Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Vai trò chứng minh của đương sự trong tố tụng dân sự – vấn đề cơ bản nhất của tố tụng dân sự Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (284.5 KB, 33 trang )

GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI
1. Tính cấp thiết của đề tài
Luật tố tụng dân sự (TTDS) bao gồm tổng hợp các quy phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền
ban hành, điều chỉnh những quan hệ phát sinh trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự. Là luật hình thức
độc lập mang tính tổng hợp của nhiều ngành luật nội dung khác nhau như: Luật Dân Sự, Luật Hôn Nhân Và Gia
Đình, Luật Thương Mại, Luật Lao Động… Nhưng những luật nội dung này đều mang những đặc trưng cơ bản
của Luật Dân Sự như tính bình đẳng, tự quyết và thoả thuận giữa các bên… đòi hỏi Luật tố tụng dân sự cũng
phải thể hiện được bản chất tương ứng trong việc đánh giá và xác định vai trò quan trọng của các đương sự,
đặt họ vào vị trí trung tâm của toàn bộ quá trình giải quyết các vụ việc dân sự. Đây cũng là một trong những
nhiệm vụ trọng tâm của công cuộc cải cách và hoàn thiện hệ thống tư pháp Việt Nam mà Đảng và Nhà Nước
đã đề ra trong giai đoạn hiện nay.
Quá trình tố tụng kéo dài từ khi toà án thụ lý vụ việc dân sự cho đến khi có phán quyết giải quyết hoặc chấm
dứt (bãi nại) tranh chấp. Trong đó, hoạt động chứng minh là hoạt động cơ bản, trước tiên và quan trọng nhất
mà các chủ thể tiến hành và tham gia hướng tới. Hoạt động này là cơ sở để đương sự bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình cũng như là căn cứ để toà án đưa ra các phán quyết của mình. Có thể nói mục đích của
hoạt động tố tụng là chứng minh và bản án, quyết định của toà án chính là kết quả cuối cùng của quá trình
chứng minh đó.
Kế thừa có chọn lọc các quy của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự (1989), Pháp lệnh thủ tục giải
quyết các vụ án kinh tế (1994) và Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động (1996) không thể phủ
nhận về tính hoàn thiện và phát triển đúng đắn của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004. Mặc dù vậy, là một ngành
luật còn non trẻ, kinh nghiệm lập pháp còn thiếu trong khi các quan hệ xã hội lại phát sinh và thay đổi một cách
nhanh chóng nên qua một thời gian áp dụng Bộ luật đã bộc lộ nhiều điểm chưa hợp lý nói chung và cách nhìn
nhận về vai trò, vị trí của đương sự trong hoạt động chứng minh nói riêng. Một mặt không phản ánh được đúng
đắn bản chất của tố tụng dân sự, không phát huy được vai trò chủ động và tích cực của đương sự trong việc tự
bảo vệ quyền và lợi ích của mình, mặt khác đã tạo gánh nặng cho cơ quan tiến hành tố tụng khi phải làm thay
nhiều nhiệm vụ của đương sự. Đây là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng tồn đọng các
vụ việc dân sự tại toà án ngày càng nhiều, tính minh bạch và thiếu khách quan còn phổ biến thể hiện ở việc các
toà án cấp trên huỷ, sửa bản án của các toà cấp dưới với số lượng lớn.
Xuất phát từ những nguyên nhân trên, tác giả đã đi vào tìm hiểu, nghiên cứu và đánh giá các quy định của pháp
luật hiện hành, các quy định của nhà nước qua từng thời kỳ, tham khảo luật tố tụng dân sự của một số nước
trên thế giới để hoàn thiện đề tài “ Vai trò chứng minh của đương sự trong tố tụng dân sự – vấn đề cơ bản nhất


của tố tụng dân sự Việt Nam hiện nay” với mong muốn góp phần hoàn thiện các vấn đề về lý luận và thực tiễn
đối với chế định quan trọng này.
2. Đối tượng nghiên cứu
Là một vấn đề khó trong tố tụng dân sự, hoạt động chứng minh còn nhiều điểm đang tranh luận cũng như chưa
thống nhất nên trong phạm vi còn hạn chế về kỹ năng cũng như kinh nghiệm nghiên cứu, tác giả không có tham
vọng nghiên cứu tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh vấn đề chứng minh nói chung. Đối tượng nghiên
cứu của đề tài được xác định cụ thể là những quy định của Bộ luật tố tụng dân sự hiện hành về hoạt động
chứng minh của các chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng, từ đó chỉ rõ vai trò trung tâm và quan trọng nhất của
đương sự.
Trong thực tiễn, khái niệm về đương sự trong tố tụng dân sự còn có nhiều tranh luận về mặt nội hàm (như
ngoài nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan còn có người yêu cầu, người bị yêu cầu,
người liên quan trong việc dân sự, người kế thừa quyền và nghĩa vụ…) [1]. Tuy nhiên, theo quy định của Luật
Tố Tụng Dân Sự 2005 thì đương sự là nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan –
những tư cách tố tụng chỉ được xác lập khi có vụ án dân sự xảy ra. Mặt khác, trong thủ tục “phi tụng” – giải
quyết yêu cầu trong tố tụng dân sự, trong nhiều trường hợp người bị yêu cầu không xuất hiện (yêu cầu tuyên
bố một người chết, mất tích…) nên tính chất đối lập trong tố tụng (đối tụng) giữa các bên không được thể hiện
rõ ràng cũng như vai trò chứng minh của đương sự rất mờ nhạt. Vì lẽ đó, đề tài đi vào nghiên cứu, đánh giá
những vấn đề liên quan đến hoạt động chứng minh trong việc giải quyết vụ án dân sự chứ không phải toàn bộ
vụ việc dân sự (bao gồm yêu cầu về việc dân sự và vụ án dân sự )
Để làm nền tảng cho việc đánh giá, nhận xét được khách quan, đề tài tìm hiểu các quy định của hoạt động tố
tụng về lĩnh vực dân sự của Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử, đối chiếu, so sánh các quy định trong luật tố tụng
của một số nước có nền lập pháp tiên tiến trên thế giới trong cùng lĩnh vực.
Khảo sát những số liệu thực tế nhằm bổ trợ cho những vấn đề lý luận.
3. Mục đích nghiên cứu
Đề tài đi xây dựng, phân tích những khái niệm cơ bản như tố tụng dân sự, đương sự, đặc điểm, bản chất của
hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự… từ đó, chỉ rõ vai trò quan trọng, trung tâm của đương sự trong
hoạt động này dựa trên sự so sánh, đối chiếu với các chủ thể khác của hoạt động chứng minh. Phân tích rõ
những tác động của xu thế thời đại ảnh hưởng đến vai trò chứng minh của đương, đồng thời đưa ra những luận
điểm để giải thích về vai trò quan trọng nhất của đương sự.
Đề tài hướng đến giải quyết tính thực tế của vấn đề. Sau khi xây dựng và đánh giá về vấn đề lý luận chung, chỉ

rõ vai trò chứng minh của đương sự là quan trọng nhất và ngày càng quan trọng hơn, khái quát những mặt
được và những mặt hạn chế của Bộ luật tố tụng dân sự 2004 đã mạnh dạn đưa ra những giải pháp cơ bản
nhằm nâng cao nhận thức về vai trò của đương sự cũng như tạo cơ chế để họ có thể thực hiện tốt nhất quyền
và nghĩa vụ chứng minh của mình, giảm gánh nặng cho hệ thống tòa án.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu như: phương pháp luận của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, các phương pháp nghiên cứu lịch sử, phương pháp phân tích, so sánh, quy nạp, thống
kê…
5. Tình hình nghiên cứu
Pháp luật tố tụng liên quan đến việc giải quyết các vấn đề dân sự đã được xây dựng và áp dụng từ lâu nhưng
mới chính thức được pháp điển hóa một cách có hệ thống và đồng bộ trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004
nên các đề tài nghiên cứu còn rất hạn chế. Những bài viết, công trình mang tính toàn diện và có hệ thống trước
đây như“Chứng cứ và hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự Việt Nam” - Luận văn thạc sĩ của Vũ Trọng
Hiếu (1998), “Nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng dân sự” – Phạm Hữu Thư, tạp
chí Dân chủ và pháp luật (số 9/1998)… xây dựng trên Pháp lệnh TTGQVADS (1989), TTGQVAKT (1994) và
TTGQTCLĐ (1996) đã hết hiệu lực nên chỉ còn mang tính chất tham khảo. Trong những năm gần đây, có một
số bài viết, công trình liên quan như “Các quy định về chứng minh trong tố tụng dân sự” của tác giả Nguyễn
Công Bình, tạp chí Luật học năm 2005, “Chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự” của tác giả Hoàng
Ngọc Thỉnh, Tạp chí Luật học năm 2004, “Chế định chứng minh trong tố tụng dân sự Việt Nam”, Nguyễn Thị
Minh Hằng, luận án tiến sĩ luật học năm 2007… Mặc dù đây là những công trình nhìn nhận các vấn đề về
chứng minh ở nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau nhưng là cơ sở tham khảo quan trọng để tác giả có thể hoàn
thành tốt phần nghiên cứu của mình.
6. Khả năng phát triển của đề tài
Đề tài là công trình nghiên cứu nhìn nhận đầy đủ về vai trò tính chất quan trọng của đương sự trong quá trình
chứng minh, phản ánh đầy đủ bản chất của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự. Việc nghiên cứu một cách toàn
diện và quy mô sẽ tạo ra những cơ chế mới phát huy toàn diện tính tích cực của đương sự trong tố tụng dân
sự, cán bộ tòa án sẽ không phải mất quá nhiều thời gian cho một vụ việc mà vẫn đảm bảo được sự “tâm phục
khẩu phục” của đương sự, giảm đi sự tồn đọng các vụ án dân sự ngày càng nhiều, tăng thêm lòng tin của nhân
dân và phù hợp hơn với thông lệ quốc tế.
Bên cạnh đó, theo đề án về việc cải cách cơ cấu của ngành tòa án tại Nghị Quyết số 49- NQ/TW của Bộ Chính

Trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, trong thời gian tới sẽ có 4 cấp tòa án được thành lập là tòa
sơ thẩm khu vực, tòa phúc thẩm, tòa thượng thẩm và tòa án nhân dân tối cao. Việc thành lập thêm một cấp tòa
án đồng nghĩa với việc phát sinh nhiều hơn các cơ quan, cán bộ, thêm nhiều gánh nặng cho ngân sách nhà
nước vốn đã ngày càng eo hẹp. Khi hệ thống tòa án phát triển theo chiều cao thì đề tài đi vào giải quyết vấn đề
theo chiều rộng, giảm bớt công việc cho ngành tòa án trao trả về cho phía đương sự. Như vậy, cho dù có thêm
cấp tòa thì cũng vẫn đảm bảo được về vấn đề nhân sự, cơ cấu.
7. Cơ cấu của đề tài
Ngoài phần danh mục chữ viết tắt, giới thiệu chung, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, đề tài
gồm 3 phần:
Phần thứ nhất là những vấn đề lý luận chung. Trong phần này tác giả xây dựng các khái niệm cơ bản như: tố
tụng dân sự, đương sự, hoạt động chứng minh… chỉ rõ nghĩa vụ chứng minh của đương sự là một nguyên tắc
cơ bản của tố tụng dân sự cũng như khái lược một số nét cơ bản về quy định của pháp luật qua từng thời kỳ về
vai trò chứng minh của đương sự.
Phần thứ hai với tiêu mục là “Xác định vai trò chứng minh của đương sự – một vấn đề cơ bản nhất của tố tụng
dân sự Việt Nam hiện nay” là nội dung chính của đề tài. Tác giả đi vào giải quyết các vấn đề liên quan để chỉ rõ
vai trò chứng minh của đương sự là quan trọng nhất trong sự so sánh với các chủ thể khác của họat động
chứng minh, khẳng định vai trò này ngày càng quan trọng hơn trong bối cảnh hiện nay.
Phần thứ ba, sau khi đi nghiên cứu một cách toàn diện và chặt chẽ các vấn đề lý luận ở hai phần trên, tác giả đi
vào phân tích những bất cập, tồn tại của Bộ luật TTDS hiện hành và đưa ra một số giải pháp nhằm khắc phục,
giải quyết, hiện thực hóa những quy định của pháp luật còn chưa có cơ chế cụ thể đảm bảo.
1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VAI TRÒ CHỨNG MINH CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG
DÂN SỰ
1.1 Những khái niệm cơ bản
1.1.1 Tố tụng dân sự
Trình tự hoạt động do pháp luật quy định cho việc xem xét giải quyết vụ án và thi hành án được giải thích là “tố
tụng dân sự”[2]. Tuy nhiên, cần xem xét một cách chính xác hơn về cụm từ được sử dụng lâu đời và có nhiều
tranh luận này mới có thể đặt nền tảng nghiên cứu các vấn đề liên quan trong đó. Được ghép từ danh từ “tố
tụng” là kiện thưa tại tòa án nói chung[3] có gốc từ tiếng la tinh procedere có nghĩa là tiến bước, gợi nên một
cách thức cần thiết phải thực hiện để đạt được mục đích, “tố tụng” thường được sử dụng một cách lẫn lộn với
danh từ “thủ tục” bởi tính chất định trước buộc phải tuân theo trong một việc nhất định. Mặc dù cũng dùng để

chỉ định một cách thức tiến hành bắt buộc nhưng danh từ “thủ tục” bao hàm trong đó nghĩa rộng hơn trên nhiều
mặt vượt ra ngoài nghĩa của trình tự giải quyết vụ việc tại tòa án (như thủ tục nhập học, thủ tục đi xuất khẩu lao
động…). Tố tụng khác biệt với thủ tục ở chỗ nó được dùng một cách triệt để và chỉ xuất hiện ở trong các trình
tự tại cơ quan tư pháp đồng thời gợi ra một cách nhìn nhận trong đó có sự tranh tụng – mâu thẫn yêu cầu tài
phán. Trong một thời gian dài của quá trình phát triển, danh từ thủ tục đã được sử dụng thay cho danh từ tố
tụng như: Thủ tục giải quyết vụ án dân sự, Thủ tục giải quyết vụ án kinh tế hay Thủ tục giải quyết các tranh
chấp lao động… đã không thể hiện rõ được bản chất của hoạt động tư pháp. Bộ luật tố tụng dân sự 2004 đã sử
dụng triệt để danh từ tố tụng và thống nhất các thủ tục giải quyết thành một trình tự tố tụng chung.
Thứ hai là danh từ “dân sự” – civil đôi khi được dùng tương đồng với danh từ prive – lĩnh vực luật tư, bởi bản
chất thỏa thuận, bình đẳng của các bên trong việc xác lập, thay đổi và chấm dứt các quyền và nghĩa vụ. Theo
quy định của Bộ luật TTDS về phạm vi giải quyết các tranh chấp tại Điều 1 thì các ngành luật nội dung có tranh
chấp được giải quyết theo trình tự này bao gồm Luật dân sự, Luật hôn nhân và gia đình, Luật thương mại, Luật
lao động thì danh từ “dân sự” trong “tố tụng dân sự” đang được dùng như một bộ phận của lĩnh vực tư luật (bởi
luật tư bao gồm nhiều ngành luật khác như luật bảo hiểm xã hội…).
Chính bởi sự phức tạp trong cách định nghĩa và xác định chính xác thuật ngữ tố tụng dân sự mà đã có nhiều
học giả đề nghị thay thế cụm từ này bằng một số cụm từ khác như: Luật tư pháp – vì liên quan đến lĩnh vực tư
pháp, Tư luật – luật điều chỉnh việc giải quyết việc “riêng tư” giữa các bên, Luật tư pháp dân sự – nhằm phân
biệt phạm vi của ngành luật này với tố tụng hành chính và tố tụng hình sự, Luật tư pháp tư hay Dân sự – tố
tụng… đồng thời đưa ra một số các định nghĩa khác nhau về tố tụng dân sự [4]. Các cách định danh này đều có
cơ sở nhất định nhưng chưa giải quyết được triệt để vấn đề, gây khó khăn cho cách tiếp cận của những nhà
nghiên cứu pháp luật cũng như không rõ nghĩa.
Việc sử dụng cụm từ tố tụng dân sự khi xây dựng Bộ luật tố tụng dân sự còn mang đến một thắc mắc từ phía
các Đại biểu quốc hội bởi sự hoài nghi luật “ba trong một”liệu có đáp ứng được yêu cầu hay không khi đối
tượng điều chỉnh rộng trong hoàn cảnh các tòa án vẫn được chia thành tòa dân sự, tòa kinh tế, tòa lao động sẽ
dễ gây nhầm lẫn khi các tòa kinh tế, lao động lại áp dụng theo thủ tục tố tụng dân sự? [5]. Tuy nhiên, có thể
thấy việc sử dụng cụm từ tố tụng dân sự là sát nghĩa và có tính chất triệt để hơn cả trong giai đoạn hiện nay.
Bởi 3 nguyên nhân:
Thứ nhất, hệ thống pháp luật Việt Nam không phân chia thành công pháp – tư pháp như một số nước trên thế
giới mà đây chỉ là vấn đề lý luận của những nhà nghiên cứu pháp luật. Định nghĩa dựa trên sự thừa nhận không
chính thức sẽ gây khó khăn cho việc tiếp cận một ngành luật thực định của đông đảo quần chúng. Vì vậy, cần

thiết phải định nghĩa rõ ràng dựa trên sự thừa nhận chính thức về vị trí và vai trò của ngành luật trong hệ thống
pháp luật.
Thứ hai, việc định nghĩa với cụm từ “tố tụng dân sự” một mặt phản ánh được tính chất“nệ thức” – phụ thuộc yếu
tố hình thức, thủ tục trong hoạt động giải quyết vụ việc dân sự bảo đảm hạn chế tính độc đoán của các thẩm
phán cũng như giúp các chủ thể tham gia có thể bảo vệ được mình thông qua những quy định mang tính chất
thủ tục. Mặt khác phản ánh được đối tượng điều chỉnh về mặt nội dung của ngành luật hình thức tổng hợp này
là các ngành luật mang yếu tố “riêng tư” giữa các bên không có sự tham gia của nhà nước ở một bên chủ thể
tranh chấp và gợi được tính tranh tụng, đối lập một cách bình đẳng giữa các bên đương sự.
Thứ ba, hiệu quả mang lại từ tố tụng không phải là ở việc tạo ra nhiều thủ tục khác nhau mà nằm ở việc giải
quyết nhanh chóng, chính xác, khách quan vụ việc, giảm thiểu được gánh nặng về cơ cấu, tổ chức cũng như
trong cách thức áp dụng pháp luật. Khi các đối tượng điều chỉnh là thống nhất về mặt bản chất thì có thể quy
nạp chúng về một thủ tục chung để giải quyết không cần thiết phải có nhiều thủ tục khác nhau. Hiệu quả của tố
tụng dân sự trong những năm qua đã minh chứng cụ thể cho điều đó.
Như vây, tố tụng dân sự có thể được hiểu dưới góc độ pháp lý là một ngành luật tố tụng cụ thể còn dưới góc độ
thực tiễn là những hình thức thực tiễn do các chủ thể tham gia vào quá trình tố tụng tiến hành.
Dưới góc độ pháp lý:
Tố tụng dân sự là tổng hợp các quy phạm pháp luật do nhà nước ban hành điều chỉnh các mối quan hệ
phát sinh trong quá trình giải quyết vụ việc về dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại, lao
động tại tòa án đảm bảo sự nhanh chóng, chính xác trong quá trình giải quyết và thi hành án, đặt ra các
chế tài bảo vệ quyền lợi của nhà nước, của công dân.
Dưới góc độ thực tiễn:
Tố tụng dân sự là một quy trình, thủ tục do pháp luật quy định buộc mọi chủ thể tiến hành và tham gia
tố tụng phải tuân theo nhằm giải quyết nhanh chóng, chính xác vụ án dân sự và thi hành án, bảo vệ
quyền lợi của nhà nước và của công dân.
Nhiều học giả trên thế giới đã nhìn nhận tố tụng dân sự như là “nô tì”, là “khúc ruột thừa”, là luật “yểm trợ” cho
luật hình thức… các cách nhìn nhận này là sai lầm và không đánh giá được vai trò quan trọng của luật tố tụng.
Bởi lẽ, pháp luật được đặt ra không phải chỉ để cho các bên xác lập các quyền và nghĩa vụ một cách chung
chung mà còn đặt ra những chế định nhằm đảm bảo cho các quyền đó thành thực tế. Khi lợi ích của một bên bị
tổn thương cũng là lúc họ cầu cứu đến vai trò của nhà nước. Nhà nước với vị trí trung lập, thông qua thủ tục tố
tụng xác định một cách rõ ràng quyền lợi, nghĩa vụ của các bên và đảm bảo thực hiện trên thực tế. Hay nói

cách khác, luật tố tụng đảm bảo quyền lợi của các bên ở thế “động” – có phát sinh tranh chấp (khác với quyền
lợi ở thể “tĩnh” – được các bên xác lập tôn trọng thực hiện). Nói chung, luật nội dung và luật tố tụng là hai mặt
không thể tách rời để chủ thể đảm bảo được quyền lợi hợp pháp của mình.
1.1.2 Đương sự trong vụ án dân sự
Đương sự là một khái niệm cơ bản khi tiếp cận ngành luật tố tụng. Việc xác định không đúng tư cách đương sự
sẽ là căn cứ để hủy các bản án, quyết định của tòa án. Trong những năm gần đây, các bản án, quyết định của
tòa án bị tuyên hủy bởi các quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm với l?ý do xác định không đúng tư cách đương
sự tăng lên khá nhiều [6]. Đồng thời với đó thì việc xác định đúng tư cách đương sự sẽ xác định đúng đắn
quyền và nghĩa vụ tố tụng cũng như giới hạn được hoạt động chứng minh trong tố tụng (sẽ được làm rõ ở phần
sau). Đã có nhiều khái niệm về đương sự được đưa ra như theo Đại từ điển tiếng việt thì “Đương sự là người,
là đối tượng trực tiếp của một việc đang giải quyết”[7], “là người có liên quan trực tiếp đến một việc” – Từ điển
từ và ngữ Hán Việt. Trong khoa học pháp l?ý thì đương sự được hiểu “là người có quyền, nghĩa vụ được giải
quyết trong một việc khiếu nại hoặc một vụ án” [8] hoặc như theo Bryan A.Garner trong cuốn từ điển pháp l?ý
xuất bản năm 2001 thì khái niệm đương sự được hiểu là “người đưa ra hoặc chống lại người đưa ra việc
kiện”[9].
Trong lĩnh vực tố tụng dân sự, “Đương sự trong vụ việc dân sự là người tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình hoặc bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của nhà nước thuộc lĩnh vực mình phụ
trách”[10] và được liệt kê cụ thể tại khoản 1 Điều 56 BLTTDS 2004 “Đương sự trong vụ án dân sự là cá nhân,
cơ quan, tổ chức bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan”. Đương sự có thể là cá
nhân, có thể là cơ quan, tổ chức (khi cơ quan tổ chức khởi kiện để bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích nhà nước
thuộc lĩnh vực mình phụ trách). Luật tố tụng dân sự có quy định về trường hợp các cơ quan, tổ chức khởi kiện
vụ án dân sự để yêu cầu toà án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân khác thì có các quyền và nghĩa
vụ như đương sự nhưng những cơ quan tổ chức này không được coi là đương sự trong vụ án bởi họ không
liên quan trực tiếp đến vụ án. những chủ thể này khởi kiện bởi chức năng, nhiệm vụ được pháp luật trao cho,
các quyền và lợi ích của họ không phát sinh từ chính bản án do họ khởi kiện.
Đương sự bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền và lợi ích liên quan đến vụ án nhưng dù là ai thì họ
phải có năng lực hành vi và năng lực tố tụng. Trong trường hợp không có hoặc có nhưng không đầy đủ thì họ
phải thực hiện thông qua người đại diện hợp pháp của mình (Điều 57 – BLTTDS 2004)
Nguyên đơn dân sự là cá nhân, cơ quan tổ chức đi kiện hoặc được cơ quan tổ chức khởi kiện để bảo vệ quyền
lợi công cộng. Nguyên đơn tham gia tố tụng với sự chủ động cao thể hiện ở việc họ có thể lựa chọn thời điểm

khởi đầu vụ án dân sự (thời điểm khởi kiện), giới hạn phạm vi xét xử của tòa án thông qua đơn khởi kiện vì “tòa
án chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện”(Điều 5 BLTTDS) (mặc dù sau này còn có thể có yêu cầu phản tố
của bị đơn hoặc yêu cầu của những người có quyền lợi liên quan nhưng những yêu cầu này phải có quan hệ
gần gũi với việc khởi kiện ban đầu), có quyền lựa chọn tòa án trong một số trường hợp (Điều 36 BLTTDS).
Nguyên đơn là người cho rằng quyền và lợi ích của mình, của xã hội đang bị xâm phạm, thông thường họ là
một phần trong quan hệ pháp luật nội dung đang tranh chấp.
Bị đơn dân sự là cá nhân, cơ quan tổ chức bị kiện. Trong tranh chấp, họ bị suy đoán là đã có hành vi xâm phạm
đến quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn hoặc của xã hội. Bị đơn tham gia tố tụng một cách bị động, tư
cách của họ chỉ được xác lập sau khi nguyên đơn xác định tư cách của mình, họ có thể nới rộng phạm vi giải
quyết vụ kiện nhưng vẫn bị phụ thuộc vào đơn khởi kiện ban đầu của nguyên đơn.
Đương sự thứ ba là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án. Đây không phải là một bên trong quan
hệ pháp luật nội dung nhưng quyền hay nghĩa vụ của họ phát sinh khi có tranh chấp sảy ra. Do vậy, họ bị lôi
kéo vào vụ kiện, tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích của mình. Họ có thể có yêu cầu độc lập (không
phụ thuộc vào yêu cầu của nguyên đơn, bị đơn) hoặc không độc lập (phụ thuộc vào nguyên đơn hay bị đơn).
Yêu cầu của họ có thể chống lại nguyên đơn, bị đơn hoặc có thể chống lại cả hai bên. Những chủ thể này
không đi kiện (hoặc được khởi kiện) như nguyên đơn và cũng không bị kiện như bị đơn nhưng có thể nhận biết
được khi thấy họ có quyền lợi hoặc nghĩa vụ phát sinh từ tranh chấp.
Khi tham gia quan hệ tố tụng dân sự, vai trò của các chủ thể của pháp luật nội dung vẫn được duy trì, có nghĩa
là quan hệ mới phát sinh cách biệt hẳn với quan hệ nguyên thủy đã được xác lập. Các bên, không thống nhất
được vấn đề thực hiện quyền và nghĩa vụ nên họ yêu cầu tòa án giải quyết – phát sinh tư cách mới là đương
sự, đồng thời với đó là phát sinh các quyền và nghĩa vụ mới được điều chỉnh bởi Luật TTDS. Đơn kiện được
thụ lý cũng là lúc tư cách được xác lập mà các bên đương sự không thể thay đổi được tư cách đó trong suốt
quá trình tố tụng: người đi kiện (hoặc được khởi kiện) là nguyên đơn, người bị kiện là bị đơn, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan. Đây chính là nguyên tắc bất cải, bất di bất dịch trong tố tụng dân sự[11].
Có thể nhận thấy rằng việc xác định tư cách đương sự trong vụ án dân sự bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án dựa trên vấn đề lợi ích. Giải quyết tranh chấp dân sự cũng chính là
việc giải quyết vấn đề về lợi ích nên tất cả các chủ thể có liên quan đến vấn đề lợi ích đều phải đưa vào và
được xác định tư cách là đương sự. Qua đó sẽ giải quyết được triệt để các tranh chấp phát sinh cũng như giảm
thiểu được các khiếu kiện kéo dài trong cùng một vụ việc.
1.1.3 Chứng minh và hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự

Trong thế giới khách quan luôn tồn tại nhiều sự vật, hiện tượng khác nhau đòi hỏi con người phải nhận thức và
đánh giá. Trong mỗi sự vật, hiện tượng lại có nhiều đặc tính khác nhau, có những đặc tính có thể nhận biết một
cách nhanh chóng, rõ ràng bằng các giác quan nhưng cũng tồn tại những đặc tính không thể nhận biết ngay mà
phải trải qua một quá trình tư duy, giải thích, móc nối các sự kiện để có thể đi đến được kết luận và việc đầu
tiên là phải đưa ra những giả thuyết để định hướng tư duy. Như việc một cái cây bị gãy người ta có thể nhận
thấy ngay sự đứt gãy, không toàn vẹn của cái cây đó bằng thị giác hoặc bằng xúc giác nhưng không thể nhận
biết được ngay rằng tại sao cái cây đó bị gãy? nó đã gãy lâu chưa?… mà phải đặt ra giả thuyết, sau đó tổng
hợp các sự kiện khách quan để có thể đi đến kết luận cuối cùng. Quá trình giải quyết giả thuyết bằng cách tư
duy, móc nối các sự kiện đó chính là chứng minh. Chứng minh được hiểu “là làm cho thấy rõ là có thật, là đúng
bằng sự việc hoặc bằng lý lẽ”[12]. Quá trình chứng minh diễn ra liên tục, trong mọi mặt của đời sống xã hội và
nó là động lực cho sự phát triển, khám phá tìm tòi.
Hoạt động chứng minh trong TTDS là một dạng của hoạt động chứng minh nói chung nhưng khác biệt ở chỗ
hoạt động này là hoạt động mang tính chất pháp lý được điều chỉnh bởi luật tố tụng dân sự và pháp luật liên
quan, được thực hiện bởi các chủ thể có quyền, nghĩa vụ cụ thể và kết quả của hoạt động này sẽ là một bản
án, quyết định của tòa án mang tính chất bắt buộc áp dụng. Nó là công cụ để tòa án có thể nhận thức được
chính xác sự việc đã sảy ra trên thực tế làm cơ sở để đưa ra phán quyết giải quyết các tranh chấp phát sinh
một cách nhanh chóng, chính xác và khách quan. Đối với các đương sự, chứng minh là phương tiện duy nhất
để họ có thể bảo vệ được các quyền và lợi ích của mình. Khi vụ việc dân sự được tòa án thụ lý và giải quyết
cũng đồng nghĩa với việc bên nguyên đơn cho rằng quyền và lợi ích của mình bị xâm phạm, bên bị đơn không
thừa nhận các quyền và lợi ích đó của nguyên đơn nên yêu cầu tòa án phân xử. Trong quá trình tố tụng có thể
phát sinh nhiều chủ thể khác, khi họ đưa ra yêu cầu hoặc phản đối yêu cầu thì họ cũng có nghĩa vụ chứng minh
cho yêu cầu hoặc phản đối yêu cầu của mình là đúng, là có thật. Toàn bộ quá trình giải quyết vụ việc dân sự là
chứng minh giả thuyết do các bên đưa ra.

Cho dù giả thuyết đó có được công nhận là đúng, là có thật hay
không thì toàn bộ quá trình đó vẫn được coi là hoạt động chứng minh.
Hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự là một quá trình gồm hoạt động của tòa án, viện kiểm sát
và những người tham gia tố tụng trong việc cung cấp, thu thập, nghiên cứu và đánh giá chứng cứ làm
cơ sở cho yêu cầu, phản đối yêu cầu của mình và phán quyết của tòa án trên cơ sở quy định của pháp
luật.

Hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự có ba đặc điểm cơ bản:
- Hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự là một quá trình nhận thức diễn ra suyên suốt vụ án dân sự, được
bắt đầu khi có quyết định thụ lý đơn khởi kiện cho đến khi tòa án ra phán quyết. Khởi đầu là việc chứng minh
của nguyên đơn cho yêu cầu của mình thông qua đơn khởi kiện, tiếp đến là hoạt động chứng minh của bị đơn
bác yêu cầu của nguyên đơn, yêu cầu phản tố (nếu có), hoạt động chứng minh của người có quyền lợi, nghĩa
vụ liên quan, của Viện kiểm sát (nếu có)… và kết thúc khi tòa án chứng minh cho phán quyết của mình thông
qua một bản án có giá trị bắt buộc thi hành.
- Bản chất của chứng minh chính là việc sử dụng chứng cứ.
Hai yếu tố cấu thành vụ án dân sự là yếu tố chủ quan (đương sự) và yếu tố khách quan (bao gồm đối tượng –
mục đích khởi kiện và nguyên nhân – cách thức bảo vệ quyền của các chủ thể trước tòa án). Hoạt động chứng
minh được xếp vào các yếu tố thuộc mặt khách quan của vụ án. Điều này có nghĩa là yếu tố cấu thành vụ án đã
vốn có, vốn đã tồn tại, nay chỉ đi tìm lại, diễn đạt lại một cách đầy đủ nhất, đúng đắn nhất. Hay nói cách khác,
hoạt động chứng minh là hoạt động thông qua việc sử dụng chứng cứ để tái hiện lại sự thật khách quan của vụ
án.
Là một yếu tố quan trọng nên khái niệm chứng cứ được luật tố tụng dân sự của nhiều nước đề cập đến. Cá biệt
còn có một số nước xây dựng luật về chứng cứ thể hiện sự quan trọng của vấn đề này. Luật tố tụng dân sự
Nhật Bản định nghĩa: “Chứng cứ là một tư liệu thông qua đó một tình tiết được tòa án công nhận và là một tư
liệu, cơ sở thông qua đó tòa án được thuyết phục là một tình tiết có tồn tại hay không?” hoặc theo điều 401 Luật
chứng cứ của Mỹ định nghĩa “Chứng cứ là những gì mà hàm chứa trong nó sự tồn tại của bất cứ một sự thực
nào mà bản thân sự hàm chứa đó ảnh hưởng tới việc xác định được một hành động hơn hoặc kém hơn”. Trong
Luật TTDS 2004, khái niệm chứng cứ lần đầu tiên được ghi nhận một cách tương đối đầy đủ tại Điều 81, theo
đó:
“Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cá nhân, cơ quan, tổ chức khác giao nộp
cho Tòa án hoặc do Tòa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do bộ luật này quy định mà tòa án dùng làm căn
cứ để xác định yêu cầu hay phản đối của đương sự là có căn cứ hợp pháp hay không cũng như những tình tiết
khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự”.
Quá trình chứng minh không có gì khác ngoài việc sử dụng chứng cứ đúng đắn (thỏa mãn ba yêu cầu về tính
khách quan, tính liên quan và tính hợp pháp) bao gồm bốn giai đoạn khác nhau là cung cấp, thu thập, nghiên
cứu, đánh giá chứng cứ. Các giai đoạn này có mối liên hệ mật thiết với nhau, chỉ có giai đoạn trước mới có giai
đoạn sau, và giai đoạn sau sẽ là cơ sở để đánh giá tính đúng đắn và triệt để của giai đoạn trước. Phải có hoạt

động thu thập, cung cấp chứng cứ thì mới phát sinh hoạt động nghiên cứu, đánh giá chứng cứ và kết quả của
họat động nghiên cứu, đánh giá chứng cứ sẽ phát sinh những nhận thức từ vụ án dân sự, nhận thức này có
đúng đắn, khách quan và toàn diện hay không hoàn toàn phụ thuộc vào việc cung cấp, thu thập chứng cứ có
đầy đủ và đúng hay không. Bốn giai đoạn này kéo dài, nối tiếp và đan xen nhau, không thể tách bạch cơ học từ
thời điểm nào đến thời điểm nào là giai đoạn cung cấp, thu thập, nghiên cứu hay đánh giá chứng cứ. Nhưng có
thể nhận thấy rằng những giai đoạn này kéo dài suyên suốt quá trình giải quyết vụ án dân sự, nó chỉ kết thúc
khi tòa án ra phán quyết. Mặc dù có thể tòa án cấp dưới đã ra quyết định giải quyết vụ án nhưng bản án này lại
được giải quyết tiếp theo trình tự phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm thì lại phát sinh hoạt động chứng minh
mới độc lập với hoạt động chứng minh trước đây.
- Chủ thể của hoạt động chứng minh rất đa dạng
Như đã phân tích ở trên, chứng minh là làm cho rõ là đúng, là có thật. Trong một vụ án cụ thể có rất nhiều ý
kiến cần phải được chứng minh là đúng, là có thật đồng nghĩa với việc chủ thể thực hiện hoạt động chứng minh
là đa dạng. Nguyên đơn chứng minh cho yêu cầu của mình, bị đơn chứng minh cho bác yêu cầu, yêu cầu phản
tố (nếu có) tòa án chứng minh cho phán quyết của mình, Viện kiểm sát chứng minh cho kháng nghị phúc thẩm,
giám đốc thẩm, tái thẩm của mình… Ngoài ra, khi đương sự không đủ khả năng tham gia tố tụng hoặc không
hiểu biết về pháp luật, không có kinh nghiệm tố tụng họ có thể nhờ người khác thay mình tham gia tố tụng từ đó
phát sinh ra các chủ thể khác tham gia tố tụng như người đại diện, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự… họ có quyền và nghĩa vụ không giống nhau xuất phát từ vị trí tố tụng cũng như thỏa thuận giữa họ
và đương sự nhưng đây cũng là những chủ thể của họat động chứng minh.
1.2 Nghĩa vụ chứng minh của đương sự – một nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng dân sự
Thuật ngữ nguyên tắc (principium ) được sử dụng lần đầu dưới thời La Mã cổ đại là có nghĩa là cơ sở, cốt lõi
nền tảng. Theo Đại từ điển tiếng Việt thì nguyên tắc “là những quy định, phép tắc, tiêu chuẩn làm chỗ dựa để
xem xét, làm việc”[13]. Khi thực hiện một công việc nhất định cần tuân thủ một cách triệt để các nguyên tắc thì
mới có thể đạt được những mục đích mong muốn. Quan điểm của chủ nghĩa Mác LêNin nguyên tắc là kết quả
cuối cùng trong sự nghiên cứu “không phải giới tự nhiên và lịch sử loài người thích ứng với các nguyên tắc mà
ngược lại, nguyên tắc chỉ đúng khi nó phù hợp với giới tự nhiên và lịch sử loài người”[14]. Nguyên tắc được đúc
rút ra từ hoạt động thực tiễn và chỉ đúng khi phù hợp với thực tiễn. Trong hệ thống khoa học pháp lý hiện đại
nguyên tắc được hiểu là những tư tưởng chỉ đạo, định hướng cơ bản trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật. Các nguyên tắc trong pháp luật nói chung và luật tố tụng dân sự nói riêng chỉ đúng khi nó phù
hợp với bản chất của ngành luật, với thực tế các quan hệ xã hội mà ngành luật đó điều chỉnh.

Nhận thức được vai trò quan trọng mang tính chất chỉ đạo, Bộ luật tố tụng dân sự đã dành chương II với 21
điều để liệt kê các nguyên tắc của hoạt động tố tụng dân sự. Các nguyên tắc này được xây dựng trên tính chất
của nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng như tính chất của luật tố tụng dân sự cùng với quá trình đúc rút kinh
nghiệm thực tế, xây dựng, áp dụng và hoàn thiện pháp luật tố tụng trong những năm qua. Một trong số đó là
nguyên tắc về việc cung cấp chứng cứ và chứng minh trong tố tụng dân sự “các đương sự có quyền và nghĩa
vụ cung cấp chứng cứ cho tòa án và chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Cá nhân, cơ
quan, tổ chức khởi kiện yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác có quyền và nghĩa vụ cung
cấp chứng cứ và chứng minh như đương sự” (khoản 1 Điều 6 BLTTDS 2004).
Nguyên tắc về quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương sự trong BLTTDS năm 2004 được kế thừa từ các quy
định trong Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989 (Điều 3), Pháp lệnh thủ tục giải quyết vụ án
kinh tế năm 1994 (Điều 3) và Pháp lệnh thủ tục giải quyết tranh chấp lao động năm 1996 (Điều 2). Tuy nhiên,
nếu đi vào cụ thể từng điều luật có thể thấy các pháp lệnh trước đây đã đồng nhất nghĩa vụ chứng minh với
nghĩa vụ cung cấp chứng cứ. Việc đồng nhất hai nghĩa vụ này với nhau là không có cơ sở bởi việc cung cấp
chứng cứ chỉ là một phần trong hoạt động chứng minh bao gồm nhiều giai đoạn từ thu thập, cung cấp đến
nghiên cứu, đánh giá chứng cứ. Từ đó sẽ không nhận thức được đầy đủ về vai trò chứng minh của đương sự
cũng như không thể tạo ra những cơ chế hữu hiệu để đương sự có thể hoàn thành được nghĩa vụ của mình,
ảnh hưởng đến các quyền và lợi ích hợp pháp. Nguyên nhân là lúc đó vẫn tồn tại giai đoạn điều tra của tòa án
đối với mỗi vụ án cụ thể. Từ việc điều tra, thu thập chứng cứ tòa án sẽ phân tích, đánh giá và quyết định. Chính
vì vậy mà trong một thời gian dài vai trò chứng minh của đương sự trong việc giải quyết vụ án dân sự không
được quan tâm và đề cao.
Khắc phục những hạn chế trước đây và phù hợp hơn với hoàn cảnh hiện tại, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004
đã bỏ đi hẳn phần điều tra trong tố tụng dân sự, quy định nghĩa vụ chứng minh của đương sự thành một
nguyên tắc và cụ thể hóa tại điều 79 – BLTTDS:
“1. Đương sự có yêu cầu tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình phải đưa ra chứng cứ để chứng
minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp
2. Đương sự phản đối yêu cầu của người khác đối với mình phải chứng minh sự phản đối đó là có căn cứ và
phải đưa ra chứng cứ để chứng minh
3. Cá nhân, cơ quan tổ chức khởi kiện bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của nhà nước hoặc yêu cầu tòa án bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác thì phải đưa ra chứng cứ để chứng minh cho việc khởi kiện, yêu
cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp.”

Nội dung nguyên tắc về nghĩa vụ chứng minh của đương sự được thể hiện ở hai mặt:
Thứ nhất, nghĩa vụ là việc phải làm. Đương sự có nghĩa vụ chứng minh có nghĩa là đương sự phải thực hiện
hoạt động chứng minh. Điều này không có nghĩa là tất cả các đương sự đều phải thực hiện hoạt động chứng
minh. Như khi cơ quan, tổ chức khởi kiện bảo vệ quyền, lợi ích của cá nhân khác thì tư cách đương sự thuộc
về người được khởi kiện nhưng họ không bắt buộc phải chứng minh cho quyền và lợi ích hợp pháp của mình là
có căn cứ mà nghĩa vụ chứng minh thuộc về cơ quan, tổ chức đã khởi kiện, bị đơn cũng không bắt buộc phải
chứng minh… nghĩa vụ chứng minh nói một cách tổng quát nhất là thuộc về phía đương sự đã đưa ra yêu cầu.
Thuật ngữ “yêu cầu” ở đây đã được sử dụng theo nghĩa rộng bao gồm cả yêu cầu về sự công nhận là đúng, là
có lý và cả yêu cầu công nhận là không đúng, không có lý hay nói cách khác yêu cầu ở đây chính là đề ra đối
tượng chứng minh. Nội dung đối tượng chứng minh thuộc về phía đương sự bao gồm thỉnh cầu và kháng biện.
Trong thỉnh cầu có thỉnh cầu ban đầu (đơn khởi tố), thỉnh cầu bổ xung (bổ xung yêu cầu trong quá trình giải
quyết vụ việc), thỉnh cầu phản tố (đòi hỏi công nhận lợi ích của bị đơn) và thỉnh cầu dự sự (đòi hỏi của người
thứ ba về việc tham gia vụ án). Kháng biện bao gồm kháng biện về nội dung (là sự phủ nhận của bị đơn),
khước biện (bị đơn cho rằng không đúng thủ tục) và kháng chấp (bị đơn cho rằng nguyên đơn không có quyền
kiện họ: ví dụ như không có tư cách hoặc kiện ở tòa không có thẩm quyền).[15]
Khi nguyên đơn đưa ra yêu cầu bằng cách khởi kiện thì họ có nghĩa vụ chứng minh cho yêu cầu của mình là có
căn cứ và hợp pháp, bị đơn đưa ra yêu cầu bác bỏ ý kiến của nguyên đơn thì họ có nghĩa vụ chứng minh cho
việc bác bỏ đó là có căn cứ, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan khi đưa ra yêu cầu cũng phải chứng minh…
nguyên tắc này thống nhất với nguyên tắc về quyền tự định đoạt của đương sự, quyền và lợi ích của họ phải do
chính họ quyết định.
Thứ hai, đồng thời với việc phải làm thì nghĩa vụ còn mang lại một hậu quả pháp lý. Hậu quả pháp lý này là việc
được tòa án công nhận các quyền và lợi ích hợp pháp khi đương sự thực hiện một cách đầy đủ và chính xác
nghĩa vụ chứng minh. Ngược lại, khi đương sự không thực hiện hoặc thực hiện một cách không đầy đủ nghĩa
vụ chứng minh thì yêu cầu đưa ra sẽ không được chấp nhận và sẽ phải chịu “hậu quả”. Không loại trừ trường
hợp người đưa ra yêu cầu không thực hiện nghĩa vụ chứng minh nhưng hậu quả pháp lý mang lại không phải là
một hậu quả bất lợi như khi bị đơn phản đối yêu cầu của nguyên đơn lại không thực hiện nghĩa vụ chứng minh
mà chỉ “chối dài” nhưng phản đối đó vẫn được chấp nhận, trường hợp này phải thấy được rằng hậu quả bất lợi
ở đây đã thuộc về phía nguyên đơn vì họ đã không thực hiện được nghĩa vụ chứng minh của mình nên đã
không được công nhận quyền và lợi ích.
Nguyên tắc nghĩa vụ chứng minh của đương sự là một nguyên tắc cơ bản và có tính chỉ đạo xuyên suốt vì xuất

phát từ bản chất của tố tụng dân sự là giải quyết các tranh chấp giữa các bên trên cơ sở pháp luật, mục đích là
để bảo vệ các quyền và lợi ích của mọi chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự. ở đó, không có sự can thiệp của
quyền lực nhà nước, các bên hoàn toàn bình đẳng trong các mối quan hệ. Đương sự là trung tâm của hoạt
động tố tụng, là chủ thể của quan hệ pháp luật nội dung đang tranh chấp. Quyền và lợi ích của họ sẽ do chính
họ quyết định thông qua hoạt động của mình. Nhà nước không can thiệp mà chỉ công nhận các quyền lợi khi
xét thấy có căn cứ và hợp pháp thông qua hoạt động chứng minh của đương sự.
Trong luật tố tụng dân sự tồn tại hai hệ thống các nguyên tắc. Hệ thống thứ nhất bao gồm các nguyên tắc thể
hiện vị trí tố tụng của các chủ thể tiến hành tố tụng (gồm người tiến hành tố tụng và cơ quan tiến hành tố tụng)
như nguyên tắc tòa án xét xử tập thể, xét xử công khai, nguyên tắc thẩm phán và hội thẩm nhân dân xét xử độc
lập và chỉ tuân theo pháp luật… Hệ thống thứ hai bao gồm những nguyên tắc thể hiện vị trí tố tụng của các chủ
thể tham gia như nguyên tắc bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng dân sự, nguyên tắc bảo đảm quyền
bảo vệ của đương sự, nguyên tắc hòa giải… Các nguyên tắc có mối quan hệ hữu cơ với nhau trong đó nguyên
tắc về nghĩa vụ chứng minh của đương sự là nguyên tắc cơ bản nhất. Chỉ khi đương sự thực hiện nghĩa vụ
chứng minh của mình thì mới xuất hiện các nguyên tắc tố tụng khác. Đương sự phải thực hiện hoạt động
chứng minh thông qua việc cung cấp chứng cứ, chứng minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp
thì mới là một trong những điều kiện để tòa án tiến hành thụ lý đơn khởi kiện – thời điểm bắt đầu của hoạt động
tố tụng dân sự. Không thể có một đơn khởi kiện nào được thụ lý mà không có chứng cứ để chứng minh (Điều
164). Các nguyên tắc khác theo đó mới có thể phát sinh và áp dụng.
1.3 Sơ lược quy định về vai trò chứng minh của đương sự trong tố tụng dân sự qua từng thời kỳ
Luật pháp là một bộ phận thuộc kiến trúc thượng tầng được hình thành trên cơ sở hạ tầng xã hội tương ứng.
Pháp luật luôn là công cụ hữu hiệu nhất để giai cấp thống trị thực hiện quyền làm chủ của mình, định hướng và
duy trì sự ổn định xã hội. Vì vậy, qua từng thời kỳ lịch sử khác nhau với sự hình thành, tồn tại và suy vong của
nhiều chế độ chính trị, bản chất của nhà nước là khác nhau nên các quy định liên quan đến quyền và nghĩa vụ
của người dân nói chung và quyền, nghĩa vụ chứng minh của đương sự trong hoạt động tố tụng dân sự nói
riêng cũng không giống nhau.
1.3.1. Giai đoạn trước năm 1945
Năm 1884, thực dân Pháp chính thức xâm lược nước ta, chấm dứt thời kỳ xã hội Việt Nam “thuần” phong kiến
chuyển sang chế độ thực dân nửa phong kiến. Chế độ phong kiến qua đi nhưng vẫn để lại những dấu vết đậm
nét về hoạt động lập pháp với nhiều bộ luật khác nhau nhưng có quy mô và hoàn thiện nhất vào lúc bấy giờ
phải kể đến ba bộ luật lớn là Quốc Triều Hình Luật (nhà Lê thế kỷ XV), Quốc Triều Khám Tụng Điều Lệ (thế kỷ

XV – XVIII), Hoàng Việt Luật Lệ (luật Gia Long). Do mang ảnh hưởng nặng nề của tư tưởng phong kiến nên
các bộ luật này mang tính chất hà khắc, vai trò của con người, của công dân, của đương sự không được đề
cao, thủ tục xét hỏi, thẩm vấn được quy định phổ biến, các chế tài áp dụng mang tính chất hình sự. Vai trò
chứng minh của đương sự trong vụ kiện dân sự được quy định một cách tản mạn và không rõ ràng. Tuy vậy,
đây cũng là những viên gạch đầu tiên đặt nền móng cho việc quy định vai trò chứng minh của đương sự sau
này. Lần đầu tiên trong bộ Quốc Triều Khám Tụng Điều Lệ quy định:
“Những người kiện tụng có đơn cáo trạng khiếu nại về: ruộng đất không xuất trình văn khế, cưới xin không sính
lễ, treo hỏi, tài sản không có trúc thư, tiền nợ không có văn tự, đánh nhau không có biên bản thương tích, án
mạng không có nghiệm án, trộm cướp không có tang vật, cờ bạc không có tang chứng, ức hiếp không phải là
người hiền quý danh vọng thì các nha môn không được khám tụng. Nếu nhận bừa thì gom xét sự việc trước
sau luận bác đi”
Vai trò của đương sự lần đầu tiên được nhắc đến một cách rõ ràng trong việc chứng minh yêu cầu của mình
bằng cách cung cấp chứng cứ trong những vụ việc cụ thể, nếu khi yêu cầu giải quyết mà đương sự không đưa
ra được bằng chứng thì quan xét xử sẽ bác bỏ đơn kiện.
Trong tập V bộ Hoàng Việt Luật Lệ có quy định “phàm đơn gửi tòa án chỉ cho phép một đơn thưa một việc thưa
việc phạm tội thật có bằng chứng. Thừa thẩm quan lúc xử kiện cung chứng đã xác thực mà có 1, 2 người không
đến hầu tòa thì không liên quan đến bản án”.
Đây là hai quy định được áp dụng phổ biến khi có việc thưa kiện. Nó được áp dụng rộng rãi khi giải quyết các
vấn đề kiện tụng thuộc cả luật hình sự, dân sự và hôn nhân gia đình.
Bằng hai bản thỏa ước ngày 5/6/1882 cắt đứt miền nam bao gồm 6 tỉnh để sát nhập vào lãnh thổ pháp gọi là
Nam Kỳ, thỏa ước ngày 6/6/1884 biến miền Bắc và miền Trung thành lãnh thổ bảo hộ của Pháp và đạo dụ năm
1898 của Hoàng đế Đồng Khánh nhượng 3 thành phố lớn là Hà Nội, Hải Phòng và Đà Nẵng thành đất nhượng
địa cho Pháp, Việt Nam chính thức bị thực dân Pháp đô hộ. Khi đến nước ta chúng thiết lập một chế độ đô hộ
hà khắc nhằm bóc lộ và vơ vét của cải đặc biệt thông qua hai cuộc khai thác thuộc địa trên quy mô lớn. Nhằm
phục vụ cho mưu đồ của mình chúng thay đổi nước ta thành một nước thực dân nửa phong kiến. Việc đầu tiên
là ban hành các bộ luật nhằm ổn định tình hình trong nước, thiết lập sự đô hộ. Liên quan đến hoạt động tố tụng
dân sự, trong giai đoạn này chúng ban hành một số bộ luật khác nhau như Bộ dân sự tố tụng Nam Kỳ năm
1910, Bộ dân sự tố tụng Bắc kỳ năm 1917, Bắc kỳ pháp viện biên chế năm 1921, Bộ luật dân sự, thương sự tố
tụng bắc kỳ năm 1921, và Bộ Hộ sự và thương sự Trung Kỳ năm 1942… Các bộ luật này mang tư tưởng phong
kiến và dựa trên khuôn mẫu của Bộ luật dân sự Pháp 1807. Trong giai đoạn này, quyền con người, quyền công

dân không được để ý đến các quy định tố tụng chủ yếu là tạo điều kiện cho hoạt động bóc lột của thực dân nên
vai trò chứng minh của đương sự không được quan tâm nhằm duy trì sự bất bình đẳng. chỉ tồn tại vài quy định
nhỏ như “Về phương diện dẫn chứng… buộc bên đương sự nào nại ra phải có nghĩa vụ dẫn chứng..” và “Các
đương sự trong một vụ kiện phải dẫn chứng. Mỗi người muốn viện dẫn một sự kiện hay một hành vi pháp lý
phải chứng minh sự kiện, hành vi đó” [16]. Đây là một quy định hiếm hoi có thể tiếp cận được bởi các văn bản
thời kỳ này được viết hoàn toàn bằng tiếng Pháp, không dịch ra chữ Quốc Ngữ cũng như không có các công
trình nghiên cứu chi tiết. Mặt khác, giai đoạn này sử dụng một cách đồng loạt các án lệ nơi tòa án nên các quy
tắc thành văn “chủ yếu vạch sẵn tỷ mỉ những lề lối phải theo như một thông tư hành chính chứ ít có điều khoản
chính xác định thức một nguyên tắc pháp lý tổng quát” - mang tính chất thủ tục.[17]
Đồng thời với đó là việc duy trì hai hệ thống tòa án khác nhau với việc phân chia hai loại đương sự khác nhau.
Tòa án do Pháp lập xét xử các công dân của Pháp hoặc những người được biệt đãi như người pháp, tòa án
của Việt Nam xét xử những đương sự là người Việt nhưng vẫn bị những nhà cầm quyền người Pháp thâu tóm
và thống trị, Việt Nam trong giai đoạn này “không có một nền tư pháp thuần túy bởi vì tất cả các quyền hành hư
hay thực đều do nhà cầm quyền Pháp nắm giữ”[18]. Giai đoạn này qua đi mà không có sự tiến bộ nào của pháp
luật tố tụng liên quan đến vai trò chứng minh của đương sự. [19]
1.3.2 Giai đoạn từ 1945 đến 1989
Năm 1945, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa – nhà nước dân chủ đầu tiên ở khu vực Đông Nam á được
thành lập. Đánh dấu sự thay đổi toàn diện về mọi mặt trong đời sống xã hội, trong lĩnh vực tư pháp, tố tụng.
Ngày 10/10/1945 nhà nước ta đã ban hành sắc lệnh số 47/SL cho tạm thời giữ các luật lệ hiện hành của chế độ
cũ mà không trái với bản chất của nhà nước cách mạng. Tuy nhiên, sắc lệnh trên chỉ đề cập đến việc cho áp
dụng các quy phạm pháp luật nội dung của chế độ cũ mà không không đề cập đến việc có cho tiếp tục áp dụng
các quy định về hoạt động tố tụng hay không. Tiếp theo đó, nhà nước ban hành nhiều quy định khác nhau liên
quan đến hoạt động tố tụng dân sự ở nhiều văn bản pháp luật khác nhau như Sắc Lệnh số 13/SL ngày
24/1/1946 về tổ chức các tòa án và các ngạch thẩm phán, Sắc Lệnh 15/SL ngày 17/4/1946 quy định về thẩm
quyền của tòa án các cấp, Sắc Lệnh 112/SL ngày 28/6/1946 bổ xung sắc lệnh số 15, Sắc Lệnh 85/SL ngày
22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng, Sắc Lệnh 159/SL ngày 7/11/1950 quy định về vấn đề ly
hôn … các quy định về vai trò chứng minh của đương sự được quy định khá nhiều thể hiện sự quan tâm của
nhà nước và vai trò của nhân dân ngày càng được chú trọng. Tại Thông tư số 2386 – NCPL ngày 19/12/1961
của Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn:
“Trong bản án sơ thẩm phải chỉ ra: Nguyên đơn yêu cầu giải quyết những vấn đề cụ thể gì và nêu ra những

bằng chứng gì làm căn cứ – ý kiến của bị đơn đối với những lời thỉnh cầu của nguyên đơn: có chấp nhận hay
không lời thỉnh cầu đó hoặc chỉ chấp nhận đến mức nào thôi, dẫn những bằng chứng gì làm căn cứ cho những
ý kiến đó”. Khi đương sự có yêu cầu giải quyết thì buộc phải dẫn ra những chứng cứ bảo vệ cho yêu cầu của
mình, nguyên đơn phải nêu rõ những vấn đề yêu cầu, bị đơn phải nêu rõ mình có chấp nhận hay không hoặc
chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn đến mức nào và cũng có nghĩa vụ dẫn chứng.
Theo đề án năm 1964 của tòa án nhân dân tối cao về chuyển hướng tổ chức các tòa án địa phương có hướng
dẫn: “Trong các vụ kiện về dân sự, các bên đương sự có trách nhiệm chứng minh các yêu cầu của mình và đề
xuất các chứng cứ. Nếu các chứng cứ do các bên đương sự xuất trình chưa đầy đủ thì tòa án sẽ yêu cầu họ
xuất trình các chứng cứ bổ xung…” và “ Các đương sự (nguyên đơn, bị đơn, người dự sự) có quyền đề xuất
những yêu cầu và có nhiệm vụ trình bày những chứng cứ, lý lẽ để chứng minh những yêu cầu và bảo vệ quyền
lợi hợp pháp của mình.” Đương sự có quyền và nghĩa cụ xuất trình chứng cứ. Tòa án sẽ yêu cầu, hướng dẫn
họ xuất trình chứng cứ trong trường hợp chứng cứ chưa đầy đủ. Đương sự nào có yêu cầu thì có trách nhiệm
chứng minh cho yêu cầu đó.
Tại thông tư số 06 – TATC ngày 25/2/1974 hướng dẫn điều tra trong tố tụng dân sự quy định “Các đương sự
(nguyên đơn, bị đơn, và người dự sự) có quyền đề xuất những yêu cầu và bảo vệ những quyền lợi hợp pháp
của mình …trong điều kiện hiện nay, trình độ hiểu biết pháp luật và trình độ văn hóa của đại đa số các đương
sự còn thấp, các đơn kiện và lời trình bày của họ không rõ ràng và đầy đủ, cho nên các tòa án phải tích cực
giúp đỡ cho các đương sự hiểu rõ những quyền lợi hợp pháp của họ để họ có thể đề xuất được những yêu cầu
và giúp cho họ biết đề xuất những chứng cứ để chứng minh.” Quy định này đã đưa đương sự về vị trí trung tâm
của hoạt động tố tụng, tòa án chỉ giải quyết trong phạm vi đơn yêu cầu, giúp đỡ đương sự hiểu biết pháp luật
và có thể đưa ra được những yêu cầu chính đáng cũng như hỗ trợ họ thu thập chứng cứ để chứng minh.
Trong bản hướng dẫn về trình tự xét xử sơ thẩm về dân sự kèm theo thông tư số 96 – NC/PL ngày 8/2/1977
của tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn: “Để bảo vệ quyền lợi của mình các đương sự có nhiệm vụ đề xuất
chứng cứ nhưng tòa án nhân dân không được phép chỉ dựa vào lời khai của đương sự và những giấy tờ mà họ
xuất trình làm căn cứ cho việc xét xử mà phải dùng mọi biện pháp cần thiết để làm sáng tỏ sự thật.”Mặc dù
đương sự có quyền đề xuất những chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình nhưng tòa án với vị trí của cơ
quan xét xử không được thiên vị bất cứ bên nào mà phải xem xét một cách toàn diện cũng như tìm mọi biện
pháp để có thể làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án bảo vệ quyền lợi của các bên.
1.3.3 Giai đoạn từ 1990 đến 2004
Năm 1989 được đánh dấu bằng sự ra đời của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự, tiếp theo đó là

Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994 và Pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao
động 1996. Đây là ba pháp lệnh tiền thân của bộ luật tố tụng dân sự hiện nay, nó đã bước đầu khắc phục được
tính chất tản mạn của các quy phạm pháp luật, thu trình tự giải quyết vụ việc về những văn bản thống nhất và
có giá trị cao. Tuy nhiên, ba pháp lệnh này lại mang tính chất chung chung định hướng, các quy định còn chưa
thực sự rõ ràng, vẫn chưa thể thống nhất các vụ việc đân sự về một trình tự thủ tục chung gây khó khăn cho
đương sự và tòa án. Về vai trò chứng minh của đương sự trong các vụ việc dân sự được quy định trong ba
pháp lệnh này còn chưa nhiều và thiếu đi cơ chế bảo đảm do vẫn tồn tại thủ tục điều tra giải quyết vụ việc dân
sự tại tòa án – hay nói cách khác, trong giai đoạn này, vai trò chứng minh vẫn chủ yếu thuộc về tòa án.
Nghĩa vụ chứng minh của đương sự đã được quy định thành một nguyên tắc cụ thể“Đương sự có nghĩa vụ
cung cấp chứng cứ và chứng minh để bảo vệ quyền lợi của mình” (Điều 3 PLTTGQVAKT) nguyên tắc này đã
tạo cơ sở quan trọng để đương sự chủ động thực hiện nghĩa vụ chứng minh của mình. Các quyền và nghĩa vụ
liên quan đến hoạt động chứng minh của đương sự đã được cụ thể hóa:
“Điều 20. Quyền, nghĩa vụ tố tụng của các đương sự
2- Các đương sự có quyền:
a) đưa ra tài liệu, chứng cứ, được đọc, sao chép và xem các tài liệu, chứng cứ do bên đương sự khác cung cấp;
e) tranh luận tại phiên tòa
3- Đương sự có nghĩa vụ
a) cung cấp đầy đủ, kịp thời các tài liệu, chứng từ có liên quan theo yêu cầu của tòa án.” (Điều 20
PLTTGQTCLĐ)
Như vậy, đương sự có quyền thu thập chứng cứ, có quyền cung cấp những chứng cứ đó cho tòa án để bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của mình, có quyền được biết về các tài liệu, chứng của của đương sự khác cũng
như được sao chép các tài liệu đó. Đồng thời là quyền thì đây cũng là nghĩa vụ của đương sự.
Khi tiến hành khởi kiện, “Đơn kiện phải do nguyên đơn hoặc người đại diện của nguyên đơn ký. Kèm theo đơn
kiện phải có các tài liệu chứng minh yêu cầu của nguyên đơn” (khoản 2 Điều 32 PLTTGQTCLĐ). Đơn kiện của
nguyên đơn phải có đầy đủ các nội dung theo quy định cũng như nội dung các tài liệu chứng cứ để làm cơ sở
cho yêu cầu của mình. Nếu không đầy đủ sẽ là một trong những căn cứ để trả lại đơn khởi kiện theo quy định
tại Điều 33 PLTTGQTCLĐ. Bị đơn có quyền được biết nội dung đơn kiện của nguyên đơn cũng như có quyền
được đưa ra ý kiến của mình về đơn kiện đó, nếu không đồng ý thì có nghĩa vụ chứng minh phản yêu cầu đó
(Điều 34 PLTTGQVAKT ).
Trong quá trình giải quyết vụ án, đương sự có thể tự mình hoặc nhờ người khác thay mặt mình tham gia quá

trình giải quyết “Đương sự là công dân, người đại diện của đương sự theo quy định tại Điều 21 của pháp lệnh
này có thể ủy quyền cho luật sư hoặc người khác thay mặt mình trong tố tụng, trừ việc ly hôn và hủy việc kết
hôn trái pháp luật” (Điều 22 PLTTGQVADS). Quy định này nhằm khắc phục tình trạng hạn chế về khả năng tố
tụng của đương sự, giúp họ có thể bảo vệ được tốt nhất các quyền và nghĩa vụ của mình trong điều kiện còn
hạn chế nhiều về hiểu biết.
Quá trình nghiên cứu, đánh giá chứng cứ diễn ra chủ yếu tại phiên tòa, các bên đương sự có quyền tham gia
phiên tòa, được quyền trình bày quan điểm của mình và nghe trình bày của phía bên kia, được quyền đề xuất
các câu hỏi thông qua hội đồng xét xử, được quyền tranh luận tại phiên tòa[20]…Quá trình xét xử sơ thẩm kết
thúc, đương sự có quyền kháng cáo. Đơn kháng cáo phải ghi rõ nội dung kháng cáo và lý do. Các bên đương
sự có quyền cung cấp, bổ xung chứng cứ ở giai đoạn phúc thẩm, có quyền tham gia phiên tòa phúc thẩm, nghe
trình bày, tham gia hỏi, tranh luận như phiên tòa sơ thẩm[21]… tại thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm “Nếu tòa án
đó triệu tập người tham gia tố tụng thì họ được trình bày ý kiến trước khi kiểm sát viên trình bày ý kiến về kháng
nghị” (khoản 3 Điều 76 PLTTGQCVADS)…
Nói tóm lại, Như tác giả Phan Hữu Thư đã nhận xét: “Các quy định của pháp lệnh thủ tục giải quyết vụ án dân
sự, pháp lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động, pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế thiếu
hoàn toàn các quy định về chứng cứ, quy trình chứng minh, phân loại chứng cứ, phân định giá trị chứng minh
của từng chứng cứ”[22]. Vấn đề chứng minh trong giai đoạn từ 1989 đến trước khi bộ luật TTDS 2004 có hiệu
lực còn có nhiều hạn chế do sự nhận thức chưa đúng đắn trên cơ sở của một nền kinh tế, xã hội kém phát
triển, các giao lưu dân sự còn đơn giản, tranh chấp diễn ra không nhiều với độ phức tạp không cao. Với những
hạn chế chung về chứng minh, ba pháp lệnh không đề cao vai trò chứng minh của đương sự cũng như không
tạo điều kiện để đương sự có thể thực hiện đầy đủ nghĩa vụ chứng minh của mình.
Tổng kết phần 1
Trong phần 1 tác giả đã đi vào nghiên cứu, xây dựng những khái niệm cơ bản nhất liên quan đến hoạt động
chứng minh của đương sự như khái niệm tố tụng dân sự, khái niệm đương sự, khái niệm và đặc điểm của hoạt
động chứng minh trong tố tụng dân sự… làm cơ sở cho việc nghiên cứu cụ thể về vai trò chứng minh của
đương sự trong tố tụng dân sự. Có thể thấy rằng tố tụng dân sự luôn bao gồm những trình tự thủ tục luật định
nhằm giải quyết những tranh chấp, bất đồng về các quan hệ pháp luật nội dung giữa những chủ thể tham gia.
Khi họ cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình hay của người khác bị xâm hại và trong phạm vi quyền
hạn pháp luật trao cho họ có thể thực hiện việc tự bảo vệ bằng một trình tự tố tụng, trình tự này được gọi là tố
tụng dân sự. Khi tự bảo vệ, đương sự không còn cách nào khác ngoài việc thực hiện bằng hoạt động chứng

minh – một quyền và nghĩa vụ tố tụng đặc thù đã được quy định thành một nguyên tắc trong BLTTDS 2004.
Qua từng thời kỳ lịch sử khác nhau dưới ảnh hưởng của những chế độ chính trị, pháp luật khác nhau nên các
quy định liên quan đến vấn đề chứng minh của đương sự cũng khác nhau và dần đi đến việc cụ thể hóa, từng
bước hoàn thiện.
2. XÁC ĐỊNH VAI TRÒ CHỨNG MINHC ỦA ĐƯƠNG SỰ – MỘT VẤN ĐỀ CƠ BẢN NHẤT CỦA TỐ TỤNG
DÂN SỰ VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Dẫn nhập
Quy phạm pháp luật Tố Tụng Dân Sự hiện nay có thể phân chia thành hai nhóm lớn:
Nhóm thứ nhất là những quy phạm điều chỉnh những hoạt động mang tính chất hình thức, thủ tục trong tố tụng
như quy định về thủ tục khởi kiện, thụ lý vụ án, thời gian chuẩn bị xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, thủ tục xét xử tại
phiên tòa sơ thẩm, phiên tòa phúc thẩm… Những quy định này mang tính chất định lệ, hình thức “bất di bất
dịch”trong mọi vụ kiện mà các chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng đều phải chấp hành một cách nghiêm chỉnh
trong mọi vụ án dân sự.
Nhóm thứ hai, là những quy phạm về cách thức (phương chước) để làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án,
cơ sở để đương sự bảo vệ quyền và lợi ích của mình và để tòa án có thể giải quyết chính xác vụ án dân sự.
Đây chính là các quy định về hoạt động chứng minh trong tố tụng dân sự, mang tính chất “động” không giống
nhau trong các vụ án khác nhau. Cụ thể như các quy định về chứng cứ, chứng minh, hoạt động cung cấp, thu
thập chứng cứ, nghiên cứu, đánh giá chứng cứ…
Khi những quy phạm mang tính chất thủ tục trả lời cho câu hỏi trình tự tố tụng diễn ra như thế nào? thì những
quy định về hoạt động chứng minh lại trả lời cho câu hỏi cách thức để giải quyết vụ án ra sao? – đây là câu hỏi
được các chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng quan tâm hàng đầu vì nó sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của
các bên đương sự và trách nhiệm, nghĩa vụ của các chủ thể tiến hành tố tụng. Hay nói cách khác, vấn đề
chứng minh là quan trọng nhất trong tố tụng dân sự.
Bên cạnh đó, “Vai trò” là danh từ dùng để chỉ “chức năng, tác dụng của cái gì hoặc của ai trong sự vận động,
phát triển của nhóm tập thể nói chung”[23]. Vai trò chứng minh của đương sự là sự thể hiện chức năng, tác
dụng của đương sự trong quá trình đi tìm sự thật khách quan của vụ án. Vai trò đó được đánh giá là quan trọng
nhất trong giai đoạn hiện nay thể hiện ở việc giải quyết ba vấn đề lớn:
- Thứ nhất, vai trò quan trọng nhất của đương sự như thế nào trong quá trình đi tìm sự thật khách quan của vụ
án đặt trong tương quan với vai trò của các chủ thể khác của hoạt động chứng minh?
- Thứ hai, dựa trên những cơ sở nào để lý giải về vai trò quan trọng hàng đầu của đương sự?

- Thứ ba, trong giai đoạn hiện nay, dưới sự tác động của nhiều yếu tố trong và ngoài nước tình hình kinh tế,
chính trị, xã hội đang ngày càng thay đổi và có ảnh hưởng hai chiều đến hoạt động tư pháp nói chung và hoạt
động tố tụng nói riêng, vai trò chứng minh của đương sự trong giai đoạn này ngày càng quan trọng được thể
hiện ra sao?
Việc giải quyết triệt để ba vấn đề lớn sẽ làm sáng tỏ được vai trò chứng minh của đương sự là quan trọng nhất
trong giai đoạn hiện nay.
2.2. Đương sự – chủ thể đầu tiên và quan trọng nhất của hoạt động chứng minh
2.2.1 Đương sự – người phát động và giới hạn hoạt động chứng minh
Chứng minh là một quá trình nhận thức kéo dài suyên suốt vụ án với bốn giai đoạn kế tiếp nhau liên tục là thu
thập, cung cấp, nghiên cứu, đánh giá chứng cứ, giai đoạn trước là tiền đề của giai đoạn sau, giai đoạn sau
củng cố và đánh giá giai đoạn trước. Tính liên tục của bốn giai đoạn được khởi động bằng việc nguyên đơn nộp
đơn khởi kiện. Đơn khởi kiện chính là biểu hiện rõ nét nhất của quyền đi kiện (tố quyền) của cá nhân, cơ quan
tổ chức. Khi pháp luật thừa nhận cho một chủ thể những quyền năng nhất định cũng đồng thời phải đảm bảo
cho quyền năng ấy được thực hiện thông qua một thủ tục tố tụng và nguyên đơn phải cụ thể hóa quyền đó
bằng một đơn khởi kiện để yêu cầu bảo vệ, đây chính là “gạch nối” giữa luật nội dung và luật hình thức. Khi
được thụ lý, đơn khởi kiện sẽ làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ được quy định cụ thể trong BLTTDS buộc
nguyên đơn không thể tự xử để bảo vệ quyền lợi của mình, buộc bị đơn dù không muốn cũng bị xét xử đồng
thời với đó ràng buộc tòa án có thẩm quyền phải giải quyết yêu cầu của nguyên đơn. Trong quá trình chứng
minh nói chung lại diễn ra nhiều quá trình chứng minh nhỏ như chứng minh cho yêu cầu của nguyên đơn, bác
yêu cầu của bị đơn, yêu cầu phản tố của bị đơn, yêu cầu của người thứ ba… nhưng có một điểm chung là tất
cả các yêu cầu đó đều bắt đầu phát sinh từ đương sự hay đương sự là người bắt đầu hoạt động chứng minh.

×