cậy và giá trị CM của từng CC, hệ thống CC. Việc đánh giá CC
được thực hiện trong suốt quá trình TA giải quyết VVDS nhằm làm sáng tỏ sự
thật khách quan một cách đúng đắn và toàn diện.
2. Ý nghĩa của hoạt động cung cấp, thu thập, nghiên cứu và đánh giá CC
Cung cấp, thu thập CC là tiền đề cho nghiên cứu và đánh giá CC. Việc
cung cấp, thu thập CC đảm bảo tính chính xác buộc ĐS phải có trách nhiệm với
yêu cầu của mình, là cơ sở để khẳng định hoặc phủ định những giả thiết đã nêu

trong quá trình CM, làm căn cứ đưa ra kết luận của cơ quan tiến hành TT. Nghiên
cứu CC sẽ xem xét tính đúng đắn của những CC đã thu thập, đặt trong mối quan
hệ tổng hòa giữa các CC với nhau, từ đây có thể xác định được việc có cần thiết
hay không phải bổ sung CC,… là một trong những cơ sở để TA xem xét, ra các
quyết định như đình chỉ, tạm đình chỉ giải quyết VVDS, chuyển VVDS cho TA
khác giải quyết,… Cuối cùng, đánh giá chứng cứ nhằm xác định giá trị chứng
minh và phù hợp giữa các chứng cứ, tình tiết đã thu thập được, thông qua đó, TA
xác định đối tượng CM, làm rõ bản chất VVDS, là kết quả của quá trình cung
cấp, thu thập, nghiên cứu CC. Cung cấp, thu thập, nghiên cứu và đánh giá CC là
bốn giai đoạn kéo dài nối tiếp và đan xen nhau, xuyên suốt quá trình nhằm giải
quyết VVDS, và chỉ kết thúc khi TA ra phán quyết.
II. CÁC QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ CUNG CẤP, THU THẬP,
NGHIÊN CỨU VÀ ĐÁNH GIÁ CHỨNG CỨ TẠI TÒA ÁN CẤP SƠ THẨM,
PHÚC THẨM
1. Cung cấp chứng cứ tại TA cấp sơ thẩm, phúc thẩm
Chủ thể cung cấp CC: Khoản 1 Điều 6 BLTTDS qui định: “ĐS có quyền
và nghĩa vụ cung cấp CC cho TA và CM cho yêu cầu của mình là có căn cứ và
3
hợp pháp. Cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện yêu cầu để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của người khác có quyền và nghĩa vụ cung cấp CC, CM như đương
sự”. Về mặt nguyên tắc, ai là người đưa ra yêu cầu TA giải quyết thì người đó
phải có nghĩa vụ cung cấp CC cho TA để chứng minh cho yêu cầu của mình. Như
vậy, khi ĐS và các cơ quan, tổ chức khởi kiện bảo vệ lợi ích người khác, lợi ích
công cộng, lợi ích Nhà nước đưa ra yêu cầu, khởi kiện, hoặc bác bỏ yêu cầu của
người khác có nghĩa vụ cung cấp CC để CM cho yêu cầu của mình hay việc bác
bỏ yêu cầu là có căn cứ và hợp pháp. Ngoài những chủ thể trên, các cá nhâm cơ
quan, tổ chức trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm cung
cấp đầy đủ và đúng hạn cho đương sự, TA, VKS tài liệu, CC mà mình đang giữ
khi có yêu cầu và phải chịu trách nhiệm về việc cung cấp tài liệu chứng cứ đó;
trường hợp không cung cấp được thì phải thông báo bằng văn bản cho chủ thể

yêu cầu và nêu rõ lý do (Điều 7 BLTTDS).
Về thời điểm và thủ tục cung cấp CC tại TA sơ thẩm, phúc thẩm: Việc
giao nộp, cung cấp CC được tiến hành trong suốt quá trình TT. Trước hết, tại TA
sơ thẩm: Ngay trong giai đoạn khởi kiện, yêu cầu và thụ lý VVDS, chủ thể có
nghĩa vụ cung cấp CC đã phải cung cấp những CC đầu tiên cho TA. Điều 165
BLTTDS qui định: “Người khởi kiện phải gửi kèm theo đơn khởi kiện tài liệu, CC
để chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp”. Có thể thực
hiện bằng cách nộp trực tiếp tại TA sơ thẩm hoặc gửi đến TA sơ thẩm qua đường
bưu điện. Trường hợp đại diện theo pháp luật của pháp nhân thì phải chứng minh
tính hợp pháp của hợp đồng ủy quyền về nội dung, hình thức và phạm vi ủy
quyền. Các giấy tờ tài liệu cung cấp phải tuân thủ qui định của pháp luật. TA nhận
chứng cứ và lập biên bản giao nhận. Người khởi kiện, yêu cầu có quyền bổ sung
CC trong thời hạn nhất định nhưng không quá 30 ngày, TA có thể gia hạn trong
trường hợp đặc biệt nhưng không quá 15 ngày (Điều 169 BLTTDS).Trong giai
đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm: Các ĐS có thể tự mình cung cấp bổ sung CC cho
TA hoặc TA yêu cầu các ĐS bổ sung các CC cần thiết. ĐS có thể cung cấp CC tại
4
buổi lấy lời khai, phiên hòa giải. Theo yêu cầu của ĐS, TA có thể yêu cầu các cá
nhân, cơ quan, tổ chức khác đang quản lý, lưu giữ CC giao nộp CC cho TA (Điều
94 BLTTDS), nếu các chủ thể này không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
việc giao nộp CC thì phải chịu trách nhiệm về việc đó (Điều 84, 385, 389
BLTTDS), thời hạn giao nộp CC cho TA trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận
được yêu cầu của TA. Bị đơn, cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan đến việc giải quyết vụ án phải nộp cho TA văn bản ghi ý kiến của mình
đối với yêu cầu của người khởi kiện và tài liệu chứng cứ kèm theo nếu có trong
thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được thông báo, trong trường hợp cần thiết thì
TA có thể gia hạn nhưng không quá 15 ngày kể từ ngày nhận được thông báo.
Tuy nhiên, Nghị quyết 04/2012/NQ-HĐTP lại hướng dẫn: “Trong quá trình giải
quyết VVDS, nếu thấy CC mà ĐS giao nộp chưa đủ cơ sở để giải quyết, thì TA
yêu cầu ĐS giao nộp bổ sung CC theo quy định tại khoản 1 Điều 85 của

BLTTDS. Khi yêu cầu ĐS giao nộp bổ sung CC, TA cần phải nêu cụ thể CC cần
giao nộp bổ sung”. Theo đó, ĐS có quyền cung cấp CC trong suốt quá trình
TT.Tại phiên tòa sơ thẩm: Ở giai đoạn này, ĐS có quyền và nghĩa vụ cung cấp
thêm những CC mới nhưng họ phải chủ động đề xuất với HĐXX, chủ tọa phiên
tòa không có trách nhiệm phải hỏi về vấn đề này trước khi bắt đầu thủ tục xét hỏi.
Khi việc giải quyết VVDS đã vào giai đoạn tranh luận, chuẩn bị tuyên án, ĐS lại
cung cấp bổ sung CC, thì Thư kí TA thực hiện việc giao nhận CC và phải ghi vào
biên bản phiên tòa.Mọi CC đều phải đưa ra xem xét công khai, trực tiếp tại phiên
tòa. Nếu việc xem xét, đánh giá CC đó không thể thực hiện ngày mà cần có thời
gian xác minh thêm thì HĐXX có thể tạm ngừng phiên tòa chờ xác minh. Thứ
hai, tại TA phúc thẩm: Trong giai đoạn TA cấp phúc thẩm xem xét lại phần bản
án có kháng cáo kháng nghị, ĐS, người đại diện của ĐS, cơ quan tổ chức kháng
cáo, VKS kháng nghị có quyền bổ sung CC mới hoặc bổ sung thêm cho những
CC đã có đầy đủ hơn, việc này có thể thực hiện vào thời điểm nộp đơn kháng cáo
(gửi kèm theo đơn kháng cáo) đến TA sơ thẩm hoặc TA phúc thẩm, có thể thực
hiện trong giai đoạn TA cấp phúc thẩm thụ lý hồ sơ hoặc có thể ngay tại phiên
5
tòa. Thủ tục được tiến hành tương tự như giai đoạn khởi kiện và chuẩn bị xét xử.
Nếu ĐS kháng cáo gửi CC cho TA phúc thẩm thì TA phúc thẩm chuyển cho TA sơ
thẩm để TA sơ thẩm tiến hành các thủ tục cần thiết và gửi kèm theo hồ sơ VVDS
cho TA phúc thẩm
Như vậy, pháp luật TTDS cho phép người khởi kiện cung cấp CC trong bất
kì giai đoạn nào của thủ tục TT. Qui định này đảm bảo cho bản án, quyết định của
TA được đúng đắn, khách quan, tuy nhiên lại có hạn chế là kéo dài thời gian giải
quyết VVDS.
2. Thu thập CC tại TA cấp sơ thẩm, phúc thẩm
Chủ thể thu thập chứng cứ: Việc thu thập CC trước hết thuộc về ĐS,
người đại điện của ĐS, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ĐS trong hoạt
động thu thập CC, người khởi kiện yêu cầu bảo vệ lợi ích người khác, lợi ích
công cộng, Nhà nước. Đây là chủ thể chủ yếu trong hoạt động thu thập CC, có

quyền và nghĩa vụ thu thập CC để chứng minh cho yêu cầu của mình (Điều 6
BLTTDS) hay việc bác bỏ yêu cầu của người khác là hợp pháp (khoản 1, 2 Điều
79 BLTTDS). Ngoài những chủ thể kể trên, VKS và TA cũng là những chủ thể
thu thập chứng cứ.
Các trường hợp TA thu thập chứng cứ: Một là, xét thấy tài liệu, CC có
trong hồ sơ VVDS chưa đủ cơ sở để giải quyết thì Thẩm phán yêu cầu đương sự
giao nộp bổ sung tài liệu chứng cứ (khoản 1 Điều 85 BLTTDS). Hai là, “trong
trường hợp do Bộ luật này qui định, Thẩm phán có thể tiến hành một hoặc một số
biện pháp sau đây để thu thập tài liệu chứng cứ” (khoản 2 Điều 85 BLTTDS),
qui định này được hiểu là phải căn cứ vào các qui định cụ thể tại các điều của
BLTTDS khi qui định về các biện pháp thu thập chứng cứ, về điều kiện áp dụng
từng biện pháp để xác định trường hợp nào Thẩm phán có thể chủ động áp dụng
biện pháp nào. Đây là điểm tiến bộ của BLTTDS sửa đổi bổ sung năm 2011 so
với BLTTDS 2004, đã bỏ đi hai điều kiện là “đương sự không tự mình thu thập
6
được” và “có yêu cầu”, các Thẩm phán có thể chủ động căn cứ vào các qui định
của BLTTDS mà quyết định áp dụng biện pháp thu thập thập CC nào cho phù hợp
mà không cần chờ “yêu cầu” của đương sự như qui định cũ. Các biện pháp để TA
thu thập CC bao gồm: Lấy lời khai của ĐS (Điều 86 BLTTDS), lấy lời khai của
người làm chứng (Điều 87 BLTTDS), đối chất (Điều 88 BLTTDS), xem xét, thẩm
định tại chỗ (Điều 89 BLTTDS), trưng cầu giám định (Điều 90 BLTTDS) định giá
tài sản trong trường hợp các bên thảo thuận mức giá thấp nhằm mục đích trốn
thuế (Điều 92), ủy thác thu thập CC (Điều 93 BLTTDS), yêu cầu cá nhân, cơ
quan, tổ chức cung cấp CC (Điều 94 BLTTDS). Các trường hợp VKS tham gia
thu thập CC: Thứ nhất, những VVDS do TA thu thập CC mà có đương sự khiếu
nại về việc thu thập CC đó (TA thông báo cho VKS có thẩm quyền để VKS tham
gia phiên tòa sơ thẩm). Thứ hai, VKS xét thấy cần yêu cầu TA xác minh, thu thập
CC trên cơ sở khiếu nại của ĐS thì VKS phải đưa ra yêu cầu bằng văn bản và sau
khi tiến hành, TA thông báo kết quả bằng văn bản cho ĐS và VKS biết. Trường
hợp VKS đã có văn bản yêu cầu nhưng đến thời hạn mở phiên tòa sơ thẩm VKS

vẫn không nhận được văn bản thông báo kết quả xác minh, thu thập CC của TA
thì VKS phải tham gia phiên tòa sơ thẩm. Với thủ tục phúc thẩm, trường hợp sau
khi xét xử sơ thẩm nếu ĐS kháng cáo vì lí do TA không thu thập CC đầy đủ, thì
TA phải thông báo cho VKS ngang cấp biết để VKS chuẩn bị và tham gia phiên
tòa phúc thẩm. VKS có thể tham gia hoạt động thu thập CC bằng cách yêu cầu
ĐS, cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp hồ sơ, tài liệu, vật chứng, khoản 4 Điều
85 BLTTDS qui định: “VKS có quyền yêu cầu ĐS, cá nhân, cơ quan, tổ chức
cung cấp hồ sơ , tài liệu, vật chứng để đảm bảo cho việc thực hiện thẩm quyền
kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm,…” Tại TA phúc thẩm mà VKS có kháng nghị,
VKS tham gia hoạt động cung cấp, thu thập CC thông qua việc xuất trình bổ sung
CC. Vai trò của VKS trong quá trình thu thập CC: Đối với giai đoạn sơ thẩm,
khoản 4 Điều 85 BLTTDS qui định cho phép VKS có quyền yêu cầu ĐS, cá nhân,
cơ quan, tổ chức cung cấp hồ sơ, tài liệu vật chứng để đảm bảo cho việc thực hiện
thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, tái thẩm, giám độc thẩm. VKS
7
không trực tiếp tham gia thu thập CC nhưng có quyền tham gia các phiên họp sơ
thẩm đối với các việc dân sự, các phiên tòa sơ thẩm đối với những vụ án do TA
tiến hành thu thập CC hoặc đối tượng tranh chấp là tài sản công, lợi ích công
cộng, quyền sử dụng đất, nhà ở hoặc một bên ĐS là người chưa thành niên, người
có nhược điểm về thể chất, tâm thần. VKS còn tham gia phiên tòa, phiên họp
phúc thẩm… (Điều 21 BLTTDS). Khoản 6 Điều 12 Nghị quyết 04/2012/NQ-
HĐTP hướng dẫn thêm trường hợp Viện kiểm sát thu thập chứng cứ bằng việc
yêu cầu đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp chứng cứ (cung cấp hồ sơ,
tài liệu, vật chứng) chỉ được Tòa án chấp nhận nếu việc thu thập chứng cứ đó
được thực hiện theo đúng quy định của BLTTDS và hướng dẫn của Viện kiểm sát
nhân dân tối cao bảo đảm cho việc thực hiện thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục
phúc thẩm, giám đốc thẩm và tái thẩm.
Những nội dung cần xác minh khi thu thập CC: Xác định rõ quan hệ
pháp luật tranh chấp giữa các bên ĐS, xác định đầy đủ tư cách ĐS tham gia TT,
làm rõ những vấn đề cần phải CM và trọng tâm các vấn đề đó. Điều này đảm bảo

cho quá trình thu thập chứng cứ chính xác, đầy đủ, không bỏ xót những thông tin
cần thiết cho việc giải quyết VVDS, tránh lan man, dàn trải, gây lãng phí thời
gian công sức.
Như vậy, việc thu thập chứng cứ chủ yếu thuộc trách nhiệm của người khởi
kiện. Tuy nhiên, trường hợp những người này không thể tự mình thu thập CC mặc
dù đã áp dụng hết các biện pháp cần thiết thì TA có thể tiến hành thu thập CC, hỗ
trợ cho việc thu thập CC của người khởi kiện thông các biện pháp thu thập CC
theo qu định của pháp luật. Ngoài ra, VKS cũng là một chủ thể quan trọng của
hoạt động thu thập CC tại TA cấp sơ thẩm, phúc thẩm.
3. Nghiên cứu CC tại TA cấp sơ thẩm, phúc thẩm
Chủ thể của hoạt động nghiên cứu CC: TA là một trong những chủ thể
nghiên cứu CC. TA có trách nhiệm giải quyết VVDS do đó TA có trách nhiệm
8
nghiên cứu CC mà các ĐS và những người khác có liên quan đã cung cấp, làm cơ
sở cho việc đưa ra bản án, quyết định của TA. TA xác minh CC thông qua việc
nghe các ĐS trình bày, giải thích, thẩm vấn nhân chứng, nghe ý kiến của giám
định viên, sự tranh luận của các ĐS. Khi nghiên cứu CC, TA phải xem xét trong
mối quan hệ liên quan mật thiết với nhau của cac CC, thực hiện so sánh CC này
với CC khác để xác minh mức độ phản ánh sự thật của CC, làm cơ sở cho việc
xác định bản chất VVDS. Việc nghiên cứu CC của TA được tiến hành trong nhiều
giai đoạn, ví dụ, trong phòng nghị án khi ra bản án, quyết định về VVDS tại cả
TA sơ thẩm và phúc thẩm. Việc nghiên cứu CC luôn phải dựa trên các qui định
của pháp luật. VKS là chủ thể thứ hai của hoạt động nghiên cứu CC. Tại TA sơ
thẩm, khi các ĐS có khiếu nại về việc thu thập CC của TA, VKS tham gia phiên
tòa sơ thẩm và tham gia hoạt động nghiên cứu CC, nghiên cứu hồ sơ VVDS. VKS
sau khi nghiên cứu, nếu có căn cứ kháng nghị, VKS thực hiện kháng nghị đối với
bản án, quyết định của TA. VKS tham gia phiên tòa phúc thẩm đối với quyết định
tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết VVDS của TA cấp sơ thẩm bị ĐS kháng cáo
(trong trường hợp này, kiểm sát viên có quyền tham gia hoạt động nghiên cứu CC
thông qua việc hỏi, xem xét vật chứng, nhận xét kết luận giám định,…) ĐS và cá

nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện vì lợi ích của người khác, lợi ích công cộng,
Nhà nước cũng là một chủ thể của hoạt động nghiên cứu CC. BLTTDS qui định
cho ĐS có quyền được biết, ghi chép, sao chụp tài liệu, CC do các ĐS khác xuất
trình hoặc do TA thu thập (điểm đ khoản 2 Điều 58 BLTTDS); tại phiên tòa sơ
thẩm hoặc phúc thẩm, ĐS có quyền và nghĩa vụ tham gia phiên tòa (Điều 199,
200, 201 BLTTDS), được nghe trình bày của các bên (Điều 221 BLTTDS), được
trình bày quan điểm, ý kiến của mình (Điều 197 BLTTDS), được tham gia hỏi tại
phiên tòa (Điều 222 BLTTDS) và được tranh luận tại phúc thẩm (chương XIV
BLTTDS) tạo cho ĐS có điều kiện nghiên cứu CC, hiểu rõ hơn về VVDS, từ đó
góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ĐS. Ngoài ra chủ thể của hoạt
động nghiên cứu CC tại TA cấp sơ thẩm, phúc thẩm còn có người đại diện hợp
pháp của ĐS, người bảo vệ quyền và lợi ích của ĐS.
9
Những yêu cầu của việc nghiên cứu CC tại TA cấp sơ thẩm, phúc thẩm:
Việc nghiên cứu phải toàn diện, không bỏ sót, nhằm làm sáng tỏ bản chất vụ việc;
và được tiến hành một cách kịp thời, khách quan, không phân biệt đối xử CC
được cung cấp, thu thập bởi chủ thể này hay chủ thể khác. Nghiên cứu CC phải
tiến hành theo trình tự logic: Trước hết là nghiên cứu trong hồ sơ VVDS (các tài
liệu trong hồ sơ có đầy đủ so với danh mục tài liệu của hồ sơ hay không; nghiên
cứu đơn khỏi kiện để xác định yêu cầu của người khởi kiện, thẩm quyền của TA,
thời hiệu khởi kiện; lời khai của ĐS, người làm chứng trong hồ sơ; nghiên cứu
CC khác,…). Sau đó là nghiên cứu CC tại phiên tòa (hỏi, tranh luận, kết quả giám
định,…) Việc nghiên cứu các CC phải dựa trên thực tế khách quan, và tuân thủ
nghiêm ngặt các qui định của pháp luật tố tụng.
Nội dung của nghiên cứu CC tại TA cấp sơ thẩm, phúc thẩm: Phải xác
định phạm vi yêu cầu của ĐS và các chủ thể có liên quan; xác định thẩm quyền
giải quyết của TA; quan hệ pháp luật giữa các đương sự, từ đó xác định tư cách
ĐS, thành phần tham gia phiên tòa, các CC để giải quyết vụ việc đã đúng đắn và
đảm bảo đầy đủ đề giải quyết vụ việc hay chưa, nếu chưa đủ thì phải tiến hành
thu thập thêm như thế nào.

4. Đánh giá CC tại TA cấp sơ thẩm, phúc thẩm
Chủ thể: Tất cả các chủ thể CM đều có quyền đánh giá CC. Trước hết, nó
thuộc về TA, cụ thể là HĐXX tại phiên tòa và trong phòng nghị án. Đối với ĐS,
người đại diện của ĐS và người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của ĐS có quyền
phát biểu ý kiến đánh giá CC của mình và CC do chủ thể khác thu thập, đánh giá
này không có giá trị bắt buộc mà chỉ có giá trị tham khảo đối với TA.
Nguyên tắc đánh giá CC: Điều 96 BLTTDS qui định về nguyên tắc đánh
giá CC. Theo đó, việc đánh giá CC phải: Khách quan, toàn diện, phải tiến hành
đánh giá trong mối quan hệ giữa các CC với nhau, tiến hành so sánh các CC, để
xác định giá trị CM của CC. Phải xem xét CC từ tất cả các nguồn khác nhau do
10
các chủ thể thu thập, cung cấp, không vọi vàng kết luận về giá trị CM của CC khi
chưa kiểm tra, đối chiếu. Việc đánh giá CC phải chính xác và dựa trên các qui
định của pháp luật.
Phương pháp đánh giá CC: Có hai phương pháp đánh giá CC: Một là,
đánh giá từng CC: đánh giá sự vật, tình tiết có đảm bảo 3 đặc tính của CC hay
không, cụ thể: Để được coi là CC thì phải đảm bảo ba đặc tính: Tính khách quan:
Phải là những gì có thật, tồn tại trong thực tế khách quan. Tính liên quan: Sự vật,
sự kiện phải liên quan đến vụ việc mà TA giải quyết, có mối quan hệ nội tại, tính
nhân quả giữa sự vật, tình tiết dùng để CM với đối tượng CM,…. Tính hợp pháp:
Phải được rút ra từ nguồn nhất định do pháp luật qui định và phải được thu thập,
bảo quan và nghiên cứu đánh giá theo thủ tục pháp luật qui định. Hai là, đánh giá
tổng hợp CC: Đánh giá các CC trong mối quan hệ chặt chẽ với nhau nhằm xác
định giá trị CM của CC, tính đầy đủ hay không của các CC để giải quyết VVDS.
Việc đánh giá này phải dựa trên cơ sở đánh giá từng CC, nguyên tắc đánh giá CC,
kiến thức và niềm tin nội tâm của các chủ thể CM.
III. THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÁC QUI ĐỊNH PHÁP
LUẬT VỀ CUNG CẤP, THU THẬP, NGHIÊN CỨU VÀ ĐÁNH GIÁ CHỨNG
CỨ TẠI TÒA ÁN CẤP SƠ THẨM, PHÚC THẨM

1. Thực tiễn áp dung và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện qui định của
pháp luật
Về cung cấp CC: Thứ nhất, Điều 175 BLTTDS qui định về thời hạn giao
nộp CC: Điều 175 BLTTDS qui định về thời hạn giao nộp CC nhưng lại không
qui định hậu quả pháp lý về việc ĐS giao nộp CC quá hạn qui định. Thêm nữa
các qui định khác của BLTTDS từ giai đoạn chuẩn bị xét xử, phiên tòa sơ thẩm,
11
phúc thẩm và các văn bản hướng dẫn như đã phân tích ở trên lại cho phép ĐS
cung cấp CC trong bất cứ giai đoạn nào của quá trình TT. Việc qui định như vậy
có ý nghĩa trong đảm bảo quyền lợi cho ĐS, giải quyết VVDS đúng đắn, tuy
nhiên lại làm kéo dài thời gian TT. Thực tế áp dụng còn cho thấy nhiều trường
hợp một bên ĐS tới giai đoạn tranh luận mới cung cấp CC mới, khiến cho phía
bên kia bị động, không kịp chuẩn bị CC để phản bác lại, mất quyền sao chụp CC
mà pháp luật đã qui định cho họ. Việc này còn gây bị động cho cả phía cơ quan
tiến hành TT, giảm thời gian nghiên cứu, xem xét, đánh giá CC, vụ việc, dẫn đến
giải quyết vụ việc không đúng đắn. Có những trường hợp ĐS đến phúc thẩm phúc
thẩm mới chịu xuất trình CC, dẫn đến án sơ thẩm bị hủy. Trong khi đó khoản 1
Điều 277 BLTTDS qui định bản án sơ thẩm phải bị hủy bất kể do lỗi của ĐS hay
TA gây nên áp lực tâm lý lớn cho các Thẩm phán xét xử sơ thẩm. Do đó cần bổ
sung qui định về thời hạn cung cấp chứng cứ, buộc ĐS có trách nhiệm hơn trong
hoạt động này, theo hướng nếu quá thời hạn mà ĐS không giao nộp hoặc giao nộp
không đầy đủ CC thì phải chịu hậu quả của việc này, CC giao nộp không đúng
thời hạn qui định không được chấp nhận, trừ trường hợp bất khả kháng và pháp
luật có qui định khác (qui định cụ thể các trường hợp này). Thứ hai, về qui định
tại khoản 1 Điều 83 BLTTDS: “Các tài liệu đọc được nội dung được coi là chứng
cứ nếu là bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực hợp pháp hoặc do
cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cung cấp, xác nhận”. Theo đó, khi thực hiện
cung cấp CC, ĐS buộc phải thực hiện việc công chứng, chứng thực cho bản sao
(trong trường hợp ĐS sử dụng bản sao), qui định này nhằm đảm bảo tính chính
xác cho những CC mà ĐS cung cấp, tuy nhiên lại “vẽ ra” thêm một thủ tục hành

chính cho ĐS, gây tốn thời gian và công sức, nhất là với những VVDS phức tạp,
cần phải cung cấp nhiều CC. Do đó, theo em qui định này nên sửa đổi theo hướng
cho phép các ĐS nộp bản sao, nhưng phải tiến hành đối chiếu bản sao với bản
chính trước khi nhận. Nếu xét thấy cần phải để vào hồ sơ cả bản chính thì Thẩm
12
phán yêu cầu ĐS nộp bản chính; khi giải quyết xong VVDS, nếu ĐS yêu cầu lấy
lại bản chính thì TA trả lại cho họ và chỉ giữ lại bản sao trong hồ sơ
1
.
Về thu thập CC: Một là, về biện pháp thu thập chứng cứ “Yêu cầu cá
nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp chứng cứ” theo qui định tại Điều 94 BLTTDS
thì chỉ được áp dụng biện pháp này khi ĐS đã áp dụng các biện pháp cần thiết mà
vẫn không thể tự mình thu thập được CC; Điều 12 Nghị quyết 04/2012/NQ-
HĐTP hướng dẫn chi tiết qui định này cũng chỉ qui định một trường hợp là các cơ
quan, tổ chức cá nhân nếu không cung cấp chứng cứ thì phải thông báo bằng văn
bản ghi rõ lý do để ĐS chứng minh với TA đã thu thập CC nhưng không có kết
quả. Nhưng nếu những cơ quan, tổ chức, cá nhân này không thông báo thì hiện
nay pháp luật không có hướng dẫn ĐS bằng cách nào để CM mình đã sử dụng
mọi cách thức và khả năng cho phép nhưng vẫn không được cá nhân, cơ quan, tổ
chức cung cấp CC; và thực tế là rất nhiều trường hợp ĐS do trình độ hiểu biết còn
hạn chế, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, họ chỉ viết đơn nêu rằng đã sử dụng mọi
biện pháp để yêu cầu nhưng không có cách nào để chứng minh cho điều đó, dẫn
đến một số Tòa án không chấp nhận đơn yêu cầu này. Do vậy, cần bổ sung qui
định hướng dẫn ĐS bằng cách nào có thể chứng minh “đã áp dụng mọi biện pháp
cần thiết”. BLTTDS và Nghị quyết 04/2012/NQ-HĐTP hiện nay đã qui định
trách nhiệm của cá nhân, cơ quan, tổ chức lưu giữ chứng cứ trong trường hợp
không cung cấp tài liệu, CC khi có yêu cầu mà không có lí do chính đáng thì sẽ bị
xử lí theo qui định tại các Điều 385, 389,… và thủ tục, thẩm quyền xử phạt, mức
tiền phạt Điều 390 qui định do Ủy ban thường vụ Quốc hội qui định, nhưng đến
nay cơ quan này vẫn chưa ban hành văn bản về vấn đề này. Do đó, Ủy ban

thường vụ Quốc hội cần khẩn trương ban hành hướng dẫn cụ thể, đảm bảo qui
định này được thi hành hiệu quả trên thực tế. Hai là, về định giá tài sản: Điều 92
qui định TA chỉ ra quyết định định giá tài sản khi xảy ra một trong 2 trường hợp
qui định tại khoản 1, tuy nhiên nếu các ĐS không thỏa thuận được với nhau hay
1 Hướng dẫn của TANDTC năm 1977
13
với tổ chức thẩm định giá mà cũng không yêu cầu Tòa án thì giải quyết như thế
nào, có coi là ĐS không còn yêu cầu này nữa hay không
2
. Nghị quyết
04/2012/NQ-HĐTP cũng không có hướng dẫn cho qui định này. Do đó, kiến nghị
nhà làm luật sớm xem xét bổ sung hướng dẫn cho những trường hợp như thế này.
Khoản 2 Điều 92 BLTTDS qui định trong trường hợp cần thiết thì đại diện
UBND cấp xã nơi có tài sản định giá được mời chứng kiến việc định giá nhưng
lại không qui định hướng dẫn các “trường hợp cần thiết” là những trường hợp
nào. Do đó pháp luật cần qui định cụ thể hơn về các trường hợp cần thiết này.
Trường hợp tài sản được định giá cùng một thời điểm, bởi hai trung tâm định giá
khác nhau cho kết quả khác nhau thì phải sử dụng kết quả nào cũng cần được
hướng dẫn cụ thể.
Về nghiên cứu và đánh giá CC: Điểm đ khoản 2 Điều 58 BLTTDS cho ĐS
quyền “được biết và ghi chép, sao chụp tài liệu, CC do các ĐS khác xuất trình
hoặc TA thu thập” nhưng lại không có hướng dẫn cụ thể về việc có hay không
thông báo cho ĐS khi có CC mới, việc tiến hành ghi chép, sao chụp được tiến
hành vào thời điểm nào. Dẫn đến thực tế đa phần một bên ĐS chỉ biết tới CC mà
bên kia đưa ra khi đang ở tại phiên tòa, do đó, ý nghĩa của qui định không đạt
được. Vì vậy nên bổ sung qui định buộc một bên ĐS khi CC CC mới thì phải
thông báo bằng văn bản cho bên ĐS khác hoặc cung cấp cho bên ĐS khác một
bản sao, có công chứng hoặc chứng thực; nếu không thông báo hoặc gửi bản sao
thì sẽ phải chịu chế tài nhất định, nhằm đảm bảo cho quyền được nghiên cứu,
xem xét, đánh giá CC của ĐS.

2. Một số kiến nghị khác nhằm nâng cao hiệu quả của việc áp dụng pháp
luật
Thứ nhất, trong công tác cung cấp, thu thập chứng cứ của ĐS và những
người liên quan khác trong nhiều vụ án do trình độ hiểu biết còn hạn chế, nhất là
2 Quan điểm tại bài viết trên trang: />p_page_id=1754190&p_cateid=1751909&item_id=23189990&article_details=1
14
ở những vùng sâu, vùng xa nên việc họ thu thập chứng cứ còn rất nhiều khó khăn,
họ không biết phải thu thập những chứng cứ nào, làm sao để thu thập chứng cứ để
cung cấp cho TA, dẫn đến trách nhiệm thu thập chứng cứ đổ dồn lên TA. Do vậy,
cần phải tăng cường tuyên truyền, nâng cao hiểu biết pháp luật cho người dân để
họ xác định được những việc cần làm để chuẩn bị, cung cấp, thu thập CC. Thực tế
hiện nay còn có nhiều ĐS không biết rằng mình có quyền yêu cầu TA thực hiện
việc thu thập CC, trong khi đó, nhiều TA thì thụ động, ngồi chờ ĐS có yêu cầu
mới thực hiện công việc này, dẫn đến thời gian tố tụng kéo dài, nhiều án tồn
đọng. Do đó, các TA cần hướng dẫn cho các ĐS hiểu khi đã thực hiện nhiều biện
pháp cần thiết mà vẫn không thể thu thập được CC thì có quyền yêu cầu TA thu
thập CC để ĐS có khả năng tự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, hạn
chế thời gian TT kéo dài và án tồn đọng như hiện nay.
Thứ hai, về hoạt động ủy thác thu thập, xác minh tài liệu, CC tại khoản 1
Điều 93 BLTTDS thực tế không được thi hành nghiêm túc, bởi nhiều TA được ủy
thác có tâm lý việc này là yêu cầu được giúp đỡ, có tính chất thứ yếu nên không
nhiệt tình trong công tác thu thập, xác minh CC. Do đó cần phải qui định rõ ràng
về trách nhiệm của các cơ quan được ủy thác, có biện pháp đảm bảo sự phối hợp
giữa các cơ quan trong thu thập chứng cứ như đưa ra cơ chế phối hợp giữa các cơ
quan, chế tài khi không thực hiện đúng trách nhiệm của mình trong việc thu thập,
xác minh tài liệu, CC khi được ủy thác.
Thứ ba, trong lĩnh vực giám định, đội ngũ những người làm công tác giám
định đa phần là cán bộ chuyên môn, chưa được đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ giám
định, đây là một trong những khó khăn cho TA trong việc đánh giá CC, cơ sở vật
chất đảm bảo cho hoạt đông giám định cũng còn hạn chế. Do vậy, cần đào tạo,

bồi dưỡng nghiệp vụ giám định cho những người làm công tác này, tăng cường cơ
sở vật chất cho hoạt động giám định.
15
Thứ tư, về phía cơ quan tiến hành tố tụng, một số Thẩm phán nhưng lại
không hiểu rõ các qui định của pháp luật, hạn chế về nghiệp vụ, dẫn đến sai trong
nghiên cứu và đánh giá chứng cứ dẫn đến án sai phải hủy, ảnh hưởng quyền và lợi
ích hợp pháp của ĐS; hoặc mặc dù có căn cứ không vô tư khi tiến hành TT, dẫn
đến việc nghiên cứu, đánh giá CC không khách quan nhưng cơ quan tiến hành TT
lại bao che cho nhau; một số người tiến hành tố tụng hiểu rõ pháp luật nhưng lại
không thực hiện hết trách nhiệm, không tâm huyết với việc giải quyết đúng đắn
vụ việc… dẫn đến nhiều trường hợp án sai, án phải hủy, án tồn đọng không được
giải quyết,… Do đó cần phải tăng cường đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn,
nghiệp vụ cần thiết cho thẩm quyền, kiểm sát viên, hội thẩm nhân dân,… nâng
cao ý thức trách nhiệm và “cái tâm” đối với nghề, từ đó đảm bảo cho việc các qui
định của pháp luật về cung cấp, thu thập, nghiên cứu và đánh giá CC nói riêng và
các qui định khác nói chung được thi hành nghiêm túc, đảm bảo quyền và lợi ích
hợp pháp của các chủ thể.
LỜI KẾT
Tóm lại, pháp luật đã có nhiều qui định về hoạt động cung cấp, thu thập và
đánh giá CC đảm bảo cho VVDS được giải quyết một cách đúng đắn, toàn diện,
bảo về lợi ích hợp pháp của ĐS. Tuy nhiên, như trình bày ở trên các qui định này
còn một số hạn chế, việc thực thi nhiều qui định còn vướng mắc, khó khăn, nhiều
qui định chưa được thi hành nghiêm túc. Điều này đòi hỏi sự nỗ lực cả về mặt
hoàn thiện pháp luật và công tác áp dụng, tuyên truyền pháp luật nhằm nâng cao
hiệu quả của các qui định pháp luật về vấn đề này trên thực tế, bảo vệ tốt hơn
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân.
16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Văn bản qui phạm pháp luật
1. BLTTDS năm 2004, sửa đổi bổ sung năm 2011

2. Nghị quyết 04/2012/NQ-HĐTP
Giáo trình
Trường Đại học Luật Hà Nôi, Giáo trình Luật tố tụng dân sự, Nxb.
Công an nhân dân, Hà Nội, 2012
Luận văn
1. Vũ Văn Đồng, Chứng cứ và vấn đề chứng minh trong Bộ luật Tố tụng dân sự,
luận văn thạc sĩ luật học, Luận văn thạc sĩ Luật học, Hà Nội, 2007
2. Vũ Thị Hải Yến, Vấn đề chứng cứ trong tố tụng dân sự, Khóa luận tốt nghiệp, Hà
Nội, 2011
3. Nguyễn Minh Hằng, Chế định chứng minh trong tố tụng dân sự Việt Nam, luận án
thạc sĩ, Hà Nội, 2007
Tạp chí
17
1. Hoàng Ngọc Thỉnh, Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự, Tạp chí Luật
học, Số đặc san 4/2004
2. Phạm Thái Quí, Bàn về chế định chứng minh và chứng cứ trong tố tụng dân sự,
Tạp chí dân chủ và pháp luật, Số 12/2008
3. Thu thập chứng cứ và trách nhiệm chứng minh trong tố tụng dân sự - một số vấn
đề lí luận và thực tiễn, Tạp chí Kiểm sát, số 24/2010
4. Tưởng Duy Lượng, Thu thập chứng cứ và chứng minh theo qui định của Luật
sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS, Tạp chí Kiểm sát, Số 12/2011, 31-45
Các trang web
1.
p_page_id=1754190&p_cateid=1751909&article_details=1&item_id=27306936
2.
px?ItemID=982
3.
pageid=54&mid=188&action=docdetailview&intDocId=205&intSetItemId=161
&breadcrumb=161
4.

p_page_id=1754190&p_cateid=1751909&item_id=23189990&article_details=1
18

×