Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

TỬ VONG DO NHIỄM TRÙNG HUYẾT SƠ SINH ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.09 KB, 16 trang )

TỬ VONG DO NHIỄM TRÙNG HUYẾT SƠ SINH

TÓM TẮT
Đặt vấn đề: nhiễm trùng huyết sơ sinh là một nguyên nhân gây tử vong thường
gặp ở những đơn vị hồi sức sơ sinh tại các nước đang phát triển. Cho đến nay,
những nghiên cứu về các yếu tố nguy cơ tử vong trong nhiễm trùng huyết sơ sinh
còn khá ít.
Mục tiêu: xác định các yếu tố liên quan đến tử vong do nhiễm trùng huyết sơ sinh
tại đơn vị chăm sóc đặc biệt.
Phương pháp: nghiên cứu cắt ngang phân tích 130 trẻ sơ sinh dưới 1 tháng tuổi
điều trị tại Bệnh viện Nhi Đồng 1 với chẩn đóan nhiễm trùng huyết sơ sinh, xác
định bằng cấy máu dương tính, trong khỏang thời gian 4 năm (2004 – 2008) được
khảo sát về các yếu tố liên quan đến tử vong. Những sự kết hợp giữa các biến số
dịch tễ học, lâm sàng, cận lâm sàng và tử vong được xem xét.
Kết quả: tác nhân gây bệnh nhiễm trùng huyết sơ sinh thường gặp nhất là
Klebsiella sp. (36,9%), tiếp đến là Staphylococcus sp.(26,9%) và Acinetobacter sp.
(10,8%). Với phân tích đơn biến, các yếu tố nguy cơ kết hợp với tử vong là rối
lọan nhịp tim (RR= 3,11; CI: 1,56 – 6,19), rối lọan nhịp thở (RR= 2,57; CI: 1,26 –
5,23), co kéo lồng ngực (RR= 3,44; CI: 1,25 – 9,5), và phù cứng bì (RR= 4,5; CI:
2,26 – 8,95). Các yếu tố dịch tễ học như phái tính, ngày tuổi, cân nặng lúc sanh và
tuổi thai chưa thấy có liên quan với tử vong. Các yếu tố lâm sàng bao gồm bất ổn
thân nhiệt, vàng da, hôn mê, co giật, chướng bụng và xuất huyết không liên quan
đến tử vong. Tất cả biến số cận lâm sàng như bạch cầu, tiểu cầu, dung tích hồng
cầu và CRP không có mối kết hợp với tử vong.

Kết luận: kết quả nghiên cứu có thể được dùng để nhận biết trẻ sơ sinh bị nhiễm
trùng huyết với nguy cơ tử vong cao, cần chăm sóc dặc biệt.
ABSTRACT
EPIDEMIOLOGICAL, CLINICAL AND PARACLINICAL FACTORS
RELATED TO DEATH CAUSED BY NEONATAL SEPSIS
Vo Tang Duyen, Bui Quoc Thang


* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 13 – Supplement of No 1 - 2009: 35 - 39
Background: neonatal sepsis is a common cause of death in neonatal intensive care
units in developing countries. Little information is available on risk factors for
mortality among newborns with septicemia.
Objective: to identify factors related to death among newborn infants with sepsis
in intensive care unit.
Method: analytical cross-sectional study of 130 newborns under 1 month of age
who were hospitalized in Children’s Hospital N01 presented neonatal sepsis,
confirmed by blood culture, during a 4-year period (2004 – 2008) were
investigated for factors related to death. The associations between
epidemiological, clinical, laboratory variables and death were examined.

Results: the most common causal agent of neonatal sepsis was Klebsiella sp.
(36.9%), followed by Staphylococcus sp. (26.9%) and Acinetobacter sp. (10.8%).
In univariate analysis, the risk factors associated with death were: cardiac
arrhythmia (RR= 3.11; CI: 1.56 - 6.19), dyspnea (RR= 2.57; CI: 1.26 - 5.23),
thorax retraction (RR= 3.44; CI: 1.25 - 9.5) and sclerema neonatorum (RR= 4.5;
CI: 2.26 - 8.95). Epidemiological factors such as sex, age, birthweight and
gestational age were not significantly associated with death. Clinical factors
including temperature instability, jaundice, coma, convulsion, abdominal
distension and bleeding were not related to death. All laboratory variables such as
white blood cells, platelets, hematocrit and CRP were not associated with death.
These findings could be used to identify newborn infants with septicemia at
increased risk of death who need to receive intensive care.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Theo Tổ chức Y Tế Thế Giới, có khoảng 4 triệu ca tử vong sơ sinh hàng năm tại
các nước đang phát triển, hầu hết là do nhiễm trùng, sanh ngạt và những hậu quả
của sinh non, nhẹ cân. Một số khảo sát cho thấy khoảng phân nửa các ca tử vong
trong cộng đồng có liên quan tơi nhiễm vi trùng. Số liệu thống kê của Viện Bảo
Vệ Sức Khỏe Trẻ Em Việt Nam cho thấy nhiễm trùng huyết sơ sinh có tỉ lệ tử

vong đứng hàng thứ hai sau hội chứng suy hô hấp sơ sinh. Tỉ lệ mới mắc của
nhiễm trùng huyết sơ sinh do vi trùng tại các nước phát triển là 1 – 4 / 1000 ca
sanh sống, dao động theo thời gian và vùng địa lý. Ở các nước đang phát triển, tần
suất nhiễm trùng huyết sơ sinh thường cao gấp đôi.
Tỉ lệ tử vong do nhiễm trùng huyết sơ sinh rất cao: 15 – 50% cho nhiễm trùng sơ
sinh sớm và 10 – 20% cho nhiễm trùng sơ sinh muộn. Những công trình nghiên
cứu về các yếu tố tiên lượng trong nhiễm trùng huyết sơ sinh còn rất hạn chế. Đề
tài này được thực hiện nhằm xác định các yếu tố dịch tễ học, lâm sàng và cận lâm
sàng có liên quan đến tử vong do nhiễm trùng huyết sơ sinh. Để đạt được mục tiêu
tổng quát trên, các mục tiêu chuyên biệt sau đây được thực hiện:
1. Xác định tỷ lệ các đặc điểm dịch tễ học, lâm sàng và cận lâm sàng trong nhiễm
trùng huyết sơ sinh.
2. Xác định tỷ lệ tử vong do nhiễm trùng huyết sơ sinh.
3. Xác định mối liên quan giữa các đặc điểm dịch tễ học, lâm sáng và cận lâm
sàng với tử vong do nhiễm trùng huyết sơ sinh.
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đề tài được thiết kế theo phương pháp cắt ngang phân tích. Dân số mục tiêu là các
trẻ nhập viện điều trị tại Bệnh viện Nhi Đồng 1 với chẩn đoán nhiễm trùng huyết
sơ sinh. Dân số chọn mẫu là các trẻ nhập viện điều trị tại Bệnh viện Nhi Đồng 1 từ
1/1/2004 đến 1/1/2008 với chẩn đoán nhiễm trùng huyết sơ sinh. Cỡ mẫu gồm 130
trẻ sơ sinh được chọn ngẫu nhiên có hệ thống. Tiêu chí đưa vào là các trường hợp
được chẩn đóan nhiễm trùng huyết sơ sinh và xác định bằng kết quả cấy máu
dương tính. Tiêu chí loại trừ là các bệnh án thiếu thông tin hoặc kết quả cấy máu
ra tạp khuẩn. Phương pháp thu thập số liệu là hồi cứu hồ sơ bệnh án lưu trữ tại
phòng hồ sơ của Bệnh Viện Nhi Đồng 1. Công cụ thu thập số liệu là bệnh án nhập
liệu để ghi nhận các thông tin cần thiết. Nghiên cứu thử được tiến hành trên 30
bệnh án. Số liệu được nhập và phân tích bằng phần mềm Epi Info 3.4.1 (2007):
dùng bảng 2 x 2 và phép kiểm χ2 để so sánh 2 tỷ lệ, tính nguy cơ tương đối,
khoảng tin cậy 95% và giá trị của p. Nếu mẫu nhỏ thì dùng phép kiểm chính xác
Fisher. Mức khác biệt có ý nghĩa thống kê là p < 0,05.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Đặc điểm dịch tễ học
Bảng 1: Đặc điểm dịch tễ học trong nhiễm trùng huyết sơ sinh
Đặc điểm

Tần số

Tỷ lệ (%)
Phái tính:




- nam

78

(60,0)
- nữ

52

(40,0)
Chu sinh

91

(70,0)
Nhẹ cân


72

(55,4)
Sinh non

76

( 58,5)
Đặc điểm lâm sàng
Bảng 2: Đặc điểm lâm sàng của nhiễm trùng huyết sơ sinh
Đặc điểm

Tần số

Tỷ lệ (%)
Rối loạn thân nhiệt

23

17,7
Rối loạn nhịp tim

18

13,8
Rối loạn nhịp thở

41

31

Vàng da

55

42,3
Cứng bì

4

3,1
Hôn mê

9

6,9
Co giật

13

10,0
Co kéo

77

59,2
Bụng chướng

14

10,8

Xuất huyết

7

5,4
Đặc điểm cận lâm sàng
Bảng 3: Đặc điểm cận lâm sàng
Đặc điểm

Tần số

Tỷ lệ (%)
Bất thường bạch cầu

18

13,8
Bất thường tiểu cầu

37

28,5
Bất thường Hct

33

25,4
Bất thường CRP

72


55,4
Kết quả cấy máu cho thấy tác nhân gây bệnh đa số là vi khuẩn Gram âm (66,9%),
tiếp đến là vi khuẩn Gram dương (29,2%). Chỉ có 5 trường hợp cấy máu ra nấm
Candida albicans. Các vi khuẩn thường gặp nhiều nhất là Klebsiella (36,9%),
Staphylococcus (26,9%) và Acinetobacter (10,8%). Tác nhân gây tử vong thường
gặp nhất là Klebsiella (37,5%), Staphylococcus (20,8%) và Acinetobacter
(16,7%).
Tỷ lệ tử vong
Trong 130 trường hợp nhiễm trùng huyết sơ sinh điều trị tại Bệnh viện Nhi Đồng
1, có 24 trường hợp tử vong, chiếm tỷ lệ 18,5%.
Mối liên quan giữa các đặc điểm với tử vong do nhiễm trùng huyết sơ sinh
Bảng 4: Các yếu tố có liên quan tới tử vong
Yếu tố

NCTĐ

KTC 95%

p
Rối loạn nhịp tim

3,11

1,56 – 6,19

0,002
Rối loạn nhịp thở

2,57


1,26 – 5,23

0,008
Phù cứng bì

4,50

2,26 – 8,95

0,020
Co kéo lồng ngực

3,44

1,25 – 9,50

0,020
BÀN LUẬN
Mặc dù đã có những cải thiện rõ rệt trong việc chăm sóc sức khoẻ trẻ em, tỷ lệ tử
vong giai đoạn sơ sinh vẫn còn cao. Tử vong sơ sinh chiếm 40% của khoảng 10
triệu tử vong trẻ em hàng năm trên toàn thế giới. Có hơn 10.000 trường hợp tử
vong sơ sinh mỗi ngày, trong đó nhiễm trùng sơ sinh chiếm 26%(10). Nhiễm trùng
huyết sơ sinh là nguyên nhân quan trọng gây tử vong sơ sinh và tiên lượng có thể
phụ thuộc vào các yếu tố dịch tễ học, lâm sàng và cận lâm sàng.
Rối loạn nhịp tim ở trẻ em mỗi ngày càng được biết nhiều hơn nhờ các phương
pháp chẩn đoán ngày càng hiện đại. Cơ chế gây rối loạn nhịp tim và nguyên nhân
của loạn nhịp rất phức tạp(7). Trong một nghiên cứu vào năm 2007, Griffin và
cộng sự nhận thấy rằng các đặc điểm của nhịp tim có thể cung cấp những thông tin
độc lập liên quan tới việc phát hiện sớm nhiễm trùng huyết sơ sinh(5). Trẻ sơ sinh

có nhịp tim bình thường trong khoảng 100 – 160 lần/phút. Tỷ lệ tử vong ở trẻ có
nhịp tim không bình thường là 44,4%, cao hơn hẳn so với tỷ lệ tử vong ở trẻ có
nhịp tim bình thường (14,3%). Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p = 0,002).
Rối loạn nhịp thở là khi trẻ ngưng thở, thở không đều, nhịp thở dưới 30 lần/phút
hoặc trên 60 lần/phút. Ở trẻ sơ sinh, hoạt động của vỏ não và sự dẫn truyền thần
kinh chưa hoàn chỉnh nên việc điều hoà hô hấp chưa tốt, thỉnh thoảng có cơn
ngưng thở hoặc thở không đều(13). Nhóm triệu chứng lâm sàng ban đầu thường
gặp nhất là các triệu chứng hô hấp như rối loạn nhịp thở, thở nhanh hay có những
cơn ngưng thở trên 15 giây. Triệu chứng hô hấp thường xuất hiện là do hệ thống
hô hấp của trẻ rất nhạy với các thay đổi trong cơ thể. Trẻ dễ dàng phản ứng lại
bang các biện pháp như tăng nhịp thở, co kéo liên sườn hay hõm ức. Kết quả này
cho thấy việc theo dõi tình trạng hô hấp của trẻ là vô cùng quan trọng(12). Ở trẻ có
rối loạn nhịp thở, tỷ lệ tử vong là 31,7% trong khi tỷ lệ này ở trẻ có nhịp thở bình
thường là 12,4%. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p = 0,008).
Phù cứng bì là một rối loạn của mô mỡ, thường xuất hiện đột ngột ở trẻ sinh non
và trẻ bệnh nặng. Sự xuất hiện của phù cứng bì ở trẻ bệnh nặng được xem là một
dấu hiệu tiên lượng xấu(3). Phù cứng bì ít gặp trong nhiễm trùng huyết sơ sinh
nhưng có tỷ lệ tử vong rất cao (75%) so với trẻ không có triệu chứng phù cứng bì
(16,6%). Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p = 0,02).
Co kéo lồng ngực là triệu chứng của suy hô hấp. Suy hô hấp là một trong những
hội chứng thường gặp ở trẻ sơ sinh. Nguyên nhân gây suy hô hấp có thể do tim
phổi hoặc ngoài tim phổi. Triệu chứng của suy ho hấp là thở nhanh, co kéo, thở
rên và xanh tím(14). Trẻ có thể co kéo liên sườn hoặc co kéo hõm ức. Tỷ lệ tử
vong ở trẻ có triệu chứng co kéo là 26,0% trong khi đó tỷ lệ tử vong ở trẻ không
có triệu chứng co kéo chỉ là 7,5%. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p = 0,02).
Tỷ lệ tử vong do nhiễm trùng huyết sơ sinh trong nghiên cứu này là 18,5%, tương
đương với tỷ lệ tử vong ở các nước phát triển(2), cao hơn kết quả nghiên cứu của
Chacko(4) và thấp hơn tỷ lệ tử vong ở các nước đang phát triển khác(9) có thể do
thời điểm nghiên cứu và tiêu chuẩn chẩn đoán khác nhau.
Tỷ lệ tử vong do nhiễm trùng huyết sơ sinh dao động trong khoảng từ 25% đến

80% trong vài thập niên vừa qua. Mặc dù tỷ lệ tử vong có thể đã giảm trong những
năm gần đây, nhiễm trùng huyết sơ sinh rõ ràng vẫn còn là một bệnh rất nặng.
Việc đánh giá tỷ lệ tử vong còn gặp khó khăn do còn thiếu tiêu chuẩn chẩn đoán
thống nhất(1).
Các yếu tố liên quan tới tử vong do nhiễm trùng huyết sơ sinh
Chúng tôi chỉ khảo sát một số yếu tố dịch tễ học, lâm sàng và cận lâm sàng có thể
có liên quan với tử vong do nhiễm trùng huyết sơ sinh. Kết quả nghiên cứu cho
thấy có 4 yếu tố lâm sàng là rối loạn nhịp tim, rối loạn nhịp thở, co kéo lồng ngực
và phù cứng bì là có liên quan tới tử vong do nhiễm trùng huyết sơ sinh. Các yếu
tố dịch tễ học (phái tính, ngày tuổi, cân nặng lúc sanh, tuổi thai), yếu tố lâm sàng
(rối loạn thân nhịệt, vàng da, hôn mê, co giật, bụng chướng, xuất huyết) và kết quả
xét nghiệm (bạch cầu, tieu cầu, dung tích hồng cầu, CRP) chưa thấy có sự liên hệ
với các trường hợp tử vong. Kết quả này có vài khác biệt với kết quả nghiên cứu
của một số tác giả:
- Theo Mathur và cộng sự, các yếu tố có ý nghĩa tiên lượng tử vong bao gồm: trẻ
nhẹ cân, trẻ sinh non, ngày tuổi nhỏ, hạ thân nhiệt, có sốc, hạ bạch cầu đa nhân
trung tính, toan biến dưỡng và hạ prothrombin máu.(8)
- Theo Gupta và cộng sự(6) thì suy hô hấp, xuất huyết, phù cứng bì, sốc và giảm
bạch cầu hạt là các yếu tố tiên lượng xấu của nhiễm trùng huyết sơ sinh.
- Kết quả nghiên cứu của Trotman cho thấy sinh non, nhẹ cân và phái nữ là những
yếu tố phối hợp với tiên lượng xấu(15)
- Theo Nguyễn Ngọc Rạng và cộng sư(11), các yếu tố liên quan tới tử vong do
nhiễm trùng huyết sơ sinh bao gồm trẻ đẻ non, cân nặng thấp, suy hô hấp, sốc, da
xanh tái, hôn mê hoặc co giật, xuất huyết tiêu hoá, xuất huyết dưới da và chướng
bụng. Đặc biệt triệu chứng phù cứng bì rất thường gặp trong các trường hợp tử
vong. Các dấu hiệu lâm sàng khác như hạ thân nhiệt, sốt cao, vàng da và da nổi
bông không có sự liên hệ với các trường hợp tử vong.
KẾT LUẬN
Kết quả khảo sát mẫu nghiên cứu 130 trường hợp nhiễm trùng huyết sơ sinh điều
trị tại Bệnh Viện Nhi Đồng 1 – TP HCM từ 1/1/2004 đến 1/1/2008 cho thấy:

1. Tỷ số nam/nữ là 3/2, tỷ lệ trẻ trong thời kỳ chu sinh là 70%, tỷ lệ trẻ có cân
nặng lúc sanh dưới 2500g là 55,4%, tỷ lệ trẻ sinh non là 58,5%. Các dấu hiệu lâm
sàng thường gặp nhất là co kéo lồng ngực (59,2%) và vàng da (42,3%). Tỷ lệ trẻ
có rối lọan nhịp tim là 13,8%, rối lọan nhịp thở 31,5%, phù cứng bì 3,1%. Tỷ lệ trẻ
có tăng nồng độ CRP trong máu là 55,4%. Vi khuẩn Gram âm thường gặp hơn vi
khuẩn Gram dương và các vi khuẩn thường gặp nhất là Klebsiella (36,9%),
Staphylococcus (26,9%) và Acinetobacter (10,8%).
2. Tỷ lệ tử vong do nhiễm trùng huyết sơ sinh là 18,5%.
3. Các yếu tố lâm sàng như rối lọan nhịp tim, rối lọan nhịp thở, co kéo lồng ngực
và phù cứng bì có liên quan đến tử vong do nhiễm trùng huyết sơ sinh. Các yếu tố
lâm sàng khác, các yếu tố dịch tễ và cận lâm sàng chưa thấy có mối liên quan với
tử vong do nhiễm trùng huyết sơ sinh.

×