Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

TỰ TỬ Ở TRẺ VỊ THÀNH NIÊN docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.22 KB, 25 trang )

TỰ TỬ Ở TRẺ VỊ THÀNH NIÊN

TÓM TẮT
Tự tử ở trẻ em vị thành niên (VTN) là một vấn đề sức khỏe quan trọng ở
nhiều quốc gia trên thế giới.
Mục tiêu nghiên cứu: Mô tả đặc điểm dịch tễ và các yếu tố thúc đẩy hành
vi tự tử của trẻ VTN.
Phương pháp nghiên cứu: hồi cứu cắt ngang mô tả.
Kết quả: 120 trường hợp tự tử ở trẻ VTN được cấp cứu tại Bệnh viện Đa
khoa Tiền Giang trong 02 năm (từ tháng 01/2005 đến tháng 12/2006). - Tuổi trung
bình: 17,2, nhóm tuổi 17 – 19 tuổi chiếm 82%; nữ 55%, nam 45%, 50% là học
sinh. Phương tiện tự tử: 97,5% tự tử bằng hóa chất độc, trong đó thuốc trừ sâu
chiếm 35%, thuốc dưỡng cây 6,7%, thuốc chuột 9,7%, thuốc tân dược 35% có
2,5% tự tử bằng cách tự gây thương tích. 50% tự tử vào buổi trưa và chiều, 33,3%
tự tử vào buổi tối, 16,7% vào buổi sáng, 80% không báo cho gia đình hành vi tự tử
của mình. - Yếu tố thúc đẩy: 67% mâu thuẫn với cha mẹ, 10% thất bại trong học
tập, 66% trục trặc trong tình yêu, 5,8% mâu thuẫn với bạn bè, 1,5% biết mình bị
HIV/AIDS, 6,6% sau khi uống rượu say, 2,5% uống quá liều thuốc động kinh.
Qua nghiên cứu, tác giả đưa ra các kiến nghị thích hợp nhằm phòng chống hữu
hiệu tình trạng tự tử ở trẻ em VTN.
ABSTRACT
STUDY ON ATTEMPTING SUICIDE STATUS AMONG ADOLESCENT
PATIENTS
AT TIENGIANG GENERAL HOSPITAL
Ta Van Tram, Tran Thanh Hai, Huynh Cong Thanh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 – Supplement of No 4 – 2008: 147 – 153
Suicide among adolescent is considered as a burning health problem in
every countries around the world.
Objective: To decribe the epidemiological characteristics of attempting
suicide factors poromoting attempting suicide among adolescent
Method: retrospective descriptive study


Results: Including 120 adolescents attempting suicide received emergenuy
treatment at Tiengiang General Hospital in peroid of 2 years, from 2005 to 2006.
The average age of the children was 17.2 years, group of 17 – 19 years accounted
for 82%; Female accounted 55%, male accounted 45%; 50% of them were pupils.
Means for attempting suicide: 98% used poisonous chemicals, in which 41.5%
used pesticides, 1.7% used rodenticides, 6.7% used plant growth hormones, and
35% used medicines, 2.5% self – infliction, 8.3% herbicides. 50% of the cases
occurred at noon and afternoon, 16.7% occurred in the morning and 33,3%
occurred at night. Factors promoting the attempting suicides: 67% conflict with
their parents, 10%failure in learn study, 1.5% fall ills, 6.6% break – up with
lovers, 5.8% conflict with friends. Appropriate measures are recommended by the
author in this study for attempting suicide prevention among adolescents.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Vị thành niên là những người trong độ tuổi 10 – 19. Tuổi VTN là thời rạng
đông của một đời người, là giai đoạn đẹp nhất của một cuộc đời. Biết bao điều kỳ
diệu đến với tuổi VTN và cũng có những băn khoăn, bối rối trước sự thay đổi về cơ
thể và tâm sinh lý. Việc hiểu biết một cách đầy đủ về lứa tuổi VTN, các em sẽ có
hành vi đúng để chủ động bảo vệ sức khỏe của mình hôm nay và chuẩn bị tốt cho
cuộc sống tương lai
1
. Nhưng nếu sống trong một môi trường không tích cực, như
không được người lớn và bạn bè tin cậy, lo lắng thái quá về kết quả học tập, thất vọng
trong tình yêu, hụt hẫng trong các mối quan hệ hoặc xích mích với cha mẹ, bạn bè,
hoặc tìm đến rượu, thuốc lá, ma túy trẻ VTN dễ bị tổn thương tâm lý. Các trẻ VTN
có thể bất chấp tất cả để được “sống như mình muốn” và lúc đó, tai họa tự tử có thể
xảy ra. Tự tử là một vấn đề y tế quan trọng ở các nước trên thế giới
(Error! Reference source
not found.)
. Ở lứa tuổi VTN, tự tử là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây tử
vong. Tại Pháp, năm 1993, có 13.000 trường hợp trẻ VTN tử vong do tự tử. Những

hành vi tự tử gây nguy hiểm cho nạn nhân và thường để lại nhiều di chứng trên cơ thể
và tâm lý lâu dài
(Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.)
. Ở nước ta hiện
nay, tự tử ở trẻ VTN rất thường gặp trong đời sống xã hội, là nguyên nhân gây tử
vong đáng tiếc và để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng về sức khỏe và tinh thần
(Error!
Reference source not found.,Error! Reference source not found.)
. Xuất phát từ thực tế đó, chúng tôi tiến
hành đề tài này nhằm mục tiêu tìm hiểu các đặc điểm dịch tễ của các trẻ VTN tự tử,
một số yếu tố thúc đẩy hành vi tự tử của trẻ VTN. Qua đó, đề xuất một số biện pháp
điều trị và ngăn ngừa tự tử ở trẻ VTN ở nước ta.
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Hồi cứu mô tả.
Đối tượng nghiên cứu
- Tất cả các trường hợp tự tử ở trẻ VTN được cấp cứu tại Bệnh viện Đa khoa
Tiền Giang trong 2 năm, từ 01/01/2005 đến 31/12/2006.
- Dữ kiện được thu nhận vào biểu mẫu soạn sẵn và xử lý dữ kiện bằng chương
trình Epi – Info 6.
KẾT QUẢ
Giới
Nam: 54 (45 %); Nữ 66 (54%).
Tuổi
Bảng 1: Phân bố theo tuổi
Lứa
tuổi
Số ca Tỷ lệ %

10 –

13
tuổi
5 4%
14 –
16
tuổi
17 14%
17 –
19
tuổi
98 82%
Trẻ từ 17 – 19 tuổi tự tử nhiều, chiếm tỷ lệ 82%.
Nghề nghiệp.
Bảng 2: Nghề nghiệp.
Nghề
nghiệp
Số ca

T
ỷ lệ
%
Nghề
nghiệp
Số ca

T
ỷ lệ
%
Học sinh 60 50%
Làm ru

ộng
vườn
24 20%
Nội trợ 12 10%
Làm mướn

14 12%
Khác 10 8%
Địa chỉ
Bảng 3: Địa chỉ.
Địa chỉ

Số ca Tỷ lệ %

- M

26 21%
Tho
-
Châu
Thành
47 40%
- Ch

Gạo
17 14%
-
Cai
Lậy
11 9%

-
Huyện khác
13 11%
- T
ỉnh
khác
6 5%
Tình huống xung đột cấp
Bảng 4: Yếu tố thúc đẩy
Y
ếu tố thúc
Số Tỷ
đẩy ca lệ %
- B
ị cha mẹ la
rầy
80%

67%

- B
ị điểm
kém, lưu ban
12 10%

- Thất tình 8 6,6%

- Bu
ồn bạn
bè, cãi nhau

7 5,8%

- Sau u
ống
rượu
8 6,6%

- Biết m
ình
nhiễm HIV/AIDS
2 1,5%

- Đang đi
ều
trị động kinh
3 2,5%

Phương tiện tự tử
Bảng 5: Phương tiện tự tử
Phương ti
ện
tự tử
Số
ca
T
ỷ lệ
%
1) Thuốc:
- An th
ần,

thuốc ngủ
20

16,5%

- Cảm sốt 11

9%
- Khán
g
Histamin
5 4%
- Kháng sinh

2 1,5%
- Khác 5 4%
2) Hóa chất:
* Thu
ốc trừ
sâu

-
Phospho
hữu cơ
39

32,5%

- Carbamat 6 5%
- Chlor h

ữu

5 4%
* Thu
ốc diệt
cỏ
10

8,3%
* Nư
ớc rửa
bồn cầu
2 1,7%
* Dầu hỏa 2 1,7%
* Thu
ốc
dưỡng cây
8 6,7%
* Thu
ốc diệt
chuột
2 1,7%
3) T
ự gây
thương tích
3 2,5%
Cách tự tử
Bảng 6: Cách tự tử
Cách tự tử
Số

ca
T
ỷ lệ
%
- Uống 117

97,5%

- T
ự gây
thương tích
3 2,5%
Cách tự tử
Số
ca
T
ỷ lệ
%
- Tiêm chích

0 0
- Khác 0 0
Thời điểm tự tử
Bảng 7: Thời điểm tự tử
Thời điểm
S

ca
Tỷ l


%
- Sáng (6 giờ -
12 giờ)
20

16,7%

- Trưa (12 gi

- 16 giờ)
32

26,7%

- Chi
ều (16
28

23,3%

giờ - 19 giờ)
- Tối (19 giờ -
6 giờ)
40

33,3%

Địa điểm tự tử
Bảng 8: Địa điểm
Địa

điểm
Số ca

T
ỷ lệ
%
- Tại nhà

108 90%
-
Nơi
hoang vắng
12 10%
Hành vi sau tự tử
Bảng 9: Hành vi sau tự tử
Hành vi
S

Tỷ
ca lệ %
-
Không làm gì
đến khi gia đ
ình phát
hiện.
94

78%

- Báo cho m

ọi
người biết.
14

12%

- Xa lánh m
ọi
người.
12

10%

Hậu quả
Bảng 10: Hậu quả
Hậu
quả
Số ca

Tỷ lệ %

- Sống 111 92,5%
- Chết 9 7,5%
BÀN LUẬN
Tuổi
Trong độ tuổi VTN, còn chia ra làm 3 nhóm: từ 10 – 13 tuổi là giai đoạn đầu
VTN, 14 – 16 tuổi là giai đoạn giữa VTN và 17 – 19 tuổi là giai đoạn cuối VTN.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tự tử tăng dần theo tuổi, nhiều nhất là nhóm tuổi
cuối VTN, 17 – 19 tuổi (82%). Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của các tác giả
khác trên thế giới và trong nước

(Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.,Error!
Reference source not found.,Error! Reference source not found.)
. Với tuổi 10 – 13 tuổi, quan niệm về tự
tử của trẻ còn mơ hồ và không rõ ràng. Nguy cơ tăng dần khi trẻ ở tuổi giữa VTN; ý
nghĩ và hành vi tự tử nhiều hơn do những biến đổi sâu sắc về tâm lý và thể chất.
Nhóm tuổi tự tử nhiều nhất là nhóm tuổi cuối VTN. Ở nhóm tuổi này, nếu trẻ có nhân
cách vững vàng, ổn định, thường ít có nguy cơ tự tử, và ngược lại, ở trẻ có nhân cách
lệch lạc, yếu đuối, trầm cảm, thường dễ có nguy cơ tự tử hơn. Nhân cách được hình
thành từ một quá trình lâu dài với tác nhân là môi trường sống và nền giáo dục
(Error!
Reference source not found.,Error! Reference source not found.)
.
Giới
Trong nghiên cứu này, tỉ lệ nam/nữ là 1/1,22 so với các tác giả khác, tỉ lệ
nam/nữ trong khoảng 1/2 – 2/3
5,6,7
. Các trẻ nữ VTN dễ có nguy cơ tự tử hơn, do các
bé gái dậy thì sớm hơn, thường nhạy cảm với những thay đổi trong không khí của gia
đình, dễ bị mặc cảm tủi phận, bị bỏ rơi và thường xuyên có cảm giác lo lắng, đặc biệt
là các em hay bị lầm lẫn giữa tình yêu đích thực và tình bạn khác giới thân thiết. Khi
đã nhận ra 2 loại tình cảm này, các VTN thường thất vọng và đau khổ, thường không
kiềm chế được cảm xúc và sự đam mê, dễ dẫn đến những hậu quả đáng tiếc (quan hệ
tình dục và có thai ngoài ý muốn) hoặc dễ bị lạm dụng tình dục. Điều này làm cho trẻ
VTN nữ có ý định tự tử rất cao khi sự việc xảy ra
(Error! Reference source not found.,Error! Reference
source not found.)
.
Nghề nghiệp
Trong nghiên cứu của chúng tôi, mặc dù học sinh chiếm tỷ lệ cao nhất là 50%,
nhưng điều này nói lên rằng chỉ có một nửa trẻ VTN tự tử là được học hành tử tế, còn

lại các em vào đời quá sớm, có 42% trẻ VTN trong nhóm nghiên cứu nghỉ học ở nhà
làm ruộng vườn, hoặc làm mướn, nội trợ và 8% là không làm gì cả. Hiện nay Nhà
nước ta đang có những chính sách hỗ trợ đặc biệt, ưu tiên cho đào tạo nghề cho các
em, để giúp các em không thi đậu tốt nghiệp phổ thông trung học hoặc không đậu vào
các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên nghiệp có điều kiện theo học văn hóa
và học nghề tiếp tục, nhằm cung ứng cho xã hội lực lượng lao động đã qua đào tạo
nghề dồi dào và hạn chế tình trạng trẻ VTN vào đời quá sớm với nhiều nguy cơ, cạm
bẫy về các bạo lực tình dục, tệ nạn mãi dâm, ma túy dễ bị có thai ngoài ý muốn, nạo
phái thai không an toàn Tất cả sẽ để lại những hậu quả xấu về sức khỏe, tâm lý và
xã hội và là yếu tố nguy cơ dễ dẫn đến hành vi tự tử ở các em VTN.
Địa chỉ
Trẻ VTN tự tử ở rải rác khắp các huyện, thị, thành phố trong tỉnh và các tỉnh
lân cận nhưng nổi trội nhất là ở các huyện Châu Thành, Chợ Gạo và Thành phố Mỹ
Tho. Có thể do các nơi này nằm ở gần Bệnh viện Đa khoa Tiền Giang, thuận lợi cho
việc chuyển viện, ngoài ra, ở 2 huyện Châu Thành và Chợ Gạo, đa số người dân là
sống bằng nghề nông, ít có thời gian quan tâm, chăm sóc đúng mức cho trẻ nhằm phát
hiện những vấn đề tâm lý của trẻ để giúp đỡ kịp thời.
Yếu tố thúc đẩy
Nguyên nhân thường gặp nhất là do bất hòa trong gia đình, bị cha mẹ la mắng
(67%). Do tuổi các em đang lớn, có những biến đổi sâu sắc về thể chất và tâm lý
nhưng chưa hoàn chỉnh. Do vậy, quan hệ gia đình có vai trò to lớn trong việc tạo nên
cho trẻ những định hướng giá trị đúng với chuẩn mực xã hội. Bất hòa trong gia đình
tạo nên tính cách bi quan, chán nản, dễ bực tức, nóng nảy, bất cần. Những tình huống
xung đột xảy ra như bị cha mẹ la mắng, anh em cãi nhau, bị đánh đòn, bị trừng phạt
trước mặt mọi người, bị rầy oan, bị trách móc khi trẻ đi chơi về khuya tức tối vì sự
bất công của cha mẹ, sự bất hòa với người thân, trẻ VTN dễ dàng tự tử. Về phương
diện xã hội, khi có những hành động thiếu kiềm chế, trẻ không chỉ chống lại bản thân
mình thông qua việc làm tổn thương mình mà còn chống lại cha mẹ, chống lại cộng
đồng nên trẻ VTN có những hành vi sai lệch là nạn nhân của chính mình và là những
nạn nhân của thiếu sót, những diễn biến không tích cực của xã hội, đặc biệt là các

thiếu sót của gia đình. Do vậy, việc tìm cách hạn chế những hành vi nông nổi và đầy
nguy cơ bất thường này không phải chỉ là việc giúp trẻ VTN có kỹ năng sống thích
hợp, giúp các em biết cách làm chủ cảm xúc mà còn trách nhiệm của người lớn nói
chung. Bên cạnh nguyên nhân bất hòa trong gia đình, bị cha mẹ rầy la, thì các yếu tố
thất bại trong học tập như bị điểm kém, bị thi rớt, bị lưu ban cũng là yếu tố dẫn các
em đến tự tử. Trong nghiên cứu của chúng tôi, cũng gặp 33 % các trường hợp trẻ tự
tử là do kích động mạnh sau uống rượu kèm với những bế tắc trong cuộc sống trước
đó, hoặc do thất tình, đổ vỡ trong tình cảm bạn bè, trong tình yêu chưa chín chắn,
hoặc cãi nhau với bạn bè Có 2 trường hợp sau khi biết mình bị nhiễm HIV/AIDS,
các em không vượt qua nỗi đau khổ và đã uống thuốc tự tử.
Nhân cách của trẻ VTN được hình thành từ một quá trình lâu dài với tác nhân
là môi trường và nền giáo dục. Trong gia đình, trẻ chịu ảnh hưởng rất nhiều từ cha
mẹ, còn trong xã hội, trẻ chịu ảnh hưởng nhiều từ thầy cô giáo, bạn bè, hàng xóm
Các mâu thuẫn do cha mẹ quá khắt khe, thường hay la mắng khiến trẻ hiểu lầm là cha
mẹ không thương, ghét bỏ hoặc cha mẹ đặt quá nhiều kỳ vọng vào trẻ mà không quan
tâm xem trẻ có khả năng đạt được hay không, hoặc trẻ đòi hỏi điều gì mà không được
cha mẹ đáp ứng. Gia đình là nơi định hướng nhân cách, là sự hình thành các yếu tố
tâm lý của trẻ. Vì vậy, khi nghiên cứu các nguyên nhân tâm lý tự sát ở tuổi VTN
thường là do mâu thuẫn giữa các em với gia đình, nhất là cha mẹ của trẻ.
Do vậy, việc giáo dục tính tự lập cho trẻ ngay từ nhỏ giúp các em có thể tự
mình chống đỡ với các yếu tố nguy cơ stress và vượt qua khó khăn tâm lý của
chính mình. Sự xuất hiện đúng lúc của cha mẹ, các thầy cô giáo, của tổ chức đoàn
thể, của bạn bè giúp các em giải quyết các khó khăn về tâm lý, giúp cho các em tự
mình đứng dậy hoặc tìm người tâm sự. Trong các trường học rất cần có một phòng
tư vấn tâm lý học đường, trong các tổ chức Đoàn, Hội cũng có trung tâm tư vấn trẻ
VTN, thường xuyên và đúng lúc giúp các em giải tỏa những áp lực tâm lý.
Trong nghiên cứu của Nguyễn Lê Tuấn Anh
(Error! Reference source not found.)
, cũng
ghi nhận 87,8% trẻ em từ 10 – 15 tuổi tự tử là do những xung đột gia đình, trong

nghiên cứu của Nguyễn Thị Kim Thoa
6
về ngộ độc do ý định tự tử ở trẻ em, 68% là
do bất hòa trong gia đình và bị la rầy.
Phương tiện trẻ dùng tự tử
Nghiên cứu cho thấy 97,5% các trường hợp tự tử bằng đường uống hóa chất
hoặc thuốc, 2,5% các trường hợp là tự gây thương tích cho cơ thể. Các trẻ sống ở các
huyện, xã ven thành phố có huynh hướng sử dụng hóa chất, đặc biệt hóa chất bảo vệ
thực vật làm phương tiện để tự tử. Đa số dân ở vùng này đều sống bằng nghề nông,
hay trồng trọt, chăn nuôi, thường xuyên sử dụng các hóa chất thuốc trừ sâu, các loại
thuốc diệt cỏ, diệt côn trùng, hoặc các hóa chất trị các bệnh cho cây. Các hóa chất này
thường có sẵn trong nhà, trẻ dễ tiếp cận và dùng để tự tử. Các hóa chất trẻ thường sử
dụng là thuốc trừ sâu rầy (Endosulfan, Thasodant, Basa, Bassan ), các loại thuốc diệt
cỏ (Paraquat, Chlo hữu cơ, 2, 4 – D, Glyphosate), thuốc dưỡng cây có trường hợp tự
tử bằng thuốc diệt côn trùng, dầu hỏa, thuốc rửa bồn cầu
Các trẻ VTN sống ở thành phố, thị xã, ít có cơ hội tiếp xúc với các loại hóa
chất nông nghiệp, do đó, chúng thường dùng các loại thuốc (chiếm 35%) có sẵn trong
các tủ thuốc gia đình. Thường nhất là các loại thuốc hướng tâm thần (Seduxen,
Rotunda, aminazin), kế đến là các loại thuốc giảm đau – hạ nhiệt (Paracetamol,
Decolgen, Aspirine, Panadol ) và một số loại thuốc thông thường khác trong gia
đình.
Có 3 trường hợp, các trẻ tự tử bằng cách tự gây thương tích cho cơ thể. Các
em đã dùng dao đâm vào bụng sau khi bị la rầy và uống rượu. Có 3 trường hợp đều
không gây thương tích nặng cho cơ thể và được cứu sống.
Thời điểm tự tử
Trong nghiên cứu này, thời điểm trẻ tự tử rải rác trong ngày. Điều này cho
thấy trẻ không có khuynh hướng lựa chọn thời điểm tự tử, có thể trẻ thực hiện hành vi
ngay sau những xung đột xuất hiện cấp thời. Tỷ lệ trẻ tự tử ở thời điểm tối từ 19 giờ
đến 6 giờ sáng nhiều hơn (33,3%) trùng với thời điểm bị cha mẹ la rầy, la mắng sau
một ngày làm việc căng thẳng và mệt nhọc.

Chính những xung đột này, kết hợp với ý tưởng tự tử đã có sẵn ở trẻ trong
một thời gian dài có thể dẫn đến hành vi tự tử. Tự tử trong thời điểm sum họp gia
đình, có cơ hội gặp nhau giữa các thành viên trong gia đình là đặc điểm của tự tử ở
trẻ VTN. Khác với người lớn, tự tử ít xảy ra vào ngày nghỉ, giờ nghỉ, do những
thời điểm này, ít gây chấn thương tâm lý cho người lớn hơn là các thời điềm làm
việc căng thẳng ở cơ quan
(Error! Reference source not found.,Error! Reference source not found.)
.
Địa điểm tự tử
90% trẻ VTN tự tử nơi dễ phát hiện, thường là tại nhà. Chỉ có 10% trẻ VTN
tự tử nới vắng người. Một nghiên cứu của Granboulan V
3
, 80% trẻ tự tử tại nhà,
nguyên cứu của Nguyễn Lê Anh Tuấn
(7)
, cũng có kết quả 97,6% trẻ tự tử tại nhà.
Điều này cho thấy trẻ không có ý lựa chọn địa điểm để thực hiện hành vi tự tử.
Có thể là do trong độ tuổi VTN, môi trường mà trẻ tiếp xúc và gắn bó nhất là tại nhà,
cũng có thể trẻ muốn tự tử tại nhà để phản kháng, để chống cự, trả thù lại những xung
đột với cha mẹ mà trẻ luôn cảm thấy mình bị thiệt thòi, bị rầy oan, và đây cũng là nói
lên một điều là trẻ tự tử là do những phản ứng quá mức nhất thời khiến trẻ thực hiện
hành vi tự tử. Biết được điều này, các bậc cha mẹ, các nhà tư vấn tâm lý trẻ VTN cần
quan tâm đến diễn biến tâm lý, hành vi của các em để kịp thời “hạ hỏa” nếu có điều gì
bất ổn; là một hình thức thông thường để giúp các em vượt qua khó khăn, giúp các
em giải tỏa mình bằng cách không nghĩ đến chuyện ấy, hoặc đối mặt mọi chuyện
bằng cách viết ra nhật ký, khóc một trận cho thỏa lòng
Hành vi sau tự tử
Sau tự tử, 78 % trẻ không làm gì, cho đến khi có triệu chứng thì người nhà
phát hiện, chỉ có 12% báo cho người nhà, bạn bè biết mình đã thực hiện hành vi tự tử,
và 10 % các trường hợp sau tự tử là trẻ xa lánh mọi người, vào phòng riêng của mình.

Kết quả này cho thấy tầm quan trọng của người lớn khi xảy ra mối bất hòa, la rầy,
đánh đập các em, cần phải theo dõi diễn biến tâm lý của các em, phát hiện những dấu
hiệu, hành vi tự tử của trẻ để có thể đưa đi bệnh viện, xử lý kịp thời mới hy vọng làm
giảm được mức độ nặng của ngộ độc, giảm tỉ lệ tử vong và những di chứng, những
hậu quả nghiêm trọng khác có thể xảy ra
(Error! Reference source not found.)
.
Hậu quả của tự tử
Trong nghiên cứu này, với 120 trường hợp tự tử ở trẻ VTN, có 111 trẻ được
cứu sống và 9 trẻ VTN tử vong.
Các trường hợp tử vong đều xuất phát từ chuyện buồn gia đình, bị cha mẹ la
rầy; trẻ thực hiện hành vi tự tử bằng uống hóa chất độc liều cao, gia đình phát hiện trễ
và khi đến bệnh viện, bệnh đã diễn biến nặng, tử vong dù đã được điều trị tích cực.
Trong 9 trường hợp tử vong có 5 trường hợp ngộ độc thuốc trừ sâu nặng (2 trường
hợp ngộ độc phospho hữu cơ, 3 trường hợp ngộ độc Chlor hữu cơ: Thiodan,
Endosulfan); có 3 trường hợp ngộ độc thuốc diệt cỏ Paraquat với các triệu chứng ói ra
dịch màu xanh, hôi, gây loét miệng sớm và trẻ có biểu hiện thiếu niệu,vàng da,thở
nhanh dẫn đến tử vong. Có 1 trường hợp ngộ độc nặng do uống chống động kinh
Phenobarbital liều cao.
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu 120 trường hợp tự tử ở trẻ VTN tại Bệnh viện Đa khoa Tiền
Giang trong 2 năm 2005 – 2006, chúng tôi nhận thấy:
- Tuổi trung bình là 17,2; 82 % ở lứa tuổi sau VTN (17– 19 tuổi). Trẻ nữ
thường tự tử nhiều hơn trẻ nam.
- Trẻ tự tử ở khắp các huyện, thị, thành phố trong tỉnh và các tỉnh lận cận, 2
huyện Châu Thành, Chợ Gạo và Thành Phố Mỹ Tho là có số trường hợp tự tử cao.
Phương tiện thường dùng là hóa chất và thuốc men có sẵn ở mọi nhà. Yếu tố thúc đẩy
thường nhất là do bất hòa trong gia đình, bị cha mẹ la mắng, kế đến là do thất bại
trong học tập, trong tình yêu, do rượu Có 9 trường hợp trẻ VTN tử vong do tự tử
phát hiện muộn, bệnh diễn biến nặng.

- Qua nghiên cứu chúng ta thấy rằng, tự tử gây ra những hậu quả đáng tiếc mà
nguyên nhân dẫn đến là từ các tác nhân gây chấn động tâm lý cho trẻ VTN, là lứa tuổi
nhạy cảm, diễn ra trong mỗi gia đình, chịu ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp của môi
trường xã hội. Do đó, chiến lược dự phòng hữu hiệu nhất là tăng cường chăm sóc sức
khoẻ ở trẻ VTN và nâng cao chất lượng cuộc sống của trẻ VTN. Bởi lẽ, VTN là
những người chủ tương lai của đất nước ta.
KIẾN NGHỊ
- Cần hết sức chú ý đến tâm lý của trẻ VTN, tránh những tác động ảnh hưởng
đến danh dự của con cái như đánh chửi con, gây áp lực nặng nề trong học tập
- Tăng cường các biện pháp chẩn đoán, phát hiện sớm tác nhân ngộ độc,
điều trị tích cực để giảm bớt tỉ lệ tử vong và di chứng ngộ độc do tự tử.
- Tăng cường giáo dục y tế, quản lý thuốc và hóa chất chặt chẽ.
- Tham vấn tâm lý đối với trẻ VTN tự tử để đề phòng tái phát tự tử. Đánh giá
tâm lý của trẻ VTN tự tử, lựa chọn các giải pháp thích hợp: liệu pháp gia đình giúp
cải thiện mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, liệu pháp hành vi nhằm
giảm thiểu các yếu tố nguy cơ như sự trầm cảm, các stress trong cuộc sống, giúp trẻ
vượt qua khó khăn, tự mình đứng dậy và sống tốt.
- Tại cộng đồng, các biện pháp tâm lý cần được xây dựng càng sớm càng tốt ở
lứa tuổi đi học, hướng vào sự quan tâm của gia đình, tạo môi trường học đường, hoạt
động đoàn thể lành mạnh, giáo dục sức khỏe sinh sản VTN bằng nhiều hình thức: tọa
đàm, nói chuyện chuyên đề, gặp gỡ các nhà chuyên môn để rèn luyện cho các em
có được 1 kiến thức vững vàng, 1 ý thức tự giác.
- Cần có những nghiên cứu sâu hơn về vấn đề tự tử ở trẻ VTN nhằm tìm ra các
yếu tố nguy cơ và các giải pháp hữu hiệu để phòng tránh hiện tượng tự tử ở lứa tuổi
này, mang lại cuộc sống tốt đẹp cho các em

×