159
TẠP CHÍ KHOA HỌC, Đại học Huế, Số 68, 2011
PHÂN TÍCH NHU CẦU TUYỂN DỤNG – ĐỀ XUẤT ĐỔI MỚI
CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO VÀ GIÁO TRÌNH
NGÀNH CỬ NHÂN SƯ PHẠM TIẾNG ANH
Trương Viên,Phan Quỳnh Như, Phan Đỗ Quỳnh Trâm
Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Huế
TÓM TẮT
Phân tích nhu cầu là công việc cần thiết đối với những nhà thiết kế chương trình và
biên soạn giáo trình trong nỗ lực đổi mới chương trình và giáo trình nhằm thỏa mãn các nhu
cầu của nhà tuyển dụng và sinh viên. Trong trường hợp đối với Khoa Tiếng Anh, Trường Đại
học Ngoại ngữ, Đại học Huế, chương trình và giáo trình biên soạn cho sinh viên cấp cử nhân
Ngành Sư phạm tiếng Anh hiện đang được đổi mới, theo đúng những chuẩn đầu ra. Nghiên cứu
này nhằm mục đích thu thập phản hồi từ các nhà tuyển dụng về năng lực công việc hiện tại của
cựu sinh viên, từ các cựu sinh viên về chương trình, giáo trình, và phương pháp dạy học mà họ
đã được đào tạo từ nhà trường. Các kết quả cho thấy rằng trình độ tiếng Anh của cựu sinh viên,
năng lực nghiệp vụ và công nghệ thông tin, đạo đức nghề nghiệp và các kỹ năng nghiên cứu,
những phẩm chất có ý nghĩa đối với công việc hiện tại của họ, đã được các nhà tuyển dụng
đánh giá cao. Tuy nhiên, khả năng tiếp cận và xử lý các vấn đề phức tạp và kỹ năng mềm cần
được cải tiến. Những đề nghị về việc đổi mới chương trình và giáo trình là đa dạng và sâu rộng
cho việc cải tiến.
1. Tổng quan
Đại học Huế nằm ở khu vực miền Trung Việt Nam với lịch sử 50 năm giáo dục,
đào tạo và nghiên cứu. Hiện nay các trường đại học có nhiều thay đổi, sáng tạo về
phương pháp tiếp cận giáo dục và cơ cấu hành chính. Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại
học Huế (ĐHNN - ĐHH), thành lập năm 2004, là một thành viên của đại học Huế cũng
không đi ngoài xu hướng đó. Trường ĐHNN - ĐHH đang từng bước đánh giá và đổi
mới chương trình, giáo trình, và phương pháp giảng dạy ở tất cả các khoa trực thuộc
theo học chế tín chỉ. Báo cáo này bao gồm việc phân tích nhu cầu của nhà tuyển dụng
và cựu sinh viên chuyên ngành Sư phạm tiếng Anh của trường ĐHNN - ĐHH về chất
lượng của cựu sinh viên trường ĐHNN - ĐHH, về chương trình đào tạo cũng như
phương pháp giảng dạy.
Thiết kế chương trình đào tạo là một quá trình lâu dài và liên tục đã được nhiều
tác giả miêu tả cụ thể. Stern (1992) xem đây là quá trình tuần hoàn gồm bốn giai đoạn
chính - nghiên cứu và phát triển, thực hiện, đánh giá, nghiên cứu thêm và cải tiến. Đây
160
là một chu trình liên tục của thiết kế và thử nghiệm mà trong đó việc phân tích nhu cầu
chủ yếu thuộc giai đoạn nghiên cứu và cải tiến tiếp. Tương tự, phân tích nhu cầu thường
được xem là bước quan trọng đầu tiên trong quá trình thiết kế chương trình (Brown,
1995; Graves, 2000; Taba, 1962). Các bước tiếp theo có thể là xác định mục tiêu, lựa
chọn nội dung, tài liệu, đánh giá và thử nghiệm giảng dạy cùng với quá trình đánh giá
liên tục ở mỗi công đoạn.
Chương trình đào tạo, chuẩn đầu ra ngành sư phạm tiếng Anh, khoa tiếng Anh,
trường ĐHNN - ĐHH và các giáo trình đang được cải tiến nhằm đáp ứng nhu cầu của
nhà sử dụng lao động và sinh viên. Vì vậy, thông tin phản hồi từ nhà tuyển dụng về khả
năng làm việc của cựu sinh viên và thông tin từ cựu sinh viên về chương trình và giáo
trình rất thiết thực trong việc hoàn thiện chương trình đào tạo và thiết kế các giáo trình.
Đề tài được thực hiện nhằm:
- Tìm hiểu yêu cầu của nhà tuyển dụng đối với chất lượng của cựu sinh viên của
trường ĐHNN - ĐHH .
- Đánh giá mức độ đáp ứng yêu cầu của công việc của cựu sinh viên của trường
ĐHNN - ĐHH .
- Phân tích những đề xuất của nhà tuyển dụng và cựu sinh viên chương trình đào
tạo, giáo trình và phương pháp giảng dạy.
2. Phương pháp nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu gồm hai nhóm:
- Nhóm 1 - Nhà tuyển dụng - gồm 30 cán bộ quản lý, là hiệu trưởng, phó hiệu
trưởng, hoặc tổ trưởng tổ Ngoại ngữ của các trường THPT, tỉnh Thừa Thiên Huế.
- Nhóm 2 - Cựu học sinh - gồm 55 cựu sinh viên của trường ĐHNN - ĐHH tốt
nghiệp từ năm 2004 đến năm 2010. Hiện những sinh viên này đang giảng dạy tại các
trường công lập và trường tư hoặc làm việc tại công ty liên doanh, tổ chức nước ngoài,
hoặc các đơn vị khác ở tỉnh Thừa Thiên Huế.
Thông tin nhóm 1 – Nhà tuyển dụng
Chức vụ (N=30) Địa điểm - Số trường trong khu vực (N=30)
Hiệu
trưởng
P. Hiệu
trưởng
Trưởng
tổ tiếng
Anh
TP
Huế
Huyện
Phú
Vang
Huyện
Quảng
Điền
Huyện
Phú Lộc
Huyện
Hương
Thủy
N % N % N % N % N % N % N % N %
7 23,3 11 36,7 12 39,9 15 50 3 10,0 5 16,7 4 13,3 3 10,0
161
162
Thông tin Nhóm 2 – Cựu sinh viên
Giới tính Năm tốt nghiệp
Nam Nữ 2005 2006 2007 2008 2009 2010
N % N % N % N % N % N % N % N %
6 10,9 49 89,1 11 20,0 8 14,5 9 16,4 9 16,4 17 30,9 1 1,8
Cơ quan cựu sinh viên đang giảng dạy/ làm việc
Cơ quan/ Tổ
chức nhà nước
Công ty tư
nhân
DN nước
ngoài/ DN cổ
phần nước
ngoài
Liên doanh/
Công ty nước
ngoài
Cơ quan
khác
N % N % N % N % N %
36 65,5 4 7,3 3 5,5 3 5,5 7 12,7
2.2. Phương pháp thu thập số liệu
Số liệu của nghiên cứu này được thu thập chính qua hai bảng câu hỏi dành cho
nhà tuyển dụng và cựu sinh viên.
- Bảng câu hỏi dành cho nhà tuyển dụng nhằm thu thập thông tin về nhà tuyển
dụng, đánh giá mức độ đáp ứng công việc của cựu sinh viên (nhóm 1), đánh giá năng
lực chuyên môn của sinh viên trường ĐHNN - ĐHH so các trường khác (nhóm 2), yêu
cầu của nhà tuyển dụng về chất lượng sinh viên trong tương lai (nhóm 3) và đề xuất của
nhà tuyển dụng về chương trình giảng dạy và nội dung đào tạo.
- Bảng câu hỏi dành cho cựu sinh viên nhằm thu thập thông tin cá nhân, yêu cầu
chất lượng công việc (nhóm 1), mức độ đáp ứng công việc của cựu sinh viên (nhóm 2),
và đánh giá về chất lượng chương trình đào tạo, giáo trình và phương pháp giảng dạy
(nhóm 3) và các đề xuất.
Hệ số độ tin cậy của Nhóm 1 (gồm 16 mục), Nhóm 2 (6 mục), và Nhóm 3 (11
mục) tương ứng là α = 0,86, 0,78, và 0,80. Hệ số Alpha của ba nhóm cho thấy toàn bộ
bảng câu hỏi là đáng tin cậy để thu thập số liệu cho mục đích nghiên cứu.
3. Kết quả và bàn luận
3.1. Phân tích định lượng từ bảng câu hỏi dành cho nhà tuyển dụng
3.1.1. Đánh giá của nhà tuyển dụng về năng lực hiện tại của cựu sinh viên
(Nhóm 1)
Nhóm này nêu câu trả lời của nhà tuyển dụng về năng lực hiện tại của cựu sinh
163
viên. Giá trị trung bình (GTTB) của mỗi mục trên thang ba mức được thể hiện trong
Bảng 1.
Bảng 1. Đánh giá của nhà tuyển dụng về năng lực làm việc hiện tại của cựu sinh viên
Số đối tượng
GT
TB
Độ
lệch
chuẩn
Tối
thiểu
Tối
đa
Hợp lệ
Không
hợp lệ
Kiến thức và hiểu biết chuyên ngành 30 0
Các kỹ năng thao tác nghiệp vụ 30 0 2,23 0,430 2 3
Khả năng phân tích và xử lý tình huống 30 0 2,07 0,450 1 3
Khả năng làm việc độc lập 30 0 2,30 0,466 2 3
Khả năng làm việc nhóm 30 0 2,17 0,461 1 3
Kỹ năng soạn thảo văn bản 30 0 2,13 0,571 1 3
Kỹ năng giao tiếp 30 0 2,13 0,507 1 3
Khả năng sử dụng công nghệ thông tin 30 0 2,30 0,596 1 3
Khả năng sử dụng ngoại ngữ trong công
việc
30 0 2,07 0,740 1 3
Năng lực tiếp cận và giải quyết các vấn
đề phức tạp
30 0 1,87 0,507 1 3
Khả năng tự học và nâng cao kiến thức
chuyên môn và các kỹ năng
30 0 2,33 0,479 2 3
Nhận thức được về những tác động xã
hội trong chuyên môn
30 0 2,17 0,592 1 3
Tự tin và tự chủ trong giao tiếp với
người nước ngoài
30 0 1,90 0,662 1 3
Năng lực nghiên cứu các vấn đề thuộc
lĩnh vực công tác
30 0 2,13 0,507 1 3
Khả năng tự lập trong việc đưa ra quyết
định giải quyết vấn đề
30 0 2,03 0,615 1 3
Ý thức tổ chức kỷ luật 30 0 2,63 0,556 1 3
Bảng 1 cho thấy, trình độ tiếng Anh và ý thức kỷ luật là hai phẩm chất nhận được
sự đánh giá cao của nhà tuyển dụng (tương ứng 2,50 và 2,63, với SD là 0,509 và 0,556).
Ba phẩm chất tiếp theo được đánh giá tốt là khả năng tự học và nâng cao kiến thức
chuyên môn, khả năng sử dụng công nghệ thông tin và khả năng làm việc độc lập
(tương ứng là 2,33, 2,30, và 2,30). Năm phẩm chất có hệ số kỳ vọng cao hơn trung bình
một ít là kỹ năng thao tác nghiệp vụ (2,23), khả năng làm việc theo nhóm (2,17), nhận
thức được về tác động xã hội trong chuyên môn (2,17), kỹ năng giao tiếp (2,13) và năng
164
lực nghiên cứu học thuật làm việc (2,13). Khả năng tự lập trong việc đưa ra quyết định
giải quyết vấn đề, khả năng phân tích và xử lý các tình huống, và khả năng sử dụng
ngoại ngữ trong công việc có chỉ số khoảng trên trung bình (tương ứng 2,03, 2,07, 2,07)
được giải thích là về cơ bản đáp ứng yêu cầu nhà tuyển dụng. Hai phẩm chất mà nhận
được đánh giá thấp nhất là năng lực tiếp cận và giải quyết các vấn đề phức tạp (1,87),
và sự tự tin và tự chủ trong giao tiếp với người nước ngoài (1,90).
3.1.2. Đánh giá của nhà tuyển dụng về năng lực của cựu sinh viên trường
ĐHNN - ĐHH và các trường đại học khác (Nhóm 2)
Nhà tuyển dụng đánh giá năng lực của cựu sinh viên trường ĐHNN - ĐHH so
với cựu sinh viên của các trường đại học khác theo 3 mức độ: 1: mạnh hơn; 2: tương
đương; và 3: yếu hơn.
Bảng 2. So sánh năng lực làm việc của cựu sinh viên trường ĐHNN - ĐHH
và cựu sinh viên của các trường đại học khác
Số đối
tượng
Tối
thiểu
Tối đa GTTB
Độ lệch
chuẩn
Kiến thức chuyên môn 30 1 3 2,47 0,571
Kỹ năng thực hành 30 1 3 2,20 0,484
Tinh thần học hỏi, cầu tiến 30 1 3 2,40 0,563
Khả năng giao tiếp 30 1 3 2,00 0,587
Khả năng thích ứng với môi trường
làm việc
30 1 3 2,20 0,551
Tính chủ động trong xử lý các tình
huống chuyên môn
30 1 3 2,13 0,681
Ý kiến khác (khả năng sinh hoạt văn
thể mỹ…)
3 2 3 2,33 0,577
Từ bảng 2 chúng tôi có thể nhận thấy, hầu như tất cả những tiêu chí đưa ra đều
được đánh giá là tương tự và mạnh hơn. Kiến thức chuyên môn (tiếng Anh) và tinh thần
học hỏi và cầu tiến và khả năng sinh hoạt văn thể mỹ (không có trong bảng câu hỏi)
nhận đánh giá tích cực từ các nhà tuyển dụng với giá trị trung bình tương ứng là 2,47,
2,40, và 2,33. Ba phẩm chất tiếp theo được đánh giá trong khoảng từ mạnh hơn đến
tương đương bao gồm kỹ năng thực hành (2,20), khả năng thích ứng với môi trường
làm việc (2,20), và tính chủ động trong xử lý tình huống chuyên môn (2,13). Chỉ có khả
năng giao tiếp được cho là tương đương (2,00).
3.1.3. Yêu cầu của nhà tuyển dụng về chất lượng nguồn nhân lực (Nhóm 3)
Nhà tuyển dụng yêu cầu về chất lượng nguồn nhân lực của sinh viên tốt nghiệp
trường ĐHNN - ĐHH trong tương lai ở 3 mức độ cần thiết: từ 1 (không cần thiết) đến 3
(rất cần thiết). Kết quả được thể hiện ở Bảng 3.