Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

ĐIỀU TRỊ GIUN MÓC CỦA ALBENDAZOLE 400MG ĐƠN LIỀU pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (175.77 KB, 17 trang )

ĐIỀU TRỊ GIUN MÓC CỦA ALBENDAZOLE 400MG ĐƠN LIỀU


TÓM TẮT
Mục tiêu: xác định hiệu quả tẩy giun móc của Albendazole 400mg đơn liều
tại cộng đồng xã Phạm Văn Cội, huyện Củ Chi, TP. HCM từ 7/2006 đến
9/2006.
Phương pháp và đối tượng nghiên cứu: thử nghiệm lâm sàng không nhóm
chứng tiến hành trên 237 đối tượng được chọn theo phương pháp mẫu cụm 2
bậc (chọn cụm xác suất tỉ lệ theo cỡ và chọn mẫu ngẫu nhiên hệ thống). Xét
nghiệm phân bằng kỹ thuật định lượng Kato – Katz để đo lường tỉ lệ, cường
độ nhiễm trung bình trước và sau điều trị, tỉ lệ giảm và sạch trứng. Phân tích
số liệu bằng Sata 8.0.
Kết quả: tỉ lệ nhiễm giun móc là 37,56%. Trung bình nhân cường độ nhiễm
của cộng đồng là 9,57 trứng/gram phân. Nhiễm nhẹ chiếm 83,12%, nhiễm
vừa và nhiễm nặng như nhau (8,44%). Sau 7 ngày điều trị, tỉ lệ giảm trứng là
85,16%. Tỉ lệ sạch trứng ở ngày thứ 7, thứ 14 lần lượt là 79,32% và 64,13%.
Kết luận: xã PVC được xếp vào cộng đồng nhiễm giun móc nhóm III nhưng
ấp 5 có nguy cơ thuộc nhóm I. Albendazole 400 mg đơn liều tác dụng tốt
trong tẩy giun móc trên cộng đồng (ngày thứ 14 sau điều trị). Tuy nhiên,
thuốc chưa hiệu quả trên nhóm nhiễm nặng.
ABSTRACT
Objective: To evaluate the effectiveness of Albendazole 400mg in single
dose for hookworm treatment in Pham Van Coi commune, Cu Chi district,
HCM city from July to September of 2006.
Method: A non-controlled clinical trial was conducted among 631 samples
chosen by two-steps cluster sampling (probability proportionate to size cluster
sampling and system random sampling) and detected with Kato-Katz method.
Prevalence, average infestation intensity before and after treatment, egg
reduction rate, cure rate were measured. Stata 8.0 software is used to analyse
data.


Result: The hookworm prevalence is 37.56%. The geometric mean of
hookworm infestation intensity is 9.57 eggs per gram of feces. Low-infested
percentage is 85.16%, both medium and high-infested percentages are 8.44%.
After treatment, egg reduction rate (EER) is 85.16% at the 7
th
day, cure rate
(CR) at the 7
th
and 14
th
days are 79.32% and 64.13%, respectively. The cure
rate of Albendazole was limited among the highly infested group.
Conclusion: Pham Van Coi commune, Cu Chi district, HCM city belong to
hookworm infested community of group III, among them, residents of village 5
have the risk of group I. Albendazole 400 mg in single dose has good
effectiveness in mass treatment (14
th
day), but hasn’t so good one among the
highly infested group.
Recommendations: for greatest achievement of mass deworming, pre- and
post-intervention evaluations should be conducted; and health education
against intestinal parasites should be given to the community. For the
commune of Phạm Văn Cội, besides all schoolchildren as the priority target,
the whole community of village 5 should be mass-treated, and re-infestation
rate should be evaluated to determine the appropriate periodicity of mass
deworming.

ĐẶT VẤN ĐỀ
Nhiễm giun móc là một bệnh phổ biến ở Việt Nam, trong đó, huyện Củ Chi,
TP. HCM là vùng dịch tễ với tỉ lệ nhiễm từ 38,4 – 50,6%

(4,5)
. Bệnh có thể gây
thiếu máu, thiếu sắt, chậm phát triển tâm thần vận động ở trẻ nhỏ, gây sanh
non, sẩy thai ở phụ nữ nhiễm nặng. Với tính phổ biến và tác hại không nhỏ trên
cộng đồng, việc áp dụng một liệu pháp tẩy giun đại trà hiệu quả cao nhưng đơn
giản, dễ sử dụng là điều cần thiết. Mebendazole và Albendazole đơn liều được
tổ chức Y tế Thế giới (TCYTTG) khuyến cáo sử dụng rộng rãi hơn 10 năm
nay. Ở Việt Nam, chương trình Quốc Gia Phòng Chống Giun Sán đã và đang
tiến hành chiến lược tẩy giun hàng loạt cho một số vùng nhưng không đánh giá
trước và sau can thiệp. Liệu rằng phác đồ Albendazole 400mg đơn liều thật sự
phù hợp cho tất cả các vùng dịch tễ trong khi mỗi địa phương sẽ có đặc điểm
riêng về tình hình nhiễm? Vì vậy, câu hỏi được đặt ra là”hiệu quả tẩy giun móc
của Albendazole 400mg đơn liều tại cộng đồng xã Phạm Văn Cội, huyện Củ
Chi, TP. HCM hiện nay như thế nào?”. Từ đó khảo sát này được tiến hành để
tìm câu trả lời cụ thể.
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu là xác định hiệu quả tẩy giun móc (tỉ lệ nhiễm, cường độ
nhiễm trước và sau điều trị, tỉ lệ sạch trứng, tỉ lệ giảm trứng) của Albendazole
400mg đơn liều trong điều trị giun móc tại cộng đồng dân cư xã Phạm Văn
Cội, huyện Củ Chi, TP. HCM từ tháng 7/2006 đến tháng 9/2006

ĐỐI TƯỢNG & PHƯƠNG PHÁP
Thử nghiệm lâm sàng không nhóm chứng được tiến hành từ 7/2006 đến 9/2006
với mong muốn ứng dụng kết quả vào cộng đồng nhiễm giun móc của xã Phạm
Văn Cội (PVC). Đối tượng nghiên cứu rút ra từ phương pháp chọn mẫu cụm 2
bậc. Bậc 1, xác định 30 cụm (30 tổ) bằng kỹ thuật chọn mẫu xác suất tỉ lệ theo
cỡ (PPS). Chọn mẫu ngẫu nhiên hệ thống ở bậc 2 để xác định 7 hộ/cụm. Các
thành viên trong hộ được đưa vào nghiên cứu nếu thỏa các tiêu chí chọn mẫu: >
2 tuổi, không uống thuốc tẩy giun trong vòng 4 tháng, xét nghiệm phân dương
tính với giun móc, giao tiếp được, không chống chỉ định dùng Albendazole và

đồng ý tham gia.
Cỡ mẫu tính cho từng mục tiêu dựa trên các thông số tham khảo rút ra từ
nghiên cứu thử. Áp dụng công thức tính cỡ mẫu để ước lượng một tỉ lệ đối với
mục tiêu về tỉ lệ nhiễm, tỉ lệ sạch trứng (p = 31%, p = 87,9%); ước lượng số
trung bình trong dân số đối với mục tiêu về cường độ nhiễm, tỉ lệ giảm trứng (=
3,06; = 38,71). Để đánh giá tỉ lệ nhiễm và cường độ nhiễm trước – sau điều trị,
sử dụng công thức tính cỡ mẫu so sánh hai tỉ lệ (p
a
= 31%; p
o
= 4%) và so sánh
hai số trung bình (µ
0
= 1,08; µ
a
= 7,21) trong một dân số. Như vậy, với độ tin
cậy 95%, độ mạnh 10%, sai số cho phép từ 6 – 10% tùy mục tiêu, cỡ mẫu tối
thiểu cần để đánh giá hiệu quả tẩy giun móc của Albendazole 400mg đơn liều
là 204, do đó, số đối tượng cần xét nghiệm phân là 725.
Thu thập số liệu bằng kỹ thuật xét nghiệm phân Kato-Katz (trước điều trị; ngày
thứ 7, thứ 14 sau điều trị) và phỏng vấn trực tiếp dựa trên bảng câu hỏi cấu
trúc. Ghi nhận tác dụng phụ trong vòng 48 giờ sau uống thuốc. Xử lý số liệu
bằng Stata 8.0. Mô tả các biến định tính bằng tần số, tỉ lệ; biến định lượng bằng
trung bình nhân. OR, khoảng tin cậy 95%, test 
2
, 
2
MacNemar, T-Willoxon,
Kruskal Wallis được sử dụng để phân tích sự khác biệt của các biến số. Trình
bày kết quả dưới dạng bảng.


KẾT QUẢ
Bảng 1: Đặc điểm mẫu nghiên cứu (N = 631)
Đặc tính Tần số Tỉ lệ (%)
Nam 283 44,85 Giới
Nữ 348 55,15
2 – 15
184 29,16
Lớp
tuổi
16 – 50
314 49,76
Đặc tính Tần số Tỉ lệ (%)
> 51
133 21,08
Ấp 1 – 2 101 28,68
3 251 39,78
4 108 17,12
5 91 14,42
Giun móc (+) 237 37,56

Mẫu nghiên cứu phân bố phù hợp với tình hình dân số xã PVC. Số trường hợp
nhiễm giun móc cần để đánh giá điều trị là 237 (37,56%), vượt cỡ mẫu tính
toán theo công thức (204).

Bảng 2: Cường độ nhiễm của mẫu (N = 631)
Cường độ nhiễm Tần số %
Nh
ẹ 197 83,12
Vừa 20 8,44

N
ặng 20 8,44
Trung bình nhân :
9,57 (7,53 – 12,16) trứng/1gr phân
Trung bình nhân cường độ nhiễm (CĐN) của cộng đồng ở mức độ nhẹ; chỉ 1/6
trường hợp nhiễm vừa hoặc nặng.

Bảng 3: Tỉ lệ và cường độ nhiễm trung bình nhân theo giới, nhóm tuổi và ấp.
% P
(1)
CĐN P
(2)

Nam

52,32

5,06 (10,3-
22,0)
Nữ 47,68

0,00

6,61 (4,89-
8,95)
0,00

2-15 17,42

4,11 (2,76-

6,12)
16-
50
58,22

0,00

13,4 (9,53-
18,9)
0,00

% P
(1)
CĐN P
(2)

> 51 24,05

13,8 (7,93-
24,1)
1-2 20,68

5,12 (3,37-
7,78)
3 36,28

7,56 (5,26-
10,9)
4 18,56


10,5 (5,9-
10,96)
5 24,47

0,01

56,8(28,4-
113,6)
0,00

(1)

2
,
(2)
Kruskal – Wallis
Tỉ lệ và cường độ nhiễm cao ở nam giới, tăng dần theo độ tuổi. Ấp 5 có cường
độ nhiễm cao nhất xã.

Bảng 4: Tỉ lệ và cường độ nhiễm trung bình nhân trước và sau điều trị
Trước  Sau 

N
o
N
7
N
14

p

% 37,57 7,77 13,47

0,00
(1)

CĐN

9,57
(7,53-
12,16)
1,43
(1,29-
1,58)
0,00
(2)

(1)

2
Mac – Nerma,
(2)
T – Willcoxon
Sự khác biệt một cách thống kê về tỉ lệ, cường độ nhiễm trung bình trước và
sau điều trị

Bảng 5: So sánh các nhóm cường độ nhiễm trước và sau điều trị (n = 49)
CĐN
Trước 
(n,
%)

Sau 
(n,
%)
p
Nh
ẹ 197 (83,12) 48 (97,96) 0,00
Vừa 20 (8,44) 0 0,03
N
ặng 20 (8,44) 1 (2,04) 0,14
Sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê trong nhóm nhiễm nặng (
2
)

Bảng 6: Tỉ lệ giảm trứng và tỉ lệ sạch trứng sau điều trị
Tỉ lệ sạch trứng ngày thứ 7 và
thứ 14 khác biệt một cách
thống kê (
2
Fisher
)

Bảng 7: Tỉ lệ giảm trứng và
sạch trứng phân bố theo giới, nhóm tuổi và ấp

% p
(1)
Giảm trứng p
(2)

Nam


54,03

83,85 (73,51-
95,64)
Nữ 75,22

0,00

91,51 ( 83,97-
99,7)
0,17

2-15

54,76

84,06 (66,94-
105,6)
16- 70,88

0,14

9,68 (81,25-
0,31


N
7
N

14
p
Giảm trứng 87,42 (80,71-
94,67)

Sạch trứng 79,32 64,13 0,00

% p
(1)
Giảm trứng p
(2)

50 98,89)
> 51

64,91

84,58 (71,50-
10,05)
1-2 67,43

85,23 (69,35-
104,8)
3 64,44

98,56 (97,13-
100,0)
4 68,11

75,80 (55,63-

101,6)
5 53,44

0,36

83,90 (71,17-
98,91)
0,02

(1)

2
,
(2)
Kruskal – Wallis

BÀN LUẬN
Theo bảng 1, trong 631 trường hợp được xét nghiệm phân, các đối tượng thuộc
lứa tuổi lao động từ 16 – 50, phái nữ, cư trú tại ấp 3 chiếm tỉ lệ cao nhất
(55,15%, 49,76%, 39,78%), phù hợp với thống kê dân số của xã Phạm Văn Cội
năm 2005. Kết quả xét nghiệm phân cho phép xác định 237 bệnh nhân đưa vào
đánh giá hiệu quả tẩy giun, vượt quá cỡ mẫu tối thiểu dự tính theo công thức, N
= 204. Vì thế hạn chế được khả năng sai lệch do cơ hội trong các kết quả thu
thập được.
Tỉ lệ và cường độ nhiễm trước, sau điều trị
Tỉ lệ nhiễm giun móc trong cộng đồng là 37,56% (bảng 1), thấp hơn đánh giá
vào những năm trước ở các xã khác trong huyện cũng như các vùng kế cận
(47,5% – 50,6%)
(5,8)
, nhưng tương đồng với kết quả điều tra năm 2006 của Lê

Đức Vinh tại xã Phú Hòa Đông (38,4%)
(4)
. Có lẽ do những năm gần đây huyện
Củ Chi nói chung và xã PVC nói riêng đã cải thiện hơn về kinh tế, điều kiện
lao động như mang găng, đi ủng khi làm việc tiếp xúc với đất ở các nông
trường cao su. Ngoài ra, ý thức tẩy giun định kỳ cũng bao phủ rộng hơn trong
cộng đồng. Mặc dù vậy, con số 37,56% vẫn không nhỏ, chứng tỏ nơi đây vẫn
còn nhiều yếu tố nguy cơ cho giun móc tồn tại và phát triển. Hơn 50% diện tích
đất là nông trường cao su, rất thuận lợi cho ấu trùng giun móc tồn tại. Các tập
quán như bón phân người chưa ủ kỹ (thậm chí ở các nông trường cao su), tay
trần chân đất khi làm ruộng rẫy, đi tiêu bừa bãi … chưa được kiểm soát hoàn
toàn. Mặt khác, việc xổ giun định kỳ chỉ được thực hiện đều đặn ở lứa tuổi mẫu
giáo trong khi xã PVC là vùng dịch tễ và theo y văn, người trong độ tuổi lao
động có nguy cơ nhiễm giun móc cao nhất.
Bảng 2 cho thấy cường độ nhiễm giun móc trung bình trong xã là 9,57 trứng/1g
phân, thuộc mức độ nhẹ. Chi tiết hơn, 83,12% đối tượng có cường độ nhiễm
nhẹ; 8,44% ở mỗi nhóm nhiễm vừa và nhiễm nặng. Theo phân loại của
TCYTTG (WHO), cộng đồng xã PVC là cộng đồng nhiễm giun móc nhóm
III
(9)
. Al – Mekhlafi
(3)
và Nguyễn Văn Cường
(7)
chỉ ghi nhận 4,4% và 3%
nhiễm nặng. Mẫu điều tra của Lương Văn Định
(6)
không thể hiện bất kỳ trường
hợp nhiễm nặng nào. Các tác giả này đều khảo sát trên trẻ học đường, nhóm có
nguy cơ nhiễm thấp hơn nên sự tích lũy số lượng giun trong cơ thể cũng thấp

hơn. Mặc dù trước đây chưa có đánh giá nào về cường độ nhiễm giun móc ớ
các xã khác trong huyện nên không thể so sánh, nhưng tỉ lệ 8,44% nhiễm nặng
là một con số đáng quan tâm, xấp xỉ 10% của xếp loại cộng đồng nhóm I
(9)
. Bởi
lẽ, việc tiến hành điều trị sẽ hoàn toàn khác nhau giữa cộng đồng nhóm I và
nhóm III. Điều này nhấn mạnh rằng chiến lược tẩy giun cần phải phù hợp với
tình hình nhiễm của từng địa phương, không thể triển khai một cách máy móc
và”đơn điệu”.
Tỉ lệ và cường độ nhiễm cao vượt trội ở nam giới và tăng dần theo độ tuổi
(bảng 3). PVC là huyện ngoại thành, nghề nông vẫn chiếm ưu thế và thường do
phái nam đảm nhiệm nên có khả năng nhiễm giun móc cao hơn, phù hợp với y
văn :”giới nào làm việc tiếp xúc đất nhiều hơn sẽ có nguy cơ nhiễm giun móc
cao hơn”
(9)
. Mặt khác, trẻ nam thường chơi các trò liên quan đến đất nhiều hơn.
Cường độ nhiễm nặng nhất trong nhóm hơn 51 tuổi, do các đối tượng này đã bị
nhiễm, chưa được điều trị và có hiện tượng cộng đồn về mật độ nhiễm. Ấp 5 là
nơi nghèo nhất và điều kiện vệ sinh thấp kém nên tỉ lệ và cường độ nhiễm nơi
đây cao nhất xã.
Sau điều trị, bảng 4 thể hiện sự giảm rõ rệt tỉ lệ và cường độ nhiễm, tạo khác
biệt một cách thống kê. Khi xét tỉ lệ nhiễm vào ngày thứ 14, kết quả cho thấy
sự dương tính trở lại so với ngày thứ 7. Hiện tượng này có thể do giun trưởng
thành chỉ bị ức chế tạm thời vì với liều duy nhất 400mg Albendazole, chưa thể
bao phủ tất cả giun trưởng thành, đặc biệt trong trường hợp nhiễm nặng. Thật
vậy, so sánh các mức độ nhiễm trước và sau điều trị, sự chuyển đổi từ nhóm
nhiễm nặng và một phần nhóm nhiễm vừa sang nhóm nhiễm nhẹ được trình
bày rất cụ thể trong bảng 5. Nếu xét riêng nhóm nhiễm nặng, sự thay đối này đã
không tạo khác biệt về mặt thống kê so với trước điều trị (p = 0,14). Như vậy,
một lần nữa, Albendazole 400mg đơn liều chưa đủ để diệt sạch giun trong

những trường hợp nhiễm nặng. Nhận định này phù hợp với khuyến cáo của
TCYTTG : nên điều trị liều thứ 2 cho các trường hợp nhiễm nặng
(9)
.
Tỉ lệ giảm trứng và sạch trứng
Với tỉ lệ sạch trứng 64,13% sau 14 ngày điều trị và tỉ lệ giảm trứng 87,42%
(bảng 6) cho phép kết luận Albendazole 400mg đơn liều vẫn tác dụng tốt trong
điều trị giun móc tại cộng đồng
(9)
. Tuy nhiên vì 64,13% xấp xỉ với mức 60% là
giới hạn dưới của xếp loại hiệu quả tốt trong điều trị giun móc, thiết nghĩ, liệu
thuốc còn cho tác dụng tốt hay không nếu việc theo dõi hiệu quả thuốc kéo dài
21 ngày hoặc lâu hơn như một số báo cáo trên y văn ?
Vì tỉ lệ giảm trứng và tỉ lệ sạch trứng phụ thuộc chủ yếu vào tỉ lệ và cường độ
nhiễm, nên tỉ lệ và cường độ nhiễm cao sẽ cho hiệu quả tẩy sạch giun thấp, điều
này thể hiện rõ trong giới nam và đặc biệt ở ấp 5 (bảng 7). Nói cách khác, các
hành vi nguy cơ đã dẫn đến tỉ lệ và mật độ nhiễm giun móc cao, do đó, hạn chế
hiệu quả điều trị. Như vậy, chiến lược tẩy giun sẽ không hoàn hảo nếu chỉ đơn
thuần tiến hành điều trị hàng loạt mà không kết hợp với tuyên truyền giáo dục
phòng ngừa bệnh.

KẾT LUẬN
Thử nghiệm lâm sàng là thiết kế phù hợp để giải quyết mục tiêu. Với cỡ mẫu
tính toán dựa trên nghiên cứu thử, chọn mẫu theo phương pháp thích hợp và
tuân thủ các tiêu chí đề ra, các sai lệch được kiểm soát tối đa nên các kết quả
thu được là đáng tin cậy. Tuy nhiên, nếu có nhóm chứng, bản chất của vấn đề
sẽ được bộc lộ rõ nét và mạnh mẽ hơn. Mẫu nghiên cứu phân bố tương tự với
tình hình dân số của xã theo tuổi, giới và ấp nên có thể đại diện cho dân số
trong xã.
Với tỉ lệ nhiễm 37,56%, trung bình nhân cường độ nhiễm xấp xỉ 10 trứng/ gam

phân và 83,12% bệnh nhân nhiễm ở mức độ nhẹ nên xã PVC được xếp vào
nhóm cộng đồng nhiễm giun móc nhóm III. Tuy nhiên vẫn còn 8,44% trường
hợp nhiễm nặng và ấp 5 có nguy cơ thuộc nhóm I. Vì vậy, Albendazole 400mg
đơn liều, mặc dù có tác dụng tốt trong tẩy giun hàng loạt cho cộng đồng (tỉ lệ
giảm trứng 87,42%; sạch trứng ngày 7
th
: 79,32%; ngày thứ 14
th
: 64,13%)
nhưng hiệu quả chưa thật sự cao ở các đối tượng nhiễm nặng.
Qua đó hiểu được rằng, khi áp dụng khuyến cáo của TCYTTG vào chiến lược
phòng chống giun sán ở nước ta nên tùy thuộc tình hình nhiễm giun của địa
phương để chương trình đạt hiệu quả tốt nhất. Đồng thời, giáo dục phòng ngừa
là bắt buộc cũng như cần tiến hành lượng giá trước và sau khi thực hiện chương
trình.
Đối với xã PVC, ngoài ưu tiên tẩy giun cho học sinh toàn xã, cần điều trị đại trà
cho tất cả cộng đồng ấp 5. Cần đánh giá tỉ lệ tái nhiễm để xác định khoảng thời
gian điều trị định kỳ thích hợp cho cộng đồng.

×