Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

BIẾN CHỨNG NIỆU KHOA TRONG GHÉP THẬN pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (107.15 KB, 7 trang )

BIẾN CHỨNG NIỆU KHOA TRONG GHÉP THẬN


TÓM TẮT
Mục tiêu: Nghiên cứu này nhằm mục đích đánh giá bước đầu các biến chứng niệu
khoa trong những trường hợp ghép thận tại Bệnh viện 115.
Phương pháp: Từ 2/2004 đến 12/2007 chúng tôi tiến hành ghép thận cho 20 bệnh
nhân suy thận mãn giai đoạn cuối trên người cho thận sống. Tất cả các trường hợp
đều được thực hiện kỹ thuật cắm niệu quản vào bàng quang theo phương pháp
Lich – Gregoir.
Kết quả:Tỉ lệ biến chưng niệu khoa là 0,5%, bao gồm 1 trường hợp dò niệu quản.
Kết luận: ghép thận với kỹ thuật cắm niệu quản vào bàng quang theo phương
pháp Lich-Gregoir cho tỉ lệ biến chứng niệu khoa thấp và dễ thực hiện.
ABSTRACT
THE UROLOGICAL COMPLICATIONS IN RENAL TRANSPLANTATION
WITH A LICH-GREGOIR URETEROVESICAL REIMPLANTATION
TECHNIQUE
Vo Phuoc Khuong * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 - No 1 – 2008: 40- 42
Aims: this study was to initially evaluate of urological complications in renal
transplantations in the 115 hospital.
Methods: From February 2004 to December 2007, we performed 20 kidney
transplant recipients from living donors with a Lich-Gregoir ureterovesical
reimplantation technique.
Results: The incidence of urological complications was 0.5%, included one case
of urinary leak.
Conclusions: the renal transplantation with a Lich-Gregoir technique has low
urological complication rate and technical easy to perform.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Biến chứng niệu khoa sau ghép thận nếu không được phát hiện sớm và xử trí kịp
thời có thể dẫn đến mất thận ghép và gây tử vong. Thông thường các biến chứng
niệu khoa xuất hiện sau ghép phần lớn có liên quan đến kỹ thuật cắm niệu quản


vào bàng quang. Trong ghép thận có nhiều phương pháp cắm lại niệu quản vào
bàng quang và có nhiều quan điểm khác nhau trong việc sử dụng phương pháp
cắm ngoài bàng quang hoặc trong bàng quang cũng như có hoặc không chống trào
ngược
(1)
. Tuy nhiên, hiện nay phương pháp cắm ngoài bàng quang được các nhà
phẫu thuật ghép ưa thích sử dụng hơn do tỉ lệ biến chứng thấp và kỹ thuật dễ thực
hiện hơn
(1,2)
.

ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu
Bao gồm các trường hợp được ghép thận tại bệnh viện 115 từ tháng 2/2004 đến
tháng 12/2007. Tất cả các trường hợp đều được thực hiện kỹ thuật cắm niệu quản
vào bàng quang theo phương pháp Lich – Gregoir.
Phương pháp tiến hành
Thận ghép sau khi được lấy ra từ người cho sống được rửa với dung dịch
Eurocholin. sau đó được đặt vào vị trí ghép ở người nhận (hố chậu phải hoặc trái).
Trong hầu hết các trường hợp, tĩnh mạch thận nối tận bên với tĩnh mạch chậu
ngoài, động mạch thận nối tận bên với động mạch chậu ngoài.
Niệu quản thận ghép cắm vào mặt trước bên bàng quang người nhận theo phương
pháp Lich – Gregoir, tiến hành như sau:
Bàng quang được làm căng với 150ml dung dịch nước muối sinh lý có pha ít dung
dịch Betadin. Cắt 3cm cơ bàng quang ở mặt trước bên, bóc tách cơ cho đến lớp
niêm mạc bàng quang. Niệu quản được cắt một đoạn dài thích hợp và đảm bảo
tưới máu tốt. Cắt vát miệng niệu quản. Cắt mở một lỗ nhỏ ở niêm mạc bàng
quang. Khâu nối miệng niệu quản với niêm mạc bàng quang bằng chỉ PDS 5.0.
Khâu đóng lớp cơ bàng quang bằng chỉ Vicryl 3.0 tạo thành một đường hầm với
một đoạn niệu quản nằm bên trong.

Có hoặc không đặt thông JJ niệu quản.
Thông Foley niệu đạo.
Dẫn lưu vết mổ.
Phát đồ thuốc ức chế miễn dịch bao gồm: Corticoid + Cellcept + Tarcolimus hoặc
Cyclosporin.
Theo dõi hậu phẫu bao gồm các dấu hiệu lâm sàng và làm các xét nghiệm sinh
hóa. Siêu âm để phát hiện các biến chứng. Siêu âm Doppler thận ghép để theo dõi
tưới máu thận.
Cấy nước tiểu sau ghép.

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Từ tháng 2/2004 đến tháng 12/2007 chúng tôi đã tiến hành ghép thận cho 20 bệnh
nhân bị suy thận mãn giai đoạn cuối từ người cho thận sống. Trong đó, nam giới
có 11 trường hợp (55%) và nữ giới có 9 trường hợp (45%). Độ tuổi trung bình là
41,8 tuổi, nhỏ nhất là 20 tuổi và lớn nhất là 67 tuổi.
Mức độ tương hợp hệ HLA là 1/6 yếu tố trong 2 trường hợp, 2/6 yếu tố trong 2 trường
hợp, 3/6 yếu tố trong 7 trường hợp, 4/6 yếu tố trong 5 trường hợp, 5/6 yếu tố trong 3
trường hợp và có 1 trường hợp tương hợp hoàn toàn 100%.
Đặt thông JJ niệu quản có 11 trường hợp (55%), không đặt thông JJ niệu quản có 9
trường hợp (45%).
Biến chứng niệu khoa chỉ có 1 trường hợp (tỉ lệ: 0,5%). Đây là trường hợp dò
nước tiểu xảy ra trên trường hợp có đặt thông JJ niệu quản. Vị trí do là ở khúc nối
bể thận niệu quản.
Tất cả các trường hợp cấy nước tiểu sau ghép đều âm tính.

BÀN LUẬN
Nghiên cứu của chúng tôi được thực hiện trên những trường hợp được ghép thận
tại cùng một trung tâm với cùng một kỹ thuật cắm niệu quản vào bàng quang, cho
tỉ lệ biến chứng niệu khoa thấp (0,5%). Trong các báo cáo gần đây, tỉ lệ biến
chứng niệu khoa thay đổi từ 1% đến 15%

(3,4,6,7,9)
. Sự khác nhau này có thể là do
một số tác giả bao gồm cả tụ dịch bạch huyết vào biến chứng niệu khoa, một số tác
giả khác thì bao gồm cả nhiễm trùng niệu
(1)
. Nghiên cứu của chúng tôi không có
trường hợp nào tụ dịch bạch huyết và tất cả các trường hợp đều có kết quả cấy
nước tiểu âm tính sau ghép.
Trong các biến chứng niệu khoa, dò nước tiểu là biến chứng thường gặp nhất
(8)
. Vị
trí dò có thể là ở bàng quang, niệu quản hoặc bể thận. Nguyên nhân gây dò có thể
do nguyên nhân kỹ thuật khi cắm niệu quản vào bàng quang nhưng đa số tác giả
cho rằng nguyên nhân là do thiếu máu nuôi niệu quản làm niệu quản bị hoại tử và
gây dò
(1,5)
. Một số tác giả khác cho rằng nguyên nhân gây dò ở những niệu quản
có đặt thông bên trong là do thông đè ép vào thành niệu quản gây hoại tử và dẫn
đến thủng niệu quản
(8)
. Trong nghiên cứu của chúng tôi có 1 trường hợp dò niệu
quản, xảy ra ở trường hợp niệu quản có đặt thông JJ, vị trí dò ở chỗ nối bể thận –
niệu quản. Chúng tôi tiến hành mổ mở khâu lại lỗ dò, bệnh nhân ổn định và được
xuất viện.

KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu chúng tôi nhân thấy kỹ thuật cắm niệu quản vào bàng quang theo
phương pháp Lich-Gregoir trong ghép thận cho tỉ lệ biến chứng niệu khoa thấp và
là kỹ thuật dễ thực hiện.
Bảo tồn mạch máu cung cấp máu cho niệu quản trong phẫu thuật là rất quan trọng

trong việc phòng ngừa các biến chứng niệu khoa đặc biệt là dò nước tiểu.

×