Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (89.78 KB, 2 trang )
Giãn phế quản kèm khạc ra máu
(Trích trong ‘Thiên Gia Diệu Phương’ của Lý Văn Lượng, Trung Quốc)
Biện chứng đông y: Phế táo nhiệt, can hỏa cang thịnh, đốt hỏng phế lạc, bức huyết vọng
hành.
Cách trị: Bình can thanh phế, sinh lạc chỉ huyết.
Đơn thuốc: Phức phương thanh phế chỉ lạc thang.
Công thức: Tang diệp, Tang bì mối thứ 9g, Địa cốt bì 15g, Sinh cam thảo 9g, Sinh địa
15g, Địa du 15g, Tì bà diệp 12g (bao), Chích tử uyển 15g, Hoàng cầm 9g, Đại cáp tán
15g (bao).
Sắc uống mỗi ngày 1 thang.
Hiệu quả lâm sàng: Chu XX, nữ, 26 tuổi, công nhân. Sơ chẩn ngày 10-7-1975. Tháng 9
nǎm trước bệnh nhân bắt đầu khạc máu, đã chẩn đoán khạc máu do giãn phế quản. Sau
đó tháng 3 nǎm nay lại ho có đờm lẫn máu, sắc máu đỏ tươi, có lẫn đen tía. Đến lúc này
đã hơn 3 tháng. Mấy ngày gần đây đau ngực, sườn cǎng, nóng nảy dễ gắt gỏng, lưng đau
ê ẩm, kinh nguyệt trước kỳ, trứơc kinh đau bụng, mũi khô miệng táo thích uống. Chất
lưỡi đỏ, rêu lưỡi mỏng bẩn, mạch huyền tế sác. Cho dùng “Phức phương thanh phế chỉ
lạc thang”. Uống được 6 thang, trong đờm đã bớt lẫn máu. Vẫn đau tức ngực mỏ ác, đau
mỏi lưng. Cho bài trên thêm Uất kim 9g, tiếp tục uống 6 thang nữa hết hẳn khạc máu,
trong đờm cũng hết máu, bệnh nhân rất mừng. Nhưng vẫn chưa hết khó chịu trong ngực.
Uống tiếp bài thuốc trên bỏ Hoàng cầm, Đại cáp tán, thêm Chỉ xác 9g, để củng cố kết quả
khỏi bệnh.
Bàn luận: Bệnh nhân này giãn phế quản khạc máu, thời gian bệnh tuy chưa đầy 1 nǎm,
nhưng 3 tháng nay khái huyết liên miên không ngừng, tinh thần sa sút nặng. Bệnh nhân
vốn can vượng phế nhiệt, do khạc máu lâu ngày không khỏi, phế âm đã hư mà can hỏa
càng vượng, bệnh tình có xu thế phát triển. Trừ chứng cáu gắt là do cang hỏa cang thịnh,
mũi táo khái huyết thuộc phế nhiệt âm hư, còn đau mỏi lưng, là phế ẩm tổn hại, dẫn đến
thận âm cũng hư, gọi là “Phế thận đồng nguyên”. Do vậy mà ngoài việc sử dụng Tả bạch
tán để thanh phế, Đại cáp tán để bình can, Tì bà diệp, Tử uyển, Hoàng cầm, Địa du để túc
phế, thanh nhiệt chỉ huyết. Dùng Sinh địa để tư thận lương huyết. Sau đó máu cầm dần,
tức ngực chưa hết tǎng Uất kim, Chỉ xác để sơ can giải uất, cuối cùng đạt được kết quả lý
tưởng.