Vấn đề 8: Nội dung Cương lĩnh dân tộc của Lênin và
đường lối, chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ta ngày
nay.
BÀI LÀM
Vấn đề dân tộc là một vấn đề có ý nghĩa chiến lược của
cách mạng XHCN và hiện nay cũng đang là một vấn đề thực
tiễn nóng bỏng. Hàng ngày, hàng giờ qua các phương tiện
thông tin đại chúng, chúng ta luôn được nghe, được thấy các
cuộc chiến tranh đã, đang và nhiều nơi trên thế giới có nguy
cơ xảy ra chiến tranh giữa các dân tộc, sắc tộc. Những vấn
đề về chiến tranh dân tộc đang đặt ra trên thế giới đòi hỏi phải
được giải quyết một cách đúng đắn và thận trọng. Thế giới đã
có những giải pháp khác nhau từ đàm phán chính trị đến
quân sự… nhưng nó chỉ có thể tạm lắng xuống vào từng thời
điểm và luôn có nguy cơ bùng nổ trở lại. Sở dĩ như vậy là vì
các giải pháp đưa ra không hoàn chỉnh, triệt để, thậm chí chỉ
là những mưu lược để “nén” vấn đề dân tộc lại. Để giải quyết
tốt vấn đề dân tộc, cần hiểu rõ vấn đề dân tộc và mối quan hệ
giữa các dân tộc cần giải quyết ra sao, qua đó xác định được
tầm quan trọng của việc giải quyết vấn đề dân tộc, xác định
xu hướng khách quan của sự phát triển dân tộc và từ đó đề
ra phương hướng giải quyết tốt nhất, triệt để nhất. Điều đó chỉ
có thể thực hiện được trên cơ sở nghiên cứu và vận dụng các
quan điểm khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác-Lênin
về vấn đề dân tộc .
1. Nội dung Cương lĩnh dân tộc của Lênin
Trước tiên, dân tộc là một cộng đồng người ổn định, được
hình thành và phát triển trong lịch sử, sống trên cùng một lãnh
thổ nhất định, có chung một mối quan hệ về kinh tế, ngôn
ngữ, văn hóa, tâm lý. Đặc trưng chung cơ bản và quan trọng
nhất của một dân tộc là có chung một phương thức sinh hoạt
kinh tế - đây là cơ sở nền tảng cho sự vững chắc của cộng
đồng dân tộc.
Trên thế giới, sự hình thành của các cộng đồng dân tộc
diễn ra không đồng đều. Ở Châu Âu, dân tộc ra đời gắn liền
với sự ra đời và phát triển của CNTB; còn ở châu Á, trước khi
CNTB thâm nhập, do trong quá trình đấu tranh chống giặc
ngoại xâm và thiên nhiên để sinh tồn, các cộng đồng người
kết hợp lại với nhau hình thành một quốc gia độc lập, vì thế
dân tộc được ra đời sớm hơn khi CNTB hình thành.
Từ khi dân tộc ra đời, vấn đề dân tộc luôn luôn được đặt
ra và thu hút sự chú ý của mọi giai cấp và tầng lớp xã hội
quan tâm. Nội dung của vấn đề dân tộc, trước tiên là quan hệ
giữa các tộc người trong một xã hội nằm trong khuôn khổ một
quốc gia dân tộc về các lĩnh vực: kinh tế, xã hội, văn hóa,
ngôn ngữ… và những vấn đề này thường kết hợp với những
lợi ích giai cấp, nên các phong trào dân tộc đều mang tính
giai cấp sâu sắc. Ngày nay, tình hình dân tộc trên thế giới
diễn biến rất phức tạp, đa dạng và gay gắt, giảii quyết vấn đề
này ở từng lúc, từng nơi có khi phải bằng vũ trang quân sự.
Giải quyết vấn đề dân tộc là một trong những vấn đề quyết
định đến sự ổn định, phát triển hay khủng hoảng, tan rã của
một quốc gia dân tộc, như ở Tiệp Khắc cũ, Liên Xô cũ, Nam
Tư cũ, Inđônêsia hay vấn đề ở Đông Timor Vấn đề dân tộc
còn đề cập đến quan hệ giữa các quốc gia dân tộc và sự phát
triển của thế giới nói chung với tư cách là công đồng quốc tế
của các dân tộc.
Vấn đề dân tộc luôn gắn với tính giai cấp và mỗi giai cấp
đều xuất phát từ lợi ích của giai cấp mình trong quan niệm và
tham gia phong trào dân tộc. Đối với các nước XHCN thì bao
giờ quan hệ dân tộc và quan hệ giai cấp cũng gắn bó với
nhau, giải quyết vấn đề dân tộc chính là giải quyết vấn đề giai
cấp và ngược lại. Còn đối với các nước TBCN thì giai cấp
thống trị luôn lợi dụng vấn đề dân tộc để phục vụ cho lợi ích
của giai cấp thống trị, vì thế quan hệ dân tộc và quan hệ giai
cấp tách rời nhau, lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp tách rời
nhau.
Khi nghiên cứu vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc trong
điều kiện của CNTB, Lênin đã phát hiện ra hai xu hướng
khách quan trong phong trào dân tộc. Một là xu hướng phân
lập, do sự thức tỉnh, trưởng thành của ý thức dân tộc mà các
cộng đồng dân cư muốn tách ra thành lập quốc gia dân tộc
độc lập. Hai là xu hứơng liên hiệp giữa các dân tộc lại với
nhau, do sự phát triển của LLSX, của khoa học và công nghệ.
Ngày nay, các dân tộc có xu hướng liên kết, hợp tác với nhau
trong quan hệ thị trường mở rộng dựa trên nguyên tắc tự
nguyện, bình đẳng và cùng có lợi (Ví dụ như thị trường chung
châu Âu, châu Á (ASEAN)…). Tuy nhiên, hai xu thế này là
một thể thống nhất, mỗi nước đều có chủ quyền độc lập,
quyền tự chủ, tự quyết nhằm xây dựng quốc gia dân tộc mình
phồn vinh, công bằng, văn minh bên cạnh sự hòa nhập cộng
đồng quốc tế. Hiện nay, vấn đề dân tộc, giai cấp đã trở thành
một vấn đề vừa có tính quốc gia, vừa có tính quốc tế, vừa có
tính thời sự vừa có tính lâu dài.
Dựa trên sự phân tích hai xu hướng khách quan của
phong trào dân tộc và dựa trên sự tổng kết kinh nghiệm
phong trào cách mạng thế giới trong việc gỉai quyết vấn đề
dân tộc, Lênin đã đưa ra Cương lĩnh Dân tộc với 3 vấn đề
chính bao gồm :
- Một là các dân tộc hoàn toàn bình đẳng: Quyền bình
đẳng của các dân tộc là quyền thiêng liêng, không phân biệt
dân tộc đông người hay ít người, lớn hay nhỏ, trình độ phát
triển cao hay thấp, không phân biệt chủng tộc, màu da….
Nghĩa là tất cả đều có nghĩa vụ và quyền lợi ngang nhau.
Thực chất của bình đẳng dân tộc là xóa bỏ sự nô dịch của
dân tộc này đối với dân tộc khác. Từng bước xóa bỏ sự
chênh lệch về trình độ phát triển giữa các dân tộc. Bình đẳng
phải được thực hiện trên tất cả các mặt: kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội…. Trong một quốc gia có nhiều dân tộc, quyền
bình đẳng giữa các dân tộc phải được pháp luật bảo vệ và
phải được thể hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trên phạm vi giữa các quốc gia, đấu tranh cho quyền bình
đẳng dân tộc trong giai đoạn hiện nay phải gắn với cuộc đấu
tranh chống phân biệt chủng tộc, chống chủ nghĩa sôvanh
(nước lớn bắt nạt nước bé), chống sự áp bức, bóc lột của các
nước tư bản phát triển đối với các nước chậm phát triển về
kinh tế.
- Hai là các dân tộc được quyền tự quyết: là quyền làm
chủ của mỗi dân tộc đối với vận mệnh của dân tộc mình,
quyền tự quyết định chế độ chính trị xã hội và con đường
phát triển riêng không bị lệ thuộc vào bên ngoài. Đây cũng là
quyền thiêng liêng cơ bản của mỗi dân tộc. Bao gồm: Quyền
tự do độc lập về chính trị, quyền thành lập một quốc gia dân
tộc độc lập vì lợi ích của các dân tộc chứ không phải xuất
phát từ mưu đồ lợi ích của một nhóm người nào đó. Và quyền
tự nguyện liên hiệp với các dân tộc khác trên cơ sở bình đẳng
cùng có lợi để có đủ sức mạnh chống nguy cơ xâm lược từ
bên ngoài, giữ vững độc lập chủ quyền quốc gia dân tộc. Khi
xem xét quyền tự quyết của dân tộc cần phải đứng trên lập
trường giai cấp công nhân, kiên quyết đấu tranh chống âm
mưu thủ đoạn, lợi dụng chiêu bài dân tộc tự quyết để can
thiệp vũ trang và áp bức các dân tộc khác.
- Ba là liên hiệp công nhân giữa các dân tộc: đó là sự
đoàn kết của giai cấp công nhân các dân tộc trên toàn thế
giới để đấu tranh chống lại chủ nghĩa đế quốc và các thế lực
thù địch, nhằm hoàn thành sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân. Đó là tư tưởng cơ bản trong Cương lĩnh, nó phản ánh
bản chất quốc tế của phong trào công nhân. Điều đó xuất
phát từ bản chất quốc tế, tinh thần quốc tế vô sản của giai
cấp công nhân giải phóng dân tộc mình và giải phóng các dân
tộc khác cùng cảnh ngộ; do chủ nghĩa đế quốc, giai cấp tư
sản trong các nước tư bản cấu kết nhau, bắt tay nhau chống
lại phong trào công nhân, phong trào cách mạng. Vì vậy, giai
cấp công nhân phải đoàn kết liên hiệp lại với nhau để đấu
tranh chống lại chúng. Vì vậy đoàn kết giai cấp công nhân
giữa các quốc gia dân tộc là nhân tố quan trọng để giải quyết
các vấn đề dân tộc .
Cả ba nội dung trên đều quan trọng, khi vận dụng cần
sáng tạo không được xem nhẹ vấn đề nào. Thực tiễn cách
mạng trên thế giới trong thời gian qua đã chứng minh được
tính đúng đắn, khoa học, cách mạng của Cương lĩnh. Những
nơi nào, thời điểm nào quốc gia nào vận dụng đúng đem lại
thành quả hết sức to lớn, ngược lại khi vận dụng sai hoặc bóp
méo lý luận dẫn đến thất bại, trì trệ thậm chí bị tan rã, sụp đổ
….
Nhìn chung, Cương lĩnh dân tộc của Lênin đã có những
tác dụng tích cực cho các nước trong tiến trình cách mạng
XHCN. Đó là cơ sở cho đoàn kết công nhân quốc tế và phong
trào giải phóng dân tộc; đoàn kết giai cấp công nhân gắn với
phong trào giải phóng dân tộc giúp cho các nước bị thực dân,
đế quốc xâm lược có lối thoát trên cơ sở đó tạo điều kiện cho
cách mạng vô sản ở các nước sớm nổ ra. Đồng thời, cương
lĩnh còn giúp cho các nước khi giai cấp công nhân và nhân
dân lao động giành được chính quyền, cải tạo xã hội cũ, xây
dựng xã hội mới thực hiện chính sách dân tộc phù hợp với
cương lĩnh mà Lênin đã nêu ra.
Sự vận dụng cương lĩnh Lênin ở các nước XHCN trước
đây đã tạo nên nhiều thành tựu trong việc giải quyết vấn đề
dân tộc. Tình trạng người bóc lột người bị thủ tiêu, tình trạnh
dân tộc này áp bức dân tộc khác dần bị xóa bỏ, nhiều dân tộc
bỏ qua trình độ lạc hậu tiến lên CNXH. Tuy nhiên, cùng với
những thành tựu lại phạm phải những sai lầm thiếu sót trầm
trọng gây hậu quả tiêu cực nghiêm trọng buộâc một số nước
phải trả giá đắt. Song hiện nay ở một số nước XHCN, các
quan điểm của Lênin về vấn đề dân tộc đã và đang phục hồi
phát triển.
2. Vấn đề dân tộc trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở
nước ta hiện nay.
Trên quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, đặc biệt là vận
dụng Cương lĩnh dân tộc của Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
về cách mạng giải phóng dân tộc, xuất phát từ thực tiễn lịch
sử đấu tranh xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của dân tộc Việt
Nam, Đảng và Nhà nước ta ngay từ khi thành lập đã xem vấn
đề dân tộc và xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc có tầm
quan trọng hàng đầu.
Việt Nam là một quốc gia độc lập, một quốc gia đa sắc
tộc, với 54 dân tộc anh em cùng sống trên lãnh thổ Việt Nam.
Trong đó dân tộc Kinh chiếm khoảng 87% trong tổng số dân
cả nước. Trình độ phát triển về văn hóa xã hội giữa các dân
tộc có sự chênh lệch nhau. Đời sống kinh tế từng vùng khác
nhau rất xa, từ đó dẫn đến đời sống văn hóa, xã hội, chính trị
… có sự cách biệt. Tuy nhiên do đặc thù về địa lý, nên các tộc
người Việt Nam đã sớm đoàn kết lại, hợp thành sức mạnh để
chống đỡ, khắc phục thiên nhiên và chống ngoại xâm. Từ đó
đồng bào các dân tộc Việt Nam luôn có truyền thống cách
mạng, lòng tự hào dân tộc, yêu nước, yêu CNXH, có ý chí
khắc phục khó khăn, tự vươn lên để khẳng định mình. Đây là
đặc điểm bao trùm, nổi bật của dân tộc Việt Nam.
Tính xen kẻ đan xen giữa các tộc người khác nhau đã tạo
nên nét văn hóa đa dạng, phong phú trong lối sống, phong
tục tập quán. Mỗi dân tộc có một ngôn ngữ riêng, một số dân
tộc thiểu số có cả chữ viết riêng, nhưng đều lấy tiếng Việt làm
phương tiện ngôn ngữ giao tiếp thống nhất chung.
Do những đặc điểm trên, nên các dân tộc Việt Nam có sự
hợp tác, gắn bó nhau trong một cộng đồng dân tộc, trong một
Tổ quốc Việt Nam thống nhất. Song từ xưa đến nay, vấn đề
dân tộc luôn là vấn đề rộng lớn, phức tạp và lâu dài, cần phải
xem xét nó như là vấn đề chính trị, xã hội rộng lớn, toàn diện
gắn liền với mục tiêu xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam.
Xuất phát từ nhiệm vụ đổi mới hiện nay, Đảng và Nhà
nước ta đã chủ trương tạo ra một quan hệ mới giữa các dân
tộc trong điều kiện phát triển kinh tế hàng hóa song song với
việc phát huy tiềm lực kinh tế ở các vùng đồng bào dân tộc ít
người và bảo tồn vốn văn hóa quý báu, đặc thù của các dân
tộc và phát huy truyền thống đoàn kết giữa các dân tộc Việt
Nam. Đảng và Nhà nước ta luôn xem vấn đề dân tộc là vấn
đề quan trọng có tính chiến lược, là yếu tố phát huy sức
mạnh tổng hợp, khai thác mọi tiềm năng của các thành phần
dân tộc trong sự nghiệp cách mạng XHCN, nhất là trong thời
kỳ đổi mới hiện nay trên tinh thần “đại đoàn kết dân tộc”.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên
CNXH của Đảng ta xác định: Thực hiện chính sách bình
đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện
để các dân tộc phát triển đi lên con đường văn minh, tiến bộ,
gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của các cộng đồng
dân tộc Việt Nam
Từ quan điểm trên, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà
nước ta hiện nay là phát triển mọi mặt về kinh tế, xã hội, văn
hóa, tư tưởng, từng bước khắc phục dần sự chênh lệch giữa
các vùng đồng bằng, trung du, miền núi, để xây dựng và củng
cố mối quan hệ đoàn kết, bình đẳng, giúp đỡ lẫn nhau trên cơ
sở tôn trọng lợi ích, truyền thống lịch sử , văn hóa, ngôn ngữ,
phong tục tập quán của các dân tộc.
Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta thể hiện
tập trung một số nội dung, nhiệm vụ chủ yếu như: Có chính
sách phát triển kinh tế hàng hóa nhằm khắc phục tình trạng
kinh tế tự cung tự cấp, mở rộng giao lưu hàng hoá, ổn định và
từng bước cải thiện đời sống đồng bào các dân tộc ít người.
Cụ thể là các chương trình 135, chương trình Xóa đói giảm
nghèo; các chương trình điện, đường, trường, trạm để phát
triển giao thông giữa các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa
thuận lợi hơn, đưa điện lưới quốc gia về tận các vùng đặc
biệt khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho con em và đồng bào
dân tộc được khám chữa bệnh và đến trường… Chính phủ
đặt sự phát triển kinh tế vùng dân tộc thiểu số trong quan hệ
hữu cơ với các vùng trong cả nước và trong quan hệ phân
công lao động quốc tế là nhu cầu đòi hỏi khách quan. Phát
triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần định hướng XHCN
phù hợp với điều kiện, trình độ sản xuất nhằm khai thác tiểm
năng thế mạnh của từng vùng dân tộc, đặc biệt các vùng dân
tộc ít người. Đổi mới chính sách đầu tư phát triển kết cấu hạ
tầng cơ sở, phát triển và xây dựng nông thôn mới; thực hiện
vững chắc công tác định canh, định cư đối với đồng bào dân
tộc miền núi; sắp xếp bố trí lao động dân cư trên quy mô cả
nước.
Chú trọng nâng cao trình độ dân trí, phát triển văn hóa, tư
tưởng và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ người dân tộc. Tôn trọng
phong tục, tập quán, tín ngưỡng, truyền thống và bản sắc văn
hóa các dân tộc.
Thực hiện chính sách đại đòan kết dân tộc, xây dựng cơ
cấu xã hội giai cấp mới, cùng với quá trình phát triển KT-XH
miền núi, làm tăng thên chất lượng mới trong quan hệ giữa
các dân tộc. Thực hiện dân chủ hoá xã hội giữa các vùng dân
tộc. Tránh mọi biểu hiện chủ quan duy ý chí, áp đặt một cách
quan liêu mệnh lệnh làm mất khả năng sáng tạo của quần
chúng các dân tộc.
Bên cạnh, Đảng và Nhà nước còn có chính sách đối
ngoại về vấn đề dân tộc. Với nội dung tư tưởng là: Việt Nam
sẵn sàng làm bạn với tất cả các nước trên thế giới, mở rộng
quan hệ hợp tác quốc tế trên nhiều mặt, nhiều lĩnh vực, cả
song phương, đa phương, trên nguyên tắc tự nguyện, bình
đẳng, tôn trọng độc lập chủ quyền và cùng có lợi. Đặc biệt,
Việt Nam tăng cường mở rộng quan hệ hợp tác với các nước
trong khu vực trên tinh thần láng giềng thân thiện, cởi mở.
Tham gia tích cực vào tổ chức ASEAN, tôn trọng chủ quyền,
không can thiệp vào nội bộï của nhau trên cơ sở bình đẳng
cùng có lợi. Đối với các quốc gia có những tộc người có
quan hệ với các tộc người ở Việt Nam thì thái độ của Việt
Nam đúng mực, tôn trọng phong tục, tập quán, thói quen, tín
ngưỡng của các tộc người đó, nhưng phải tuân thủ theo quy
định của Pháp luật VN (như đồng bào Khmer ở Nam Bộ,
đồng bào Chăm, HMông ở Tây Nguyên…)
Trong Văn kiện Đại hội IV của Đảng có nêu: “Vấn đề dân
tộc và đoàn kết dân tộc luôn có vị trí chiến lược trong sự
nghiệp cách mạng. Thực hiện tốt chính sách các dân tộc bình
đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển, xây
dựng kết cấu hạ tầng KT-XH, phát triển SX hàng hóa. Chăm
lo đời sống vật chất và tinh thần, xóa đói giảm nghèo, mở
mang dân trí, giữ gìn làm giàu và phát huy bản sắc văn hóavà
thống nhất tốt đẹp của các dân tộc, thực hiện công bằng xã
hội giữa các dân tộc, giữa miền núi và miền xuôi, đặc biệt
quan tâm đến vùng gặp nhiều khó khăn, vùng căn cứ cách
mạng và kháng chiến. Tích cực thực hiện chính sách ưu tiên
trong việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số. Động
viên phát huy vai trò của người tiêu biểu, có uy tín trong dân
tộc và ở địa phương. Chống kỳ thị chia rẽ dân tộc, chống tư
tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan, khắc
phục tư tưởng tự ti, mặc cảm dân tộc”.
Kế thừa và tiếp thu tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh
về vấn đề dân tộc và đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng chủ
nghĩa Mác-Lênin, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra Chiến lược
lâu dài về vấn đề dân tộc. Và như ta thấy, dưới sự lãnh đạo
sáng suốt của Đảng mà 54 dân tộc anh em trong cộng đồng
Việt Nam luôn kề vai, sát cánh, đoàn kết, yêu thương chống
giặc ngoại xâm và đang cùng nhau ra sức xây dựng thành
công CNXH ở Việt Nam , bất chấp âm mưu “diễn biến hòa
bình”, chia rẽ dân tộc của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực
thù địch. Từ đó càng khẳng định cho chân lý sáng ngời của
Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt
Nam là một. Sông có thể cạn, núi có thể mòn, song chân lý
ấy không bao giờ thay đổi”