Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

ĐỊA CHẤT DẦU KHÍ KHU VỰC part 3 potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (224.08 KB, 10 trang )

CHƯƠNG 3 – PHÂN BỐ
3.1- Mỹ:
Một trong những nước đứng đầu về dầu mỏ, chiếm khoảng 27% sản lượng
thế giới từ các bồn trầm tích với diện tích khoảng 5,6 triệu km2, đại diện cho
khoảng 15% các bồn thế giới.
Trữ lượng ban đầu của thế giới chính là của Mỹ, đạt đỉnh cao trong nhiều
năm, sau đó không tăng thêm. Nhiều khoáng sàng già cỗi, phát hiện mới hiếm,
giá thành khai thác dầu không ngừng gia tăng.
Sản lượng hiện nay của Mỹ hơn 9/10 xuất phát từ tỉnh dầu lớn Mid
Continent, Gulf Costa, California, Rocky. Sản lượng của Mid 39%, Gulf 33%,
Cali 11%, Rocky 10%.
Hai tỉnh Mid and Gulf thuộc 2 tiểu bang Texas và Louisiana.
Mỹ đứng đầu trữ lượng khí thiên nhiên. sản lượng tăng dần: 1950-178 tỷ
m3/năm, 1965-450 tỷ m3/năm. Tỉnh chính cũng thuộc 2 bang trên.
Tỉnh dầu chính của Mỹ sắp xếp theo thứ tự quan trọng Mid, Gulf, Cali,
Rock, Illinois, Appalachian, Michigân.
* Lịch sử tìm kiếm dầu khí ở Mỹ
Công tác tìm kiếm đầu tiên bắt đầu giữa thế kỷ 19, trong các đới uốn nếp,
dấu hiệu của dãy Appalachian. Đây được coi là nôi của công nghệ dầu mỏ của
Mỹ. Nhờ những chương trình thực hiện ở đây, 1883: lý thuyết nếp lồi được
xác định, thuyết này mở đường cho việc thành lập đại học dầu mỏ; năm 1915:
lý thuyết về tỷ số cacbon được xác định. Những thành công đầu tiên nằm trong
tỉnh dầu Rocky và Cali 1884 và Kansas 1892 và Gulf Costa 1901.
Năm 1900 tỉnh dầu Appalachian vẫn là đới sản xuất quan trọng nhất, sản
lượng hàng năm tối đa 5,8 triệu m3.
Năm 1930 công tác tìm kiếm địa chấn được áp dụng
Khi kiến trúc trên bề mặt bắt đầu cạn, từ năm 1981, ngoài bẫy nếp lồi, tìm
kiếm lần đầu tiên bẫy địa tầng trong vùng Kanssas, từ đó Texas là nơi diễn ra
những thành công tuyệt vời cho đến sau chiến tranh Thế giới thứ 2.
Hiện nay nhịp độ phát hiện dầu giảm rõ rệt, người ta cố gắng tìm kiếm khí
thiên nhiên để thay thế dầu mỏ. Sản lượng giữ vững nhờ vào hệ số thu hồi


ngày càng cao, đồng thời phát hiện thêm những khoáng sàng ở vùng Alaska
(mua của Nga Hoàng).
Việc tăng giá dầu cho phép khai thác cạnh tranh đá bitum.
3.1.1- Tỉnh dầu Mid Continent (39%) thuộc bang Texas
Tương ứng hệ thống gồm các bồn Pz phủ gần 1 triệu km2 ở trung tâm nước
Mỹ. Phát hiện gần 6,2 triệu m3 dầu. Kiểu bồn giữa nền và loại địa tầng tương
21
đối nhỏ bị cắt ngang bởi những bất chỉnh hợp đóng vai trò chính trong hoạt
động trữ dầu.
Tầng sản phẩm của Pz trải từ Cambri đến Permi với các bồn lớn Mac Elest,
Chero Kee nằm phía Đông Bắc với sản phẩm nằm trong cát và nêm vát về phía
Đông dựa vào dãy núi thấp Ozark.
Các nếp uốn Nemaha với khoáng sàng già cỗi tương ứng với nếp lồi nổi
cùng các bất chỉnh hợp. Khoáng sàng quan trọng nhất là ở Oklahoma City
Bồn Pecmi (Tây Texas) diện tích khoảng 300.000 km2 cung cấp ¼ sản
lượng của nước Mỹ. Là bồn bất chỉnh hợp bị phân chia ở phần trung tâm bởi
nền trung tâm tuổi Pz dưới, chia cắt bồn thành 2 phần: Midland phía Đông và
Dalaware phía Tây. Ở đới cao trung tâm hệ Pecmi nằm trên loạt Pz cổ hơn bị
xói mòn rìa Bắc và Đông hình thành vùng đáy nông phát triển tuổi Pecmi
dưới. Những thành hệ ám tiêu dày bị uốn nếp thành những nếp lồi rộng tạo
một trong những tầng chứa quan trọng nhất của tỉnh dầu này. Tầng chứa này bị
phủ bởi loạt muối cách nước .
3.1.2- Tỉnh dầu Gulf Costa (33%) Bang Louisiana
Sản xuất và chứa 1/3 dầu mỏ của Mỹ, tương ứng với một bồn đơn nghiêng
rộng lớn tuổi Mz và Đệ Tam.
Có những vòm muối che phủ 3,5 triệu km2 chìm dần phía Nam và Đông
Nam, kéo dài về phía Vịnh Mehicô. Tầng chứa đa số là trầm tích vụn nằm rải
rác trong toàn bộ loạt địa tầng từ Jura trên ở rìa bồn đến Pliocen trong các khu
vực biển và bờ biển. Trong một vùng ít chịu tác động của kiến tạo, bẫy tạo nên
do các vòm muối, phay và những uốn nếp nhẹ cũng như nhân tố địa tầng.

Khoáng sàn quan trọng nhất Tây Texas là một bẫy địa tầng trong thống K
trên.
Từ 1946, công tác tìm kiếm tiếp tục trên biển trên diện tích khoảng
355.000km2. Xấp xỉ 150 vỉa sản phẩm ở ngoài khơi của bang Louisiana với
400 tỷ m3 khí và 300-400 tỷ m3 dầu.
3.1.3 Tỉnh dầu Rocky Mountain (10%)
Tương ứng một loạt các bồn bất chỉnh hợp Pz như Williston (phía Bắc)
hoặc các bồn giữa núi Mz (Big Horn, Powfer River, Wind River, Green River,
Denver, San Jaoquin)
Bẫy chủ yếu là bẫy kiến tạo, sản phẩm trong cát kết và đá vôi Carbon-
Permi
3.1.4 Tỉnh dầu California (11%)
Được tạo thành bởi những bồn Neogen nhỏ nằm trong số các tỉnh dầu giầu
nhất thế giới. Trong vùng thung lũng San Joaquin phát hiện khoáng sàn
22
Midway Sunset, Los Angeles diện tích 3.000 km2 với khoáng sàn Williston,
Long Beach, bồn Hustinton Beach, bồn Santa Febring tất cả đều có sản phẩm
nằm trong cát Pliocen bị uốn nếp thành vòm hoặc những nếp lồi.
3.2- Canada:
Đứng thứ 9 trong các nước sản xuất dầu với sản lượng tăng dần 1964- 37,5
triệu tấn dầu thô (Tây Canada)
* Lịch sử thăm dò
Công tác thăm dò dầu mỏ của Tây Canada là một gương vượt khó nhờ vào
kiên trì bề bỉ. Tuy phát hiện đá phiến từ 1914 nhưng đến 1947, sau 20 năm cố
gắng và thực hiện 133 lỗ khoan thất bại thì mới thực sự mở ra một tỉnh dầu lớn
với việc phát hiện vỉa dầu Le Dune. Từ thành công này, từ 1953 phát hiện các
vỉa trong cát kết K, hướng tìm kiếm ở phía Bắc của Tây Canada với những bồn
trầm tích có triển vọng lớn về dầu khí .
3.2.1- Tỉnh dầu miền Tây Canada
Là một tỉnh dầu rộng lớn, hơn 1 triệu km2 ứng với một bồn Pz và Mz. Kiểu

bồn địa máng hoặc lõm sâu ở chân dãy núi Rocky nâng cao đều về phía Đông
nằm trên và xuất hiện ở tiền Cambri.
Dầu phân bố khoảng 1/2 trong hệ Devon và 40% nằm trong K trên, phát
triển tăng trong K hạ, bậc Mississipi.
Khoáng sàng Devon chủ yếu nằm thành hàng theo dãy Bắc Nam tương ứng
với nếp lồi nhỏ của nền trên đó có các ám tiêu phát triển.
Vỉa đầu tiên phát hiện 1947 ở Tây Canada, thuộc một hàng thẳng ám tiêu
bao gồm 4 khoáng sàn, sản lượng hàng năm 2,5 triệu m3.
Khoáng sàng K phát hiện 1953, là một bẫy địa tầng rất rộng trải ra 1.250
km2 với 3 tầng cát K trên.
Ngoài dầu và khí thiên nhiên, Canada còn chứa nguồn quan trọng Asphalt.
3.3- Venezuela (Mỹ latin)
* Lịch sử thăm dò
Công tác tìm kiếm bắt đầu 1890 nhưng do khoa học kỹ thuật kém nên năm
1914 mới phát hiện dầu ở bồn Maracaibo.
1928 tìm được ở bồn phía Đông, trải qua những thời kỳ đáng thất vọng do
tính đơn nghiêng của suờn phía Nam là một chướng ngại cho công việc tìm
kiếm và tồn tại của một hệ thống phay và tạo bẫy phay chỉ được biết đến 1937.
Những hãng khai thác dầu cũng nếm mùi thất vọng ở khu vực này.
23
Sản lượng khai thác phát triển đáng kể sau CTTG2, khí thiên nhiên được
đánh giá khoảng 1.000 tỷ m3 với 3/5 sản lượng này được sử dụng, còn lại bị
đốt bỏ
Các khoáng sàn đại diện cho 85% sản lượng Nam Mỹ và 12% sản lượng
Thế giới.
Venezuela cũng có những trữ lượng cát asphalt quan trọng (tar sand)
Diện tích các bồn trầm tích khoảng 1,1 triệu km2 với hơn ¾ dầu được phát
hiện thuộc bồn Maracaibo, phần lớn còn lại thuộc phía Đông.
Bồn Maracaibo là một bồn trũng ở vùng địa máng trải rộng khoảng
560.000 km2 từ phía Tây Bắc Venezuela xung quanh hồ Maracaibo, được lấp

đầy bởi các trầm tích K và Đệ Tam tướng ven biển. Dầu chủ yếu gặp trong cát
kết biển tiến Eocen. Gần đây phát hiện dầu trong cát kết K.
Bồn phía Đông: thuộc địa máng phủ 128.000 km2, sản lượng chủ yếu từ
cát Oligocen trên ở sườn phía Nam và Neogen ở phía Bắc. Trên rìa phía Nam
tăng sự chìm xuống của phần nền Giana. Bẫy đa số tạo nên bởi hai hệ thống
phay làm cánh phía Nam thấp xuống.
24
CHƯƠNG 4 – DẦU KHÍ ĐÔNG NAM Á
4.1 - Đặc điểm kiến tạo khu vực
Cấu trúc Đông Nam Á gồm nhiều vi mảng nằm kẹp giữa 3 mảng lớn: các
mảng Âu-Á, Ấn-Úc và Thái Bình Dương. Cường độ hoạt động của các mảng
này còn khá mạnh.
Thềm lục địa Nam Việt Nam, vùng kế cận hợp thành kiến trúc vỏ lục địa ->
mảng Kontum – Borneo được gắn kết từ Mz - đầu Đệ Tam. Song song sự mở
rộng của biển Đông vùng vỏ lục địa chuyển tiếp đại dương tạo thành khung
kiến tạo chung cho ĐôngNam Á với sự tách và va chạm giữa các mảng Âu –
Á, Ấn – Úc chạm vào mảng Thái Bình Dương được phản ánh trong lịch sử
phát triển của khối vỏ lục địa Kon Tum – Borneo từ sau Triat.
Sự nhấn chìm của mảng đại dương (Ấn Độ Dương, Thái Bình Dương) nằm
bên dưới lục địa dẫn đến phá vỡ tách giãn, lún chìm của lục địa Âu – Á tạo ra
rìa Biển Đông và Thềm lục địa rộng lớn Nam Việt Nam và Sunda hình thành
đai tạo núi lửa uốn nếp trẻ và các đảo núi lửa. Bên trong mảng Kon Tum –
Borneo xảy ra hoạt động gia tăng nhiệt độ ở các khu vực, dọc các đứt gãy lớn
phát triển hoạt động xâm nhập của magma granitoit, các phun trào núi lửa axít
và kiềm, kể cả bazan lục địa.
Các chuyển động phân dị đi kèm rift tách giãn tạo các bồn trũng cuối Mz -
đầu Paleogen, dần mở rộng và phát triển thành các bể trầm tích có tiềm năng
dầu khí trên thềm lục địa Việt Nam.
Những va chạm giữa các mảng gây nên 4 giai đoạn kiến tạo lớn Mz – Kz.
Trong mảng Kon Tum – Borneo được ghi nhận vào cuối Triat ở Indo, J ở

Malay, cuối K ở Sumatra.
4.2 – Các bồn trũng Đệ Tam
Hầu như tất cả các bể trầm tích Đệ Tam chứa dầu khí ở Đông Nam Á được
hình thành gắn liền với hoạt động kiến tạo mảng giai đoạn Đệ Tam.
Trên 70 bể chứa dầu khí ở Đông Nam Á đều nằm trên rìa nội mảng, ở phía
Tây kéo dài từ Bắc Thái Lan xuống Vịnh Malay đến biển Tây Natuna, ở phía
Đông là toàn thềm lục địa Việt Nam, chúng phân bố liền kề hoặc ở nơi giao
nhau của các đới khâu hay đứt gãy lớn xuyên cắt vùng rìa Nam của mảng Âu-
Á vào Đệ Tam.
Môi trường trầm tích và quy luật phân bố dầu khí trong các bể Đệ Tam
được khống chế bởi hai yếu tố: chuyển động kiến tạo của các vi mảng nội lục
và sự giao động có tính chu kỳ của mực nước biển. Sự giao động của mực nước
đại dương đặc biệt vào Oligocen – Miocen, đóng vai trò quan trọng trong sự
phân bố tướng trầm tích và đặc tính hệ thống dầu khí.
4.2.1- Bồn nội địa (Craton)
25
Bị khống chế bởi các đứt gãy thường song song với lục địa. Các giai đoạn
kiến tạo như sau:
+ Đầu tiên là giai đoạn tách giãn với các đứt gãy tạo nên đới này và sụt
lún. Vật liệu đới nâng cung cấp cho các địa hào trầm tích sông hồ, delta có liên
quan đến lục địa. Vật chất hữu cơ có nguồn gốc thực vật cấp cao (kerogen III).
Ở vùng hồ do điều kiện lắng đọng yên tĩnh tạo ra Kerogen I. Nguồn vật liệu
sét liên quan vỉa than. Các vật liệu sapropentit tạo nên dầu khí xen kẽ nhau
nhưng khí là cơ bản, có liên quan đến tuổi Eocen – Oligocen.
+ Giai đoạn sụp lún tương đối đồng đều (giai đoạn oằn võng) hoạt động
của các đứt gãy trở nên yếu hơn liên quan Miocen tạo hoạt động biển tiến. Các
trầm tích từ delta chuyển tiếp đến trầm tích biển nông hình thành phong phú đá
trầm tích cacbonat. Giai đoạn này xuất hiện các bẫy cấu tạo tích tụ dầu ở
Miocen là phổ biến. Kết thúc Miocen là sự nâng lên tạo bề mặt bóc mòn.
+ Giai đoạn tạo thềm lục địa với hoạt động biển tiến, bồn lục địa có xu

hướng chìm dần về phía biển, thế nằm tương đối thoải. Trong giai đoạn này
không có sự nâng lên và hoạt động đứt gãy.
Các bồn tiêu biểu: Bồn Bắc bộ, Sông Hồng, Cửu Long, Vịnh Thái Lan, đảo
Kalimantan.
4.2.2- Bồn biển ven :
Nằm một phần trên lục địa, một phần ở vỏ đại dương, nhưng ranh giới này
không rõ ràng. Vật liệu cơ bản là trầm tích lục nguyên, càng về biển tăng dần
vai trò của cacbonat .
Bồn biển Đông (bồn á đại dương) với 2 ranh giới
+ phía tây: ranh giới thụ động nằm giữa mảng
+ phía đông: ranh giới tích cực thường kèm theo các hố đại dương .
Thường là ranh giới kiểu Thái Bình Dương.
Có sự chuyển tiếp dần từ ranh giới lục địa sang vỏ đại dương có nguồn
cung cấp vật liệu từ lục địa, không có hướng ngược lại. Vai trò của cacbonat
tăng dần về biển
+ phía tây: vật liệu cơ bản là lục nguyên
+ phía đông : vật liệu cơ bản là cacbonat
Tiêu biểu:
Bồn Châu Giang (TQ), Cát Hải, Hoàng Sa, Hải Nam, Phú Khánh, Nam
Côn Sơn, Brunei, Balanan.
Trong khu vực:
+ Bồn phía Tây vẫn chưa phát hiện Hydrocacbon
+ Bồn phía Đông cho phát hiện dầu trong cacbonat (balanan: cung cấp
dầu khí chủ yếu cho Philippin). Thuộc khu vực này cũng phát hiện các bồn
biển ven tương tự.
26
4.2.3- Bồn sau cung
Gồm các bồn thung lũng sông Inrawady, dầu nằm trong những nếp uốn kéo
theo phương đứt gãy .
Tiêu biểu: Bồn Bắc Sumatra Thuộc những mỏ dầu nằm

Bồn Tây Sumatra trên phần tiếp giáp lục địa
Bồn Nam Sumatra và biển khơi
Bồn Java: bồn không xác định, một bên dựa vào lục địa,
một bên dựa vào núi lửa, vật liệu trầm tích là vật liệu núi
lửa.
4.2.4- Bồn trước cung
Gồm bồn Mertawai, Sauru, Tolo và những bồn khác thuộc Philippin
Phía Nam những bồn này phân bố rất giàu ở Philippin: những bồn này bị
ngắt quãng do sự ghép nối cung đảo ở những thời kỳ khác nhau (Khoảng 4
thời kỳ) bề dày trầm tích lớn hơn 3.000 m. Vật liệu lục nguyên.
27
CHƯƠNG 5 – DẦU KHÍ VIỆT NAM
5.1- Bồn Cửu Long : 3 thời kỳ
5.1.1- Jurasic – Kretasic: thời kỳ tạo rift và tách giãn sụp lún phân dị cùng các
đứt gãy lớn nằm trong mảng Kon Tum – Borneo hình thành trũng, xuất hiện ở
Phú Quốc và vịnh Thái Lan, kèm magma xâm nhập granitoit và phun trào axít
dạng rhyolit, andezit, bazan. Các hoạt động nhiệt dịch , các chuyển động kèm
theo các nút co trong magma tạo các khe nứt đồng sinh được lấp đầy bởi
khoáng zeolit và calcit cũng như tạo hang hốc cùng nhau.
5.1.2- Eocene – Oligocene sớm : thời kỳ phát triển của rift với các thành hệ lục
địa gồm các trầm tích molas phủ bất chỉnh hợp trên các trầm tích Mz ở khu
vực trung tâm của bồn trũng hoặc trong các đá cổ hơn ở ven rìa.
Sự chuyển động dâng lên mạnh ở khối nâng và quá trình phân hoá xảy ra
đầu Paleogen tạo lớp phân hóa có chiều dày khác nhau. Đỉnh các khối nâng
granit tạo điều kiện thuận lợi để tích tụ hydrocacbon và cũng là tầng sản phẩm
quan trọng phát hiện và khai thác ở Việt Nam.
5.1.3- Oligocene - Đệ Tứ: Thời kỳ mở rộng các vùng do sự lún chìm ở khu vực
rìa Nam Địa khối Kon Tum – Borneo liên quan trực tiếp với sự mở rộng
Biển Đông. Trầm tích biển lan rộng dần từ Đông sang Tây, với các dữ
liệu ĐVL giếng khoan và công tác khoan , đã nhận thấy địa tầng Đệ

Tam sớm phát triển có tuổi Oligocen, các trầm tích molas tuổi Eocene,
sớm hơn nữa thì phía biển ở các địa hào trung tâm, ở đây có chiều dày
trầm tích đạt 8-10 km. Sự va chạm các mảng cuối Oligocen gây hoạt
động biển lùi và bất chỉnh hợp khu vực giữa phức hệ Oligocen và các
trầm tích phủ lên nó. Cùng với các chuyển động khối theo đứt gãy, kiến
tạo móng trước Đệ Tam tạo các cấu tạo địa phương. Các trầm tích sét
cuối Oligocen thành lớp chắn quan trọng phủ lên trên các bẫy chứa dầu
Oligocen và móng trẻ Đệ Tam.
- Thời kỳ Miocene: bắt đầu bằng đợt biển tiến ngắn vào đầu Miocen sớm,
kết thúc bằng bất chỉnh hợp khu vực và sự gián đoạn trầm tích ở Miocen
trung. Như vậy diện tích của các bồn trũng tiến triển theo thời kỳ
chuyển động của mực nước biển. Thành phần sét biển chiếm ưu thế .
Như vậy, trong thời kỳ này, giai đoạn kiến tạo Oligocen – Miocen hoàn
toàn bị san phẳng do không còn các chuyển động phân dị trên các đới
cấu tạo.
Quy luật phân đới cấu tạo cũng như thành phần phủ trên Kz trong móng
các bồn trũng Đệ Tam bị khống chế bởi chuyển động của móng và các đứt gãy
cổ xuyên qua móng tiếp tục hoạt động trở lại. Các chuyển động khối đứt gãy
và cấu tạo địa phương chủ yếu vào Oligocen - Miocen sớm và yếu dần Miocen
giữa, mất hẳn ở Miocen muộn.
Bồn trũng Cửu Long có bề dày trầm tích Kz lấp đầy bồn trũng khá sớm,
trung tâm bồn lớn hơn 8km, được phát sinh và phát triển trên vỏ lục địa và
được hình thành trong các giai đoạn kiến tạo khác nhau.
28
5.2- So sánh Bồn trũng Cửu Long và Bồn trũng Nam Côn Sơn
Đặc điểm Trũng Cửu long Trũng Nam Côn Sơn
Kiểu bể
Bể căng giãn nội lục sau cung,
bể kiểu rift nội lục điển hình
chịu ảnh hưởng cơ chế trồi của

địa khối Kon Tum do hoạt động
của các đứt gãy trượt bằng lớn
như Sông Hồng, Sông Hậu.
Giai đoạn căng giãn kéo dài từ
Eocen đến Oligocen.
Bể căng giãn dạng rift rìa lục
địa, hình thành trong Eocen –
Oligocen và chịu tác động của
căng giãn đáy Biển Đông. Giai
đoạn căng giãn chính kéo dài
trong Oligocen.
Trầm tích
Thời kỳ đầu là trầm tích aluvi,
về sau là trầm tích đồng bằng
ven bờ và hồ. Từ Miocen sớm
đến nay chịu ảnh hưởng của
môi trường biển
Trầm tích aluvi, sông và hồ,
sông và đồng bằng ven biển và
biển nông. Từ Miocen sớm
đến nay trầm tích chủ yếu
mang tướng biển.
Đá mẹ
Tầng đá mẹ là các đá sét, sét
kết, sét bột kết Oligocen-Eocen
Đá mẹ là sét than, sét bột
Oligocen và trầm tích sét bột
Miocen sớm
Đá chứa
Đá móng nứt nẻ trước

Kainozoi, cát kết Oligocen,
Miocen dưới, đá phun trào
Paleogen
Đá chứa là móng phong hóa
nứt nẻ Mesozoi; cát kết
Oligocen – Miocen và Pliocen
sớm; carbonat Miocen giữa và
muộn.
Đá chắn
Là tầng sét Rotalid Miocen
sớm; các tầng chắn địa phương
là sét, sét bột trong Oligocen
dưới, trên và Miocen dưới.
Đá chắn địa phương là các
tầng trầm tích hạt mịn nằm xen
kẽ trong các phức hệ trầm tích
có tuổi khác nhau, đá chắn khu
vực là tầng sét dày, trải rộng
tuổi Pliocen sớm.
Các bẫy
dầu khí
Bẫy dầu khí là các dạng kế thừa
móng, màn chắn kiến tạo, bẫy
hỗn hợp địa tầng và màn chắn
kiến tạo, bẫy khối móng nứt nẻ,
bẫy phi cấu tạo.
Bẫy dầu khí rất đa dạng: khối
đứt gãy nứt nẻ, vòm kề đứt
gãy, nếp lồi cuốn, cấu tạo - địa
tầng, khối xây carbonat, thấu

kính cát …
Dầu – khí
Là bể trầm tích lớn chứa chủ
yếu là dầu, gần 70% tập trung ở
móng nứt nẻ trước Kainozoi,
18% trong Oligocen, 11% trong
Miocen
Là một bể lớn chứa chủ yếu là
khí
29
30

×