Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

Đề tài: Điều kiện cơ sở hình thành, thuận lợi khó khăn của sự ra đời đồng ACU pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (114.23 KB, 16 trang )

TIỂU LUẬN MÔN TÀI CHÍNH
TIỀN TỆ
NHÓM THỰC HIỆN: NHÓM 1
LỚP:ĐHTN6TH
GV HƯỚNG DẪN: PHAN THỊ CÚC
GV TRỢ GIẢNG: NGUYỄN THỊ PHƯƠNG
1
LỜI MỞ ĐẦU
Hiện nay trong quá trình toàn cầu hóa nền kinh tế, từng quốc gia đang nỗ lực tiến
tới hội nhập với nền kinh tế thế giới. Các nước trong một lãnh thổ, khu vực luôn có
xu hướng lien kết hợp tác với nhau với mục đích tương trợ lẫn nhau phát triển
đồng đều và bền vững. Mặt khác tiền tệ luôn là huyết mạch của lưu thong hàng hóa
trong nền kinh tế thị trường hiện đại. Mọi hoạt động đều được tiền tệ hóa, vì vậy
xu hướng xuất hiện đồng tiền chung ở các khu vực là điều tất yếu trong quá trình
hội nhập các nền kinh tế.
Có rất nhiều ý tưởng về việc hợp nhất tiền tệ ở châu Á cho rằng tăng trưởng về
hợp nhất thương mại chính là tiền đề quan trọng cho quá trình hội nhập tài chính ở
khu vực này trong tương lai.
Đề tài về một đồng tiền chung ở châu Á đang là đề tài được giới tài chính quan
tâm có nhiều vấn đê bàn cãi.
Vì vậy nhóm chúng tôi chọn đề tài :
“ Điều kiện, cơ sở hình thành, thuận lợi khó khăn của sự ra đời đồng ACU”
Hi vọng rằng những kiến thức mà chúng tôi đã tích lũy được qua quá trình học
phần nào làm rõ được đề tài này tuy còn nhiều sai sót.
2
PHẦN 1: ĐIỀU KIỆN, CƠ SỞ HÌNH THÀNH ĐỒNG ACU
1.1 SỰ TÁC ĐỘNG KHÁCH QUAN BÊN NGOÀI TỚI VIỆC HÌNH THÀNH
ĐỒNG TIỀN CHUNG CHẤU Á
1.1.1 SỰ TÁC ĐỘNG CỦA ĐỒNG TIỀN CHUNG CHÂU ÂU ĐẾN SỰ HÌNH
THÀNH CỦA ĐỒNG ACU
Trước khi nói về điều kiện cơ sở hình thành đồng tiền chung châu Á(ACU)


chúng tôi xin nói sơ lược về sự đánh giá của một số nhà kinh tế học về quá trình
phát triển của EURO:
Khi đưa đồng Euro vào lưu hành người ta hi vọng thương mại và cộng tác kinh tế
giữa các thành viên trong vùng Euro sẽ vững mạnh thêm về các rủi ro về tỉ giá hối
đoái và kèm theo đó là việc bảo hộ tiền tệ của các doanh nghiệp châu Âu sẽ không
còn tồn tại nữa.
Châu Âu được biết đến là nơi có điều kiện sống hàng đầu thế giới với cuộc sống
vật chất và tinh thần rất cao, chế độ chính trị và xã hội khá ổn định, đồng tiền
chung của 16 quốc gia ngaỳ càng khẳng định được vị thế, tạo sự tin cậy, từng bước
thay thế vị trí độc tôn về thanh toán và dữ trữ quốc tế … Tỷ trọng của Euro trong
quỹ dự trữ dự cuac các Ngân hàng trung ương Thế giới vào cuối năm 2009 đã tới
30%, so với mức 17,9% từ khi ra đời. Nhưng khi một số nước châu Âu rơi váo
cuộc khủng hoảng nợ, các món nợ khổng lồ và chồng chéo nhau được lộ rõ, thì sức
mua của Euro suy giảm mạnh.
Nhận định về xu hướng này, chúng tôi cho rằng các nước trong khu vực không
dễ dàng để Euro chết yểu, Euro vẫn tồn tại, nhưng sẽ bị giảm giá trong trung hạn.
Nhận định này xuất phát từ ba lí do sau:
Một là, cuộc khủng nợ công ở các nước eurozone cùng với các kế hoạch cắt giảm
chi tiêu, cứu trợ kinh tế tiếp tục là mối đe dọa nghiêm trọng đến tăng trưởng kinh
tế của euzone. Việc cứu trợ hy Lạp có thể sẽ phải kéo dài, thậm trí có thể sẽ phải cơ
cấu lại nợ. Kế hoạch cứu trợ của các nước tiếp theo như Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha
sẽ tác động xấu tới việc tăng trưởng kinh tế của khu vực euro.
Hai là, sự suy giảm niềm tin của giới đầu tư và người tiêu dùng sẽ tiếp tục đặt áp
lực giảm giá euro. Niềm tin đối với triển vọng kinh tế của các quốc gia khu vực sử
dụng euro đã sụt giảm trong quý 2 và quý 3 năm 2010. Theo số liệu của IMF, chỉ
3
số niềm tin của giới chủ doanh nghiệp và người tiêu dùng tại eurozone đã giảm từ
mức 100,6 điểm trong tháng 4 xuống 94,5 điềm trong tháng 6. Trong đó tại Hy
Lạp giảm từ mức 69,1 điểm xuống còn 51,9 điểm. Xu hướng giảm giá euro càng
thể hiện rõ khi Liên minh châu Âu và IMF phải đưa ra quyết định về việc thành lập

Quỹ cứu trợ khẩn cấp trị giá 1.000 tỷ USD, nhằm ngăn ngừa sự sụt giảm lien tục
của euro trong hiện tại và tương lai.
Ba là, khi các gói cứu trợ nhằm giúp các nước trong eurozone thoát khỏi cuộc
khủng hoảng nợ, phục hồi tăng trưởng kinh tế, thì việc Euro suy yếu cũng tạo cơ
hội để khu vực này phát triển. Bởi khi euro mất giá, hàng hóa nhập khẩu, cải thiện
sức mạnh cạnh tranh vốn đang rất yếu của các nước trong Eurozone, từ đó thúc đẩy
tiến trình phục hồi kinh tế của khu vực .
Như vậy, chính sự suy yếu của Euro có thể sẽ là một sự hỗ trợ quan trọng không
chỉ với một vài nền kinh tế khu vực đang nỗ lực để thoát khỏi suy thoái, mà còn
đối với các quốc gia thành viên eurozone đang gặp khó khăn trong việc thúc đẩy
những chương trình cắt giảm thâm hụt ngân sách. Đây cũng có thể là điều mà các
nước trong eurozone mong muốn. nhiều ý kiến cho rằng: Euro sẽ giảm giá trong
những năm tới, nhưng khả năng của nó phục hồi nhanh hay chậm, điều này phụ
thuộc vào việc cải cách mạnh mẽ hệ thống tài chính từng quốc gia, việc thực thi
chính sách tài khóa và kỉ luật tài chính nghiêm ngặt,cũng như việc điều hành chính
sách của ECB ngay trong năm 2011,2012.
Nghiên cứu quá trình phát triển của Euro, có thể rút ra một số bài học cho khu
vực châu Á:
Thứ nhất, liên minh kinh tế và tiền tệ ra đời là một phát triển tất yếu của quá trình
nhất thể hóa khu vực.
Kinh nghiệm khu vực châu Âu cho thấy, sự cạnh tranh quyết liệt giữa các nền
kinh tế đã đẩy nhanh quá trình liên kết và hòa nhập kinh tế của các nước EU. Kết
quả của những nỗ lực thống nhất châu Âu là đã kí hiệp ước Masstricht tháng
2/1992, trong đó đề ra mục tiêu quan trọng nhất là thành lập lien minh tiền tệ châu
Âu, nhằm xóa bỏ hàng rào cuối cùng ngăn cản quá trình nhất thể hóa kinh tế. Vì
thế, sự ra đời Euro là kết quả của một quá trình phát triển và hòa nhập về kinh tế
lẫn chính trị, có tác động sâu sắc không chỉ với các nước thành viên mà với cả châu
Âu và các nước có quan hệ thương mại với eurozone.
4
Thứ hai, tính minh bạch trong hệ thống tài chính, đặc biệt là minh bạch trong chi

tiêu ngân sách là một yếu tố quan trọng quyết định sự bền vững của lien minh khu
vực cũng như triển vọng của đồng tiền khu vực.
Với những tiêu chí và tiêu chuẩn chặt chẽ của eurozone, Euro đã tạo được sự tin
cậy khá cao. Những nguyên nhân gây bất ổn, thậm chí gây nguy cơ khủng hoảng
Eurozone cũng chính ở khía cạnh này
Do việc nhất thể hóa chính trị không theo kịp nhất thể hóa tiền tệ, mà quan trọng
hơn là sự chậm trễ trong nhất thể hóa kinh tế, nhất là nguyên tắc phối hợp giữa
chính sách tiền tệ với chính sách tài hóa, trong khi giao quyền về chính sách tiền tệ
cho ECB, nhưng mỗi thành viên vẫn hoạch định chính sách tài khóa riêng. Vì thế,
khi thâm hụt ngân sách, chính phủ các nước thành viên không thể phát hành thêm
tiền để bù đắp thiếu hụt, mà buộc phải tăng vay nợ và tìm mọi cách che giấu.
Hy lạp rơi vào cuộc khủng hoảng nợ, thì nhiều nghi vấn được đặt ra, bởi các số
liệu công bố khác xa với thực tế. Do đó một bài học có giá trị đối với khu vực châu
Á chính là việc minh bạch tài chính nói chung, minh bạch về chi tiêu công nói
riêng nếu muốn hướng tới hội nhập khu vực. Trong khi, các vấn đề về minh bạch
tài chính, minh bạch nợ công và hiệu quả của chi tiêu công và kỉ luật tài khóa ở
châu Á còn hạn chế nhiều so với châu Âu. Vì vậy vấn đề tạo sự cân bằng giữa tích
lũy và tiêu dùng, giữa lợi ích ngắn hạn với paths triển bền vững trong dài hạn cùng
các cơ chế điều hành chính sách tài khóa- tiền tệ hợp lí là rất cấp thiết cho châu Á
cũng như các khu vực khác trên thế giới.
Thứ ba, vấn đề quản lí các dòng vốn vào ra của khu vực.
Euro được coi là một đồng tiền mạnh, nhưng sự luân chuyển toàn cầu của Euro lại
bi chi phối bởi các trung tâm tài chính lớn trên thế giới. Vì vậy, khi gặp khó khăn
về tài chính, một số thành viên phải trông chờ vào sự giúp đỡ từ bên ngoài. Mặt
khác cũng do nhất chưa nhất thể hóa trong việc quản lí dòng vốn vào- ra( vốn FDI,
FII và ODA). Đặc biệt là hoạt động vay mượn của Chính Phủ và doanh nghiệp,
nên khi có bất ổn nảy sinh, thì mối đe dọa về khủng hoảng tài chính, khủng hoảng
kinh tế là khó tránh khỏi. Đây cũng là bài học cho khu vực châu Á. Khi thực hiện
tự do hóa tài khoản vốn, nhưng vấn thiếu các chế tài giám sát chặt chẽ dòng vốn
vào-ra trên thị trường.

5
Thứ tư, về mức độ phát triển ở các nước eurozone là khá đồng đều, đây là một
thuận lợi cho quá trình hội nhập khu vực. Tuy nhiên sau một số năm ra nhập,
khoảng cách về sự chênh lệch về phát triển kinh tế và xã hội, của khu vực này
không những không thu hẹp mà còn nới rộng hơn. Trong khi các nước Nam Âu
phát triển chậm thi Đức lại nhanh chóng trở thành “đầu tàu kinh tế” của Châu Âu.
Thực tế này này đòi hỏi ECB phải đưa ra chính sách tiền tệ phù hợp cho các nền
kinh tế trong khu vực. Đối với châu Á, tính đa dạng và không đồng nhất về thể chế
tài chính,văn hóa xã hội& kinh tế giữa các nền kinh tế (thu nhập bình quân đầu
người , mức độ phát triển của thị trường tài chính, quy mô và phạm vi kiểm soát về
vốn, thể chế chính trị và các điều kiện xã hội khác) sẽ là một trở ngại lớn trong
phối hợp chính sách khu vực.
Khó khăn mà đồng Euro đang đối diện chính là tín hiệu cảnh báo cho quá tình
cải cách tài chính ở châu Á. Tuy nhiên không phải bài học nào cũng tiêu cực mà
trái lại vẫn có nhiều hi vọng cho châu Á.
1.1.2. CÁC TÁC ĐỘNG TỪ KHU VỰC BÊN NGOÀI ĐẾN SỰ HÌNH THÀNH
ĐỒNG TIỀN CHUNG CHÂU Á.
Trước hết, ta phải nói đến vị thế của “ông trùm tài chính” trên nền kinh tế thế
giới hiện nay đó là đồng USD. IMF ước tính trong tổng số dự tữ ngoại tệ tương
đương 6900 tỷ USD, đồng USD chiếm 2/3. Mặc dù đồng USD đang trong quá
trình khủng hoảng và tột dốc trầm trọng so với Euro và các ngoại tệ khác nhưng nó
vẫn chiếm vị trí hàng đầu trong quỹ dự trĩ thế giới. Trên phạm vi toàn cầu, ACU sẽ
là yếu tố giúp bảo vệ châu á trước chính sách tài chính mới của Mỹ. chủ yếu nhằm
giảm tỷ giá của đồng USD. Một thực trạng gây thiệt hại đầu tiên đến các nền kinh
tế châu Á. Không phải tình cờ, tuyên bố về kế hoạch xây dựng về đồng tiền chung
châu Á gần như được đưa ra cùng với tiết lộ của phái Trung Quốc, theo đó ngân
hàng Trung Ương nước này cho đến năm 2005 đã tích lũy một lượng dự trữ USD
lên tới một ngàn tỉ USD. Tại Nhật tỉ số cũng rất ấn tượng với mốc gần 850 tỉ USD.
Nếu đồng tiền của Mỹ tiếp tục đà sụt giảm giá trị, không chỉ các quốc gia lớn mà
mà cả những quốc gia Đông Nam Á cũng phải đau đầu với bài toán giảm bớt thiệt

hại lien quan tới chiều hướng này. Tuy việc hình thành ACU không được coi là mối
đe dọa tiềm tàng đối với nền kinh tế thế giới, nhưng các ông trùm tư bản Mỹ sẽ
phải tính toán tới mộ trung tâm tài chính mới ở châu Á. Khủng hoảng tài chính
khiến người ta phải hoài nghi về địa vị vĩnh cửu của đồng USD. Nó buộc mọi
6
người có suy nghĩ mới về tính tích hợp của một đồng tiền đơn nhất. USD dường
như đã có ảnh hưởng quá mức đối với hệ thống tiền tệ toàn cầu. Để duy trì trật tự
của các hoạt động kinh tế, cần pahir nghiên cứu lại thể chế kinh tế khu vực.
1.2 NHỮNG NGUYÊN NHÂN CHỦ QUAN TỚI VIỆC HÌNH THÀNH ĐỒNG
TIỀN CHUNG CHÂU Á.
1.2.1. TIỀM LỰC NỀN TÀI CHÍNH CHÂU Á:
“Con rồng châu Á” đang từng bước vươn mình trên trường quốc tế. Phải tự hào
rằng trong thời gian gần đây tốc độ tăng trưởng kinh tế của châu Á đứng đầu so với
các khu vực khác. Các nước châu Á cũng đang có một số thuận lợi lớn cho sự nhất
tài chính trong khu vực. Đó là đa số các nền kinh tế đang lên khu vực này đều tăng
trưởng tốt và dự kiến đạt mức bình quân 7% trong năm nay. Nguồn dự trữ ngoại
hối cũng vững mạnh và đangc có chiều hướng tăng lên.(hiện nay đã lên đến 2000 tỉ
USD). Mua bán giữa các nước Hàn Quốc,Nhận Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn
Độ hiện chiếm hơn 1/3 tổng kim ngạch của từng nước này.
Vào thập kỉ trước, sự khác biệt về thu nhập giữa các nướcbắt đầu thu hẹp lại. sự
chũng lại của Nhật Bản, cùng với đà đi lên của Trung Quốc,Ấn Độ và các nước
vùng vịnh và một số nước Đông Nam Á , các quốc gia châu Á đang ngày càng
một đồng đều hơn. Nếu như 10 năm trước, Nhật là quốc gia tiên tiến duy nhất ở
châu Á thì ngày nay, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ là thành viên của
G20, 7/15 tổng số trung tâm tài chính lớn nhất của thế giới nằm ở châu Á- Thái
Bình Dương.
Cán cân quyền lực giữa thị trường và ngân hàng trung ương trong việc điều tiết
tính ổn định của tiền tệ đang nghiêng trở về lại phía ngân hàng trung ương. Các
quốc gia ở châu Âu đều tăng cường kiểm soát hoạt động đầu cơ. Đức đơn phương
cấm hình thức bán không, còn IMF cho biết quản lí vĩ mô quan trọng. Tuy nhiên,

không tín hiệu tích cực nào nói trên mà có vai trò quan trọng hơn tinh thần hợp tác
trong khu vực đối với quá trình hợp nhất tiền tệ ở châu Á. Tại hội nghị G20 tổ chức
ở Toronto vừa qua, Hàn Quốc cho rằng họ sẵn sàng đưa những vấn đề liên quan tới
tiền tệ vào chương trình nghị sự. Tuy nhiên quá tình này lại phụ thuộc vào động
thái của Trung Quốc trong thời gian tới.Thượng Hải từ lâu đã trở thành môt trung
tâm tài chính toàn cầu. Trong khi đồng nhân dân tệ đang trở thành đồng tiền giao
dịch quan trọng, nhất là các quốc gia láng giềng. Với ngân sách tiết kiệm vượt trội
7
nhờ thặng dư thương mại, các trung tâm tài chính châu Á nhiều ảnh hưởng hơn
trong việc phục hồi các quỹ toàn cầu.
Cùng với những thành tựu đạt được trong quá trình 30 năm cải cách và mở cửa,
Trung Quốc đã vươn lên vị trí một cường quốc kinh tế trên bản đồ kinh thế giới,
nhất là sau khi cơn bão tài chính tràn qua khu vực Đông Á. Mấy năm gần đây,
Trung Quốc tích cực quốc tế hóa đồng nhân dân tệ nhằm biến đồng nội tệ của họ
thành đồng tiền mạnh trên thế giới, trong tương lai có thể cùng với đồng USD,
đồng Euro tạo nên thế chân vạc. Vì vậy sẽ rất khó khăn khi muốn Trung Quốc từ
bỏ ý định biến đồng nhân dân tệ trở thành đồng tiền mạnh của châu Á để tiếp nhận
đồng tiền chung châu Á. Tháng 1/2010 việ hiệp định thương mại tự do Trung Quốc
ASEAN chính thức có hiệu lực đã giúp đồng nhân dân tệ được sử dụng ở phạm vi
rộng hơn và dược ưa chuộng hơn. Khu vực mậu dịch tự do thành lập,này sẽ giúp
trao đổi thương mại của Trung Quốc của khu vực sẽ trở nên náo nhiệt hơn, từ đó
thúc đẩy sử dụng đồng nhân dân tệ. Hiện nay, tuy nhân dân tệ chưa được tự do quy
đổi nhưng ở một số nước như Lào, Campuchia người ta bắt đầu sử dụng đồng nhân
dân tệ làm công cụ trao đổi và xu thế tích trữ đồng nhân dân tệ cũng bắt đầu xuất
hiện, dù chưa phải là dòng chủ lưu nhưng với lợi ích của các nước Châu Á có được
khi đồng nhân dân tệ tăng giá, đồng nhân tệ vô hình chung đã đi vào lòng người
dân các nước trong khu vực. Trong cuộc khủng hoảng tài chính vừa qua, khi các
nước Âu Mỹ chịu tác động nghiêm trọng thì Trung Quốc lại thoát khỏi đại nạn.
Nền kinh tế Trung Quốc ngày càng mạnh lên, đồng nhân dân tệ được dự đoán là
ngày càng tăng giá và xu thế tích trữ rộng rãi đồng tiền này sẽ là xu thế tất yếu.

Nhưng đồng nhân dân tệ có thể trở thành đồng yieenf chung của châu Á hay không
chưa có một nhà kinh tế học nào có thể dám chắc được.
1.2.2. NHỮNG Ý TƯỞNG BAN ĐẦU TRONG QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH
ĐỒNG ACU:
Cùng với việc hợp nhất thể hóa kinh tế lợi ích kinh tế châu Á, sang kiến đồng
tiền chung Châu Á, có thể trở thành hiện thực. Có nhà phân tích cho rằng sự ra đời
của đồng tiền chung châu Á phải có những điều kiện cơ bản như giữa các nền kinh
tế của châu Á phải hạn chế những hạn chế của việc lưu thông vốn. Khi đó, việc
thành lập quỹ dự trữ ngoại tệ đang là bước tiến quan trong trong việc hợp tác tiền
tệ trong khu vực châu Á.
8
“Giỏ” tiền tệ ban đầu được làm cơ sở xem xét việc hình thành chỉ số ACU bao gồm
15 đồng tiền của 15 nền kinh tế châu Á( Trung Quốc, Nhật Bản, Đài Loan, Hồng
Công và 10 nước thành viên hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á). Sau đó có thể
nâng lên 40 đồng nội tệ trong đó có tiền của Ấn Độ, Autraylia, Niu Dilan. Cuối
năm 2009, ba quốc gia gồm Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc đã cùng với hiệp
hội các nước Đông Nam Á(ASEAN) ký thỏa thuận xây dựng quỹ khẩn cấp với số
vốn 120 tỷ USD, theo đó các nước tham gia thỏa thuận có thể sử dụng quỹ này khi
tình hình ngoại hối căng thẳng.
Trung Quốc và Nhật Bản mỗi nước sẽ đóng góp 32%, tương đương 38,4 tỷ USD,
Hàn Quốc góp 16%, 10 nước khối ASEAN góp 20%. Đây là cơ chế hợp tác chế độ
hóa tài chính đầu tiên của châu Á và các bên tham gia hiệp định có quyền quy đổi
đồng nội tệ với USD của quỹ. Trong trường hợp nổ ra khủng hoảng tài chính quỹ
này sẽ giúp đảm bảo tình lưu động của đồng USD.
Sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, dự trữ bằng đồng USD dần bị phân
tán, trong khi đồng Euro và Yen Nhật đã trở thành một trong những đồng tiền đáng
tin cậy cho các nguồn vốn dự trữ. Tuy nhiên do sức cạnh tranh của kinh tế châu Âu
và Nhật Bản bị suy giảm nên USD vẫn là đồng tiền mạnh nhất.
Bộ trưởng kinh tế và tài chính Nhật Heizo Takenaka đã đánh giá về triển vọng
đồng ACU như sau: “ chúng tôi coi đây là một quyết định tuyệt vời giúp mở ra một

thời kì mới trong lịch sử hiện đại của nền kinh tế châu Á.”
Các chuyên gia tài chính châu Á đã lựa chọn xây dựng đồng ACU tương tự như
kiểu mẫu của châu Âu ngay cả tên gọi của nó cũng gần giống như tên nguyên bản
của của đồng tiền chung châu Âu ECU(European currency unit)
Cũng như ở châu Âu, ban đầu đơn vị mới này sẽ chỉ đóng vai trò của một đơn vị
tính toán. ECU từng được sử dụng để tính mức đọ quan hệ giữa các nước châu Âu
với nhau, nhưng không phải là phương tiện tri trả. Thủ tục này cũng sẽ được xem
xét áp dụng cho dồng tiền chung châu Á ACU. ACU cũng sẽ được chuyển thành
một đơn vị tiền tệ có khả năng chi trả như đồng euro.
Trong khi mức độ tích hợp và phối hợp giữa các quốc gia thành viên là các yếu tố
đảm bảo hàng đầu. cũng như tại châu Âu việc xây dựng đồng tiền chung là một
nhu cầu thiết yếu đối với khu vực này. Sự ra đời của ACU sẽ giúp thay đổi tỷ giá
9
tiền tệ của các quốc gia với nhau. Trong một nền kinh tế toàn cầu hóa như hiện
nay, việc kiểm soát mức độ dao động tiền tệ là rất cần thiết. Rõ ràng là quá trình
hình thành đồng tiền chung châu Á với đầy đủ ý nghĩa không thể vấn đề hoàn tất
trong một thập kỉ. Ngân hàng Phát triển châu Á dự định sẽ giới thiệu đơn vị tiền tệ
ACU, đây là lần đầu tiên một cơ quan tài chính quốc tế như ADB tạo ra một đơn vị
chuẩn cho vấn đề tiền tệ cho khu vực châu Á theo hình mẫu của đơn vị tiền tệ châu
Âu.
Các nhà phân tích cho rằng nếu chỉ số ACU được các thị trường trong khu vực sử
dụng rộng rãi thì nó sẽ là bước đi đầu tiên hướng tới việc ban hành một đồng tiền
chung ở châu Á. Ý tưởng xây dựng kho dữ trữ ngoại hối ở châu Á được đưa trên
cơ sở hiệp định trao đổi tiền tệ. kể từ năm 1997, các châu Á liên tục hợp tác chặt
chẽ, về nền kinh tế tài chính hòa nhập và đến năm 2000 đã tiến tới hiệp định trao
đổi tiền tệ giữa các nhóm 10+3. Cơ chế này là quy định rõ các bên sẽ cung cấp
nguồn vốn ngắn hạn để giả quyết những rủi ro mang tính lưu động, qua đó bảo vẹ
các nguồn tiền trong khu vực và lập ra một hệ thống báo động sớm để giám sát các
nguồn vốn ngắn hạn. Năm 2003, cha đẻ của đồng Euro cũng đưa ra một số kiến
nghị xây dựng một đồng tiền chung châu Á, cùng sử dụng song song với đồng tiền

hiện tại của các nước trong khu vực.
PHẦN 2: THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN CỦA SỰ HÌNH THÀNH ĐỒNG TIỀN
CHUNG CHÂU Á.
Có rất nhiều ý kiến đối lập nhau về vấn đề đồng tiền chung châu Á. Sau cuộc
khủng hoảng tài chính năm 2008 dự trữ của đồng USD dần dần bị phân tán, trong
đồng tiền đáng tin cậy cho những nguồn vốn dự trữ. Tuy nhiên do sức mạn cạnh
tranh kinh tế của các nước châu Âu và Nhật Bản bị suy giảm nên USD vẫn là đồng
tiền mạnh nhất. Lúc này vấn đề hình thành đồng tiền chung châu Á lại được các
nước trong khu vực đặc biệt quan tâm. Câu hỏi này được đặt ra là liệu đồng tiền
chung châu Á có thể trở thành một loại tiền tệ thực sự và lúc nào với có thể ra đời.
Tuy nhiên những câu hỏi này còn phải được suy ngẫm lại, bởi sau cuộc khủng
hoảng nợ công ở châu Âu, đồng euro cũng không thể thách thức địa vị của đồng
USD và cuộc khủng hoảng này cũng buộc mọi người có suy ngĩ mới về tính thích
hợp của một đồng tiền đơn nhất. Sự hình thành của một đồng tiền chung có những
thuận lợi nhất định nhưng còn vấp phải nhiều khó khăn, trở ngại to lớn. Sau đây,
chúng tôi xin trình bày một số thuận lợi và khó khăn của sự ra đời đồng ACU.
10
2.1THUẬN LỢI
Những người ủng hộ việc ra đời đồng tiền chung châu Á chỉ ra rằng việc tăng
trưởng trong hợp nhất thương mại chính là điều kiện tiên quyết cho việc hợp nhất
tài chính. Quả thực châu Á đáng được coi là khu vực làm cả thế giới kinh ngạc.
Chỉ trong vòng vài chục năm trở lại đây, châu Á đạt đươc một tốc độ tăng trưởng
kinh tế thần kì mà nhiều người không ngờ tới và được đánh giá là khu vực phát
triển năng động nhất thế giới hiện nay. Hai khối liên minh ASEAN và APEC lâu
nay có sự hoạt động tương đối hiệu quả. Theo các nhà lãnh đạo châu Á, sự khác
biệt như đã nói ở trên có thể khác phục bằng 3 khối kinh tế chủ đạo đó là ASEAN,
Trung Quốc và liên minh Nhật- Hàn trong các khối các yếu tố đều có những nhược
điểm tương đồng. Như vậy trước mắt mỗi khối có thể hoạt động nhịp nhàng sao đó
rút ngắn dần khoảng cách và thực hiện hội nhập giữa các khối. Nhiệm vụ đặt ra đối
với nước châu Á hiện nay còn tiếp tục đẩy mạnh cải cách kinh tế thương mại, có

những chính sách kinh tế hợp lí đối với các hoạt động tài chính ngân hàng. Nếu có
khả năng biến ý tưởng thành hiện thực, đồng tiền chung châu Á sẽ đem lại nhiều
lợi thế, trong đó lại bỏ được những bất ổn trong tỉ giá hối đoái, chống lại nạn đầu
cơ tích trữ trên thị trường. Nhưng bên cạnh đó chúng ta phải thừa nhận rằng đồng
tiền chung châu Á, không có nghĩa là cứu cánh cho khu vực, bởi khu vực còn có
nhiều yếu kém trong hệ thống quản lí. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm
1997 là một minh chứng cho những bất cập của hệ thống tài chính. Ngoài ra để tiến
tới một nền kinh tế vững mạnh cũng cần có sự ổn định về chính trị. Hơn bao giờ
hết mỗi nước châu Á cần tự thân làm thông suốt hoạt động trong nước, từ đó tiến
tới hội nhập đưa châu Á trở thành trung tâm kinh tế thế giới trong thế kỉ 21.
Mặc dù việc thúc đẩy thành lập đồng tiền chung châu Á vẫn còn một chặng
đường khá dài.nhưng tiến độ xúc tiến có thể được đẩy nhanh hơn do khủng hoảng
tài chính.
Trong vai trò là nước chủ nhà, Thủ tướng Ôn Gia Bảo cho biết phải nhanh chóng
đẩy mạnh quá trình đa phương hóa sang kiến Chiangmai, quan tâm tối đa giữa các
bên, nhanh chóng đi đến thỏa thuận chung, thành lập quỹ dự trũ châu Á, tăng
cường khả năng chống rủi ro tài chính cho khu vực này. Thủ tướng còn cho biết
thêm, phải nỗ lực phát triển vai trò của thỏa thuận hoán đổi tiền tệ song phương,
nghiên cứu mở rộng phạm vi giới hạn.
11
Một thời gian dài, do đồng USD chiếm vị trí độc tôn trong dự trũ quốc tế và quá
trình lưu thông. Mỹ vô tư là tăng thêm mức thâm hụt ngân sách ở mức cao, tiêu thụ
vốn quá nhiều của nước ngoài, tiến hành quá nhiều những ý tưởng về tài chính,
cuối cùng đã đưa cả thế giới rơi vào cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu nghiêm
trọng nhất kể từ đại chiến thế giới 2. Trong diễn đàn châu Á bắc Ngao và hội ngị
thượng đỉnh về tài chính G20. Những lời kêu gọi cải cách hệ thống tiền tệ quốc tế
ngày càng nhiều hơn.
Sau khi khủng hoảng tài chính bùng nổ tại châu Á vào năm 1997, châu Á đã bắt
đầu tìm kiếm một cơ chế hợp tác tiền tệ trong khu vực. Khi đó, một vài nước và
khu vực đã đưa ra sáng kiến cơ chế hợp tác tiền tệ khu vực châu Á. Dự định sẽ mô

phỏng theo Qũy tiền tệ quốc tế IMF thành lập “quỹ tiền tệ” châu Á.
Vào năm 2000, phương án này đã diễn biến thành sáng kiến chiangmai thỏa thuận
hóa đổi tiền tệ giữa các nước Trung Nhật Hàn và 10 nước thành viên ASEAN.
Giữa các nước kí kết các thỏa thuận song phương cung cấp cho nhau các khoản
vay hỗ trợ trong thời gian ngắn, để hóa giải những rủi ro về lưu động vốn.
Năm 2003,Robert Alexander Mundell người từng đạt giả Nobel kinh tế, cha đẻ của
đồng Euro đã từng kiến nghị nên thành lập một đơn vị tiền tệ chung trong khu vực
châu Á. Trong bối cảnh các tranh nhau không muốn từ bỏ đơn vị tiền tệ riêng của
mỗi nước, có thể nên để dồng tiền này lưu thông trong khu vực châu Á.
Ngày 23/2/2009 hội nghị các Bộ trưởng tài chính của ASEAN+3( ASEAN và
nước Trung Nhật Hàn) diễn ra tại Phu ket đã quyết định mở rộng thêm 50% quy
mô của quỹ dự trữ ngoại tệ trong khu vực, tức là khoảng 120 tỷ USD. Đối với các
nước châu Á, quỹ này sẽ duy trì sự ổn định tiền tệ khi có khủng hoảng tài chính
xảy ra nhằm giảm thiểu sự phụ thuộc vào IMF của các nước trong khu vực.
Cùng với việc nhất thể hóa tiền tệ lợi ích kinh tế châu Á, sáng kiến “ đồng tiền
chung châu Á” có thể trở thành hiện thực. Có nhà phân tích cho rằng, sự ra đời
của đồng tiền chung châu Á phải có những điều kiện cơ bản, như giữa các nền
kinh tế châu Á phải xóa bỏ những hạn chế của việc lưu thông vốn. Khi đó, việc
thành lập quỹ dự trữ ngoại tệ đang là một bước tiến quan trọng trong việc hợp tác
tiền tệ trong khu vực châu Á. Đây là một bước đi thực sự khó khăn đối với một
khu vực như châu Á.
12
Một số nhà phân tích cho rằng mặc dù các nước châu Á hiện có tỉ lệ tiết kiệm
khá cao nhưng vì hạ tầng tài chính của khu vực này chưa được hoàn thiện nên
nguồn tiền nhàn rỗi dưới dạng dự trữ ngoại hối này đã chảy vào khoản nợ của
chính phủ Mỹ, vốn có khả năng sinh lời thấp. Do đó, việc xây dựng một thị trường
trái phiếu hoàn chỉnh ở châu Á sẽ giúp các nước này sử dụng nguồn ngoại hối có
hiệu quả.
Ngoài ra một đồng tiền chung cho khu vực châu Á còn giúp các nước giảm bớt sự
lệ thuộc vào đồng USD.

Tuy nhiên để đi đến quyết định này còn nhiểu thuận lợi và còn gặp nhiều khó
khăn về mặt chủ quan, đa số các nước châu Á đều mong muốn và ủng hộ liên minh
tài chính khu vực. Theo các nhà phân tích, Nhật khởi xướng và thúc đẩy mối quan
hệ hợp tác chặt chẽ hơn các nước trong khu vực vì nước này đang lo mất đi vai trò
là cường quốc kinh tế hàng đầu châu Á.
Một thời gian dài, do đồng USD chiếm vị trí độc tôn trong dự trũ quốc tế và quá
trình lưu thông, Mỹ vô tư làm tăng thêm mức thâm hụt ngân sách ở mức cao, tiêu
thụ quá nhiều vốn của nước ngoài, tiến hành quá nhiều những ý tưởng về tài
chính, cuối cùng đã đưa cả thế giới rơi vào cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu
nghiêm trọng nhất kể từ đại chiến thế giới thứ 2. Trong diễn đàn châu Á Bắc Ngao
và hội nghị thượng đỉnh về tài chính G20, những lời kêu gọi cải cách hệ thống tiền
tệ quốc tế ngày càng nhiều.
Sau khi khủng hoảng tài chính bùng nổ tại châu Á vào năm 1997, châu Á đã bắt
đầu tìm kiếm một cơ chế hợp tác tiền tệ trong khu vực. Khi đó, một vài nước và
khu vực đã đưa ra sáng kiến cơ chế hợp tác tiền tệ ở khu vực châu Á, dự định sẽ
mô phỏng theo quỹ tiền tệ quốc tế IMF thành lập quỹ tiền tệ châu Á.
Vào năm 2000, phương án này đã diễn biến thành sáng kiến Chiangmai- thỏa
thuận hóa đổi tiền tệ giữa Trung- Nhật- Hàn và 10 nướ thành viên ASEAN. Giữa
các nước ký kết các thỏa thuận, song phương cung cấp cho nhau các khoản vay hỗ
trợ trong thời gian ngắn, để hóa giải những rủi ro về lưu động vốn.
Năm 2003, Robert Alexander Mudell người từng đoạt giải Nobel kinh tế, cha đẻ
của đòng Euro đã từng kiến nghị nên thành lập một đơn vị tiền tệ chung trong khu
13
vực châu Á. Trong bối cảnh các nước tranh nhau không muốn từ bỏ đơn vị tiền tệ
riêng của mỗi nước, có thể nên để đồng tiền này lưu thông trong khu vực châu Á.
Ngày 23/2/2009, Hội ngị các Bộ trưởng Tài chính của ASEAN+3( ASEAN và 3
nước Trung- Nhật –Hàn) diễn ra taij Phuket ( Thái Lan) đã quyết định mở rộng
thêm 50% quy mô của quỹ dự tữ ngoại tệ trong khu vực, tức là khoảng 120 tỷ
USD. Đối với các nước châu Á, quỹ này sẽ duy trì sự ổn định tiền tệ trong khu vực
khi có khủng hoảng tài chính xảy ra, giảm thiểu sự phụ thuộc vào IMF của các

nước trong khu vực.
Một số nhà phân tích cho rằng mặc dù các nước châu Á hiện có tỉ lệ tiết kiệm khá
cao nhưng vì hạ tầng tài chính của khu vực này chưa được hoàn thiện nên nguồn
tiền nhàn rỗi dưới dạng ngoại hối này đã chảy vào khoản nợ của chính phủ Mỹ,
vốn có tỉ lệ sinh lời rất thấp.
Đa số các nền kinh tế đang lên trong khu vực này đều tăng trưởng tốt và dự kiến
đạt mức tăng trưởng kinh tế bình quân 7% trong năm nay. Nguồn dự trữ ngoại hối
cũng vững mạnh và đang có chiều hướng tăng lên( hiện nay đã vượt con số 2000 tỷ
USD). Mua bán giữa các nội bộ các nước Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản hiện
chiếm hơn 1/3 tổng kim ngạch mua bán của từng nước này.
Có thể giai đoạn hợp nhất châu Á tiếp theo mang tính định hướng thị trường do
những rào cản cho quá trình hội nhập của các thể chế châu Á được dỡ bỏ. Việc có
ngày càng nhiều thể chế tài chính châu Á xuất hiện ở thị trường mỗi các quốc gia
thành viên là một bước đi vững chắc hướng tới sự hợp nhất mang tầm khu vực
thay vì phát ngôn hão huyền. Lấy Malaysia làm ví dụ, quốc gia này đã cho phép
các thể chế tài chinh từ Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia và cả Trung Đông xuất hiện
trong thị trường nội địa, nếu quá trình này tăng tốc là lan rộng một sự hợp nhất tài
chính ở châu Á sẽ xuất hiện.
2.2 KHÓ KHĂN:
Theo các nhà bình luận, châu Á sẽ gặp khó khăn nhiều hơn châu Âu trong việc
xây dựng đồng tiền chung thống nhất do các nền kinh tế trong khu vực này cũng có
những khoảng cách nhất định, lớn về cả quy mô cũng như nhịp độ phát triển. Điều
này sẽ khiến các quốc gia châu Á sẽ gặp nhiều trở ngại trong việc thống nhất các
chỉ số vĩ mô cơ bản dùng cho đồng tiền này. Tuy nhiên để có thể cạnh tranh ngang
14
ngửa với đồng USD và Euro trong thị trường tài chính thế giới, châu Á bặt buộc
phải tìm ra những biện pháp thỏa hiệp hợp lí nhất.
Người ta bắt đầu hoài nghi về sự khủng hoảng mang tính cấu trúc và chính trị
của đồng Euro, và tìm kiếm một chính sách tài chính cững rắn hơn. Hiệp ước
Mastricht dẫn đến sự ra đời của đồng Euro không thể ràng buộc được các thành

viên trong khu vực đồng tiền chung này tuân theo. Khi mà nước Đức hùn mạnh về
mặt tài chính không thể duy trì mức thâm hụt ngân sách dưới 3% GDP như cam kết
thì các quốc gia nhỏ hơn tuân thủ hiệp ước để làm gì.
Sai lầm về mặt cấu trúc của khu vực đồng tiền Euro còn thể hiện ở chỗ dù có một
Ngân hàng Trung ương Châu Âu và hệ thống giám sát tài chính châu Âu nhưng cả
khu vực này vẫn không có một hệ thống tài chính thống nhất. Vì thế khi một quốc
gia thành viên có khoản thâm hụt tài chính lớn, không một tổ chức nào có thể đứng
ra điều phối chính sách tài chính một cách hiệu quả. Sự mất thăng bằng ấy của
châu Âu là điều tương đối gây cản trở cho việc hình thành đồng tiền chung châu Á,
gây lo ngại cho những quyết định. Những người cho rằng sự hợp nhất kinh tế châu
Á này là một ý tưởng viển vông thì lập luận cho rằng hiện tại khu vực này không
có sự thống nhất về mặt chính trị, chính sách tài chính hay tiền tệ, cũng như chính
sách giám sát. Hơn nữa hầu như chưa có bất kì thảo luận nào về các chính sách tài
chính chung tại châu Á.
Khó khăn mà đồng Euro đang đối diện chính là những tín hiệu cảnh báo cho quá
trình cải cách tài chính ở châu Á. Điều đầu tiên là không được vội vàng. Phải mất
nhiều thời gian mới đạt được sự đồng thuận từ một cộng đồng có nhiều lợi ích và
văn hóa hoàn toàn khác nhau. Không có sự tồn tại cái gọi là tư duy chunh hay thể
chế chung. Cần biết rằng châu Âu phải mất hơn 50 năm thảo luận và đàm phán
trước khi cho ra đời đồng Euro.
Hai là, nói về sự hợp nhất tiền tệ ở châu Á luôn có tính chất phòng thủ, theo ngĩa
là cơ quan đại diện cho sự hợp nhất các nguồn lực( như Quỹ tiền tệ châu Á) có thể
bảo vệ các đồng tiền yếu ở châu Á khỏi nạn đầu cơ tràn lan và sự bất ổn. Khó khăn
của đồng Euro đang gây nhiều sức ép cho quá trình hợp nhất ở châu Á.
Ý tưởng về việc hình thành đồng tiền chung châu Á là rấ tích cực trong xu thế
liên kết khu vực, một mặt thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội tăng khả năng cạnh
tranh, mặt khác sẽ giúp các quốc gia châu Á hạn chế sự phụ thuộc quá nhiều của
15
đồng USD và tránh được những biến động thị trường tiền tệ như phần thuận lợi đã
nói trên. Nhưng khó khăn lớn nhất cho việc thành lập AS là sự khác biệt lớn giữa

các thành viên và cót lỗi của quá trình chuẩn bị cho AS zone là đạt được sự thống
nhất trong sự khác biệt quá lớn này. Do việc tính đa dạng của khu vực tạo nên
khoảng cách chênh lệch về trình độ phát triển của các quốc gia. Chênh lệch về
trình độ phát triển kinh tế dẫn đến sự xác định khác nhau giữa các các lợi ích vay
và vấn đề ưu tiên trong hợp tác. Khoảng cách chênh lệch trên cũng tạo bất lợi cho
các quốc gia kém phát triển như Lào, Campuchia… trong phân công lao động quốc
tế do các nước lớn có lợi thế hơn về vốn, công nghệ và khả năng cạnh tranh. Châu
Á còn thiếu cơ chế điều tiết và kiểm soát. Bằng chứng là việc thiếu cơ chế điều tiết
và kiểm soát tỉ giá có thể coi là một nguyên nhân gây ra cuộc khủng hoảng nợ công
ở châu Âu. Vấn đề nghiêm trọng hơn là Euzone tuy có chung chính sách tiền tệ,
nhưng mỗi quốc gia trong đó lại độc lập về chính sách tài chính. Nước nào cũng
coi trọng lợi ích chung của khu vực bị coi nhẹ. Mâu thuẫn khu vực vì thế khó có
thể tránh được để đi đến mọt đồng thuận thì thời cơ thường đã vụt qua. Cụ thể sự
yếu kém và chậm chạp về năng lực đối phó với khủng hoảng của EU được cho là
nhân tố quan trọng làm khủng hoảng nợ công thêm trầm trọng. Hy Lạp đã rơi” tự
do”, nó chỉ được quẳng dây khi sắp chạm đáy, điều này cho thấy thất bại của cơ
chế trói buộc về tài chính trong EU. Và “gót chân” Asin của các cơ chế điều phối
trong Eurozone dần lộ ra.
16

×