Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

SỨC KHỎE CỦA LŨ LỤT doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (528.49 KB, 19 trang )

SỨC KHỎE CỦA LŨ LỤT

TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Tổ chức y tế thế giới (WHO) hợp tác với Viện vệ sinh - y tế công
cộng thành phố Hồ Chí Minh để thực hiện một nghiên cứu tác động trung hạn trên
sức khỏe của các cơn lũ năm 2003 ở miền Trung Việt Nam.
Mục tiêu: Mục đích của nghiên cứu này nhằm khảo sát những tác động của lũ
lụt lên khuynh hướng bệnh tật và tử vong trong cộng đồng chịu ảnh hưởng của lũ, xác
định tầm nhìn những nhu cầu sức khỏe để đề xuất những biện pháp kiểm soát và dự
phòng trong các tình huống tương tự trong tương lai.
Phương pháp: Có 4 phân loại thiệt hại đối với vùng bị ảnh hưởng do lũ, phụ
thuộc vào mức độ thiệt hại của Trạm Y tế xã (TYTX) dựa vào đợt lũ lụt vừa mới xảy
ra. Số liệu được thu thập từ những số ca mắc bệnh tại Trạm Y tế xã cuối mỗi tháng và
khảo sát chiều hướng mắc bệnh và tỷ lệ tử vong.
Kết quả: Kết quả cho thấy rằng tỷ lệ mắc bệnh tiêu chảy cấp, nhiễm trùng hô
hấp cấp, các bệnh về da và viêm kết mạc đều tăng. Tuy nhiên, sốt xuất huyết giảm
vào mùa lũ.
Kết luận: Kết quả của nghiên cứu này có một ý nghĩa tiềm năng quan trọng
cho các hoạt động nhằm nâng cao hiệu quả chăm sóc sức khỏe ban đầu để đáp ứng
hiệu quả với lũ lụt ở các trạm y tế xã trong vùng nguy cơ. Kết quả của nghiên cứu chỉ
ra nhu cầu về thu thập thông tin về dân số, mô hình bệnh tật và nguồn lực hiện có để
lập kế hoạch chi tiết cho các xã có nguy cơ cao bị lũ lụt.
ABSTRACT
THE HEALTH IMPACT OF THE 2003-2004 FLOODS IN CENTRAL
VIET NAM
Dang Van Chinh, Le The Thu, Vo Huu Thuan, Pham Kim Anh
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 12 - Supplement of No 4 - 2008: 115 - 122
Background The World Health Organization collaborated with the Institute of
Hygiene and Public Health in Ho Chi Minh City to undertake a study to look at the
medium term health impact of the 2003 floods in central Viet Nam.
Objectives The purpose of this study was to examine the effects of the floods


on the morbidity and mortality trend of the affected communities, identifying health
needs with a view to proposing control and preventive measures for future situations.
Methods There were four types of damage of communes selected, depending
on the level of damage of CHS in the last flooding. Data were collected from existing
morbidity records in CHS in the end of each month and the trend of morbidity and
mortality rates were examined.
Results Results indicated that the incidence of ADD, ARI, skin diseases and
conjunctivitis were increased. However, dengue fever decreased by the floods
*
Viện Vệ Sinh – Y tế Công Cộng TPHCM

Conclusions The results of this study have potentially important implication
for activities aimed at improving primary health care to effectively response to
flooding in CHS at risk. The findings show the need identified and obtained
information about population, morbidity pattern, and available resources for making
detailed plans for communes at risk of flooding.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Lũ lụt là một hiện tượng tự nhiên xảy ra phổ biến và thường xuyên trên toàn
thế giới. Những thiệt hại về vật chất và con người thường được quan tâm nhiều nhất
và được thu thập số liệu trước tiên ở nhiều cơ sở y tế nhưng hậu quả sức khỏe do lũ
lụt gây ra lại ít quan tâm hơn nhiều. Việt Nam là một trường hợp như thế.
Hai trận lũ liên tiếp xảy ra trên toàn tỉnh miền Trung Việt Nam năm 2003.
Trận lũ đầu tiên xảy ra từ 14-20/10/2003 và trận thứ hai xảy ra từ 11-14/11/2003, nó
ảnh hưởng chủ yếu đến 5 tỉnh miền Trung: Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Phú
Yên và Ninh Thuận., với khoảng 36,4% dân số tại 5 tỉnh này chịu ảnh hưởng trực tiếp
với lũ
(1)
.
Mặc dù gần đây Tổ chức Y tế Thế giới đã thực hiện nhiều hoạt động nhằm
đưa thông tin quan trọng về tổn thất những cơ sở y tế do lũ lụt gây ra, nhiều

nghiên cứu cần được tiến hành để xác định tác động của lũ lên sức khỏe con người
nhằm mục đích bổ sung một cái nhìn tổng quát về những hậu quả của lũ lụt lên
sức khỏe tại Việt Nam.
Mục đích của nghiên cứu này nhằm khảo sát những tác động của lũ lụt lên
khuynh hướng bệnh tật và tử vong của cộng đồng chịu ảnh hưởng lũ so với cộng
đồng không chịu ảnh hưởng, xác định tầm nhìn nhu cầu sức khỏe để đề xuất những
biện pháp kiểm soát và dự phòng các tình huống tương tự trong tương lai.
Nghiên cứu này là quan trọng cho nhân viên y tế huyện xã và những nhà lập
kế hoạch trong việc cung cấp nền tảng cần thiết cho họ để làm giảm đi những tác
động của lũ lụt. Giả thuyết nghiên cứu đó là lũ lụt làm cho hệ thống vệ sinh môi
trường kém đi, nước bị nhiễm bẩn và những dịch vụ y tế trở nên yếu kém, làm gia
tăng tiềm ẩn sự phát triển một số bệnh nhất định
(1)
. Lũ lụt được xem như là một yếu tố
ảnh hưởng và tỷ lệ mắc mới bệnh tiêu chảy cấp (TCC), nhiễm trùng hô hấp cấp
NTHHC), sốt rét, sốt xuất huyết, những bệnh về da và viêm kết mạc được xem là
những yếu tố phụ thuộc vào lũ.
Mục tiêu cụ thể
Xác định khuynh hướng của bệnh sau đây trước, trong và sau lũ:
Khuynh hướng của bệnh tiêu chảy cấp.
Khuynh hướng của bệnh nhiễm trùng hô hấp cấp.
Khuynh hướng của bệnh sốt rét.
Khuynh hướng của bệnh sốt xuất huyết
Khuynh hướng của bệnh về da
Khuynh hướng của bệnh viêm kết mạc
Khuynh hướng của chết đuối
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu được tiến hành tại 5 tỉnh miền Trung Việt Nam chịu ảnh hưởng
của lũ lụt từ tháng 9/2003 đến tháng 2/2004. Ở mỗi tỉnh tiến hành chọn một TTYT
huyện và trong huyện đó chọn 4 xã, như vậy có 5 Trung tâm Y tế huyện và 20 trạm y

tế xã. Những địa điểm được chọn phụ thuộc vào mức độ thiệt hại trạm y tế xã trong
các mùa lũ lụt vừa qua.
Một Trung tâm Y tế huyện bị ảnh hưởng bởi lũ lụt và có 4 xã được chọn, bao
gồm:
Xã không có lũ lụt và trạm y tế không bị ảnh hưởng.
Xã bị ngập và trạm y tế không bị hư hại.
Xã bị ngập và trạm y tế bị hư hại.
Xã bị ngập và trạm y tế bị hư hại hoàn toàn.
Số liệu được thu thập từ hồ sơ báo cáo số ca mắc bệnh tại Trạm y tế xã và
TTYT huyện vào cuối mỗi tháng và được tiến hành bởi những nhân viên y tế của
Trung tâm y tế dự phòng tỉnh. Đây là một nghiên cứu hồi cứu kéo dài từ một tháng
trước khi bắt đầu lũ lụt đến vài tháng sau lũ lụt trong năm 2003 tại những tỉnh miền
Trung Việt Nam.
Để tính tỷ lệ ước lượng số ca mắc bệnh trên 10.000 dân, thì mẫu số là dân số
năm gần nhất. Sự gia tăng dân số tự nhiên và sự di cư có khả năng xảy ra không được
xếp vào nhóm dân số nghiên cứu. Tỷ lệ tử vong trong báo cáo của TTYT huyện có
khả năng sai lệch, nguyên nhân do bệnh nhân đang hấp hối được đưa về nhà hoặc
chuyển lên bệnh viện tuyến trên, thì những ca tử vong đó không xếp vào trong nghiên
cứu này. Cuối cùng, nghiên cứu tập trung chủ yếu mô tả khuynh hướng bệnh tật và tử
vong ở ba giai đoạn trước, trong và sau lũ lụt.
Một số định nghĩa
Nghiên cứu sử dụng những định nghĩa ca bệnh sau:
Ca tiêu chảy: một người trong suốt 24 giờ đi phân lỏng hơn 3 lần hoặc đi 1 lần
phân lỏng hoặc sệt chứa mủ, chất nhầy hoặc máu
(5)
.
Ca nhiễm trùng hô hấp cấp cho trẻ em dưới 5 tuổi có bất kỳ những triệu chứng
và dấu hiệu sau: ho, thở nhanh và/hoặc khó thở
(4)
.

Ca sốt rét: một người có xét nghiệm ký sinh trùng sốt rét dương tính và người
đó có những dấu hiệu lâm sàng tương ứng với bệnh.
Ca sốt xuất huyết: một người có sốt và có dấu dây thắt dương tính, được chẩn
đoán là không phải do những nguyên nhân khác.
KẾT QUẢ


Hình 1: Tần suất mắc của các bệnh liên quan đến lũ lụt phân bố theo tháng tại
TTYT huyện từ tháng 9/2003 - 2/2004
Hình 1 cho thấy số mắc mới của các bệnh liên quan với lũ lụt ở TTYT huyện
từ 9/2003 - 2/2004 trong đó các bệnh nhiễm trùng hô hấp cấp chiếm tỷ suất cao nhất
có một sự tăng rõ rệt trong thời gian sau lũ. Viêm kết mạc có một sự gia tăng tương
tự. Tuy nhiên, có sự giảm đáng kể số ca sốt xuất huyết sau mùa lũ. Tần suất mắc mới
sốt xuất huyết cao nhất là vào tháng 10 khi mà môi trường có nhiều nước thuận lợi
cho sự phát triển của muỗi. Tỷ lệ mắc mới của các bệnh tiêu chảy cấp, viêm da và sốt
rét không thay đổi đáng kể trong thời gian quan sát.
Hình 2 cho thấy tại trạm y tế xã không bị ảnh hưởng bởi lũ (trạm y tế xã bị
ngập lụt hoặc không bị hư hại), số mắc mới bệnh tiêu chảy cấp vẫn ở mức độ ổn định
suốt thời gian trước và sau lũ. Tuy nhiên, ở trạm y tế xã bị hư hại thì số mắc mới bệnh
tiêu chảy tăng trong suốt thời gian lũ và sau lũ. Ví dụ, số mắc bệnh tiêu chảy cấp tại
xã có trạm y tế xã bị hư hại là 31,5/10.000 vào tháng 9, nhưng tăng lên đến
46,9/10.000 vào tháng 11 và 51,1/10.000 vào tháng 12 và duy trì ở mức cao vào
tháng 2. Tuy nhiên, số mắc mới bệnh tiêu chảy cấp ở xã có trạm y tế bị hư hại hoàn
toàn giảm đáng kể trong mùa lũ và ngay sau lũ và sau đó 1 tháng tăng nhanh trở lại.
Quan sát này không phản ánh đúng tình trạng bệnh tiêu chảy cấp sau lũ lụt. Bỡi vì có
thể rằng những trạm y tế xã đó hoạt động không tốt trong giai đoạn lũ vì do bị hư hại
nên bệnh nhân đến trạm y tế bị hạn chế, và cho đến 2 tháng sau đó, những trạm y tế
này hoạt động trở lại cho nên số bệnh nhân mắc bệnh tiêu chảy cấp tăng trở lại.



Hình 2: Tỷ suất mắc mới bệnh tiêu chảy cấp/10.000 dân phân bố theo tháng
và theo trạm y tế xã, 9/2003 - 2/2004


Hình 3: Tỷ suất mắc mới bệnh nhiễm trùng hô hấp cấp/10.000 dân phân bố
theo tháng và theo trạm y tế xã, 9/2003 - 2/2004
Hình 3 cho thấy số mắc mới nhiễm trùng hô hấp cấp trong các xã phân bố theo
tháng tương đối đồng dạng, trong đó khuynh hướng thấp vào tháng 9 và tháng 10
năm 2003, tăng cao điểm vào tháng 11 (ngoại trừ loại trạm y tế xã bị hư hại hoàn toàn
có lẽ bởi vì họ không hoạt động tốt trong khoảng thời gian này, số bệnh nhân mắc
nhiễm trùng hô hấp cấp giảm nhưng có thể khuynh hướng này không phản ảnh đúng
sự thật, giống như trường hợp bệnh tiêu chảy) và sau đó duy trì mức độ cao hơn vào
những tháng sau lũ. Ví dụ, trong trường hợp loại trạm y tế xã bị hư hại, số ca nhiễm
trùng hô hấp cấp trong tháng 9 là 80,4/10.000 dân nhưng tăng lên 164,6/10.000 dân
trong tháng 11 và còn khoảng 79/10.000 dân vào những tháng sau đó.


Hình 4: Tỷ suất mắc mới bệnh sốt rét/10.000 dân phân bố theo tháng và theo
trạm y tế xã, 9/2003 - 2/2004
Hình 4 cho thấy số mắc mới bệnh sốt rét theo tháng, số mắc mới giảm ngay
sau lũ và sau lũ tăng đáng kể (tháng 12), rồi sau đó giảm nhanh vào tháng 1 và tháng
2. Điều này chỉ ra rằng sự tăng bệnh sốt rét có khả năng xảy ra sau mùa lũ trong
những vùng dịch địa phương.


Hình 5: Tỷ suất mắc mới sốt xuất huyết/10.000 dân phân bố theo tháng và
theo trạm y tế xã, 9/2003 - 2/2004
Ở các trạm y tế xã không bị hư hại, bị hư hại và bị hư hại hoàn toàn đã không
ghi nhận ca SXH nào từ tháng 10/2003 đến tháng 2/2004. Số mắc mới SXH ở trạm y
tế không bị ảnh hưởng cho thấy SXH tăng từ tháng 9 đến tháng 10 và giảm nhanh ở

các tháng sau đó. Điều này gợi ý, SXH có thể không phải là một vấn đề sức khỏe xảy
ra do hậu quả của lũ lụt mà lũ có khả năng giảm nhẹ SXH (Hình 5).
Những bệnh về da có khuynh hướng tăng trong thời gian ngắn sau lũ và ngay
sau đó trở về mức trước đó. Khuynh hướng này được thể hiện rõ nhất ở loại trạm y tế
không bị hư hại và bị hư hại hoàn toàn (Hình 6).
Hình 7 số mắc mới bệnh viêm kết mạc gia tăng trong các tháng sau lũ lụt, đặc
biêt ở các trạm y tế bị hư hại và bị hư hại hoàn toàn. Chẳng hạn, bệnh viêm kết mạc
gấp 2,5 lần từ tháng 10 đến tháng 11 ở các xã có trạm y tế bị hư hại hay bị hư hại
hoàn toàn và giảm nhanh về mức độ trước đó.



Hình 6: Tỷ suất mắc mới bệnh về da/10.000 dân phân bố theo tháng và theo
trạm y tế xã, 9/2003 - 2/2004


Hình 7: Tỷ suất mắc mới viêm kết mạc/10.000 dân phân bố theo tháng và
theo trạm y tế xã, 9/2003 - 2/2004.
Bảng 1: Số ca chết đuối theo tháng tại trạm y tế xã, từ 9/2003 – 2/2004
Tháng
Chết
đuối
9

10

11

12


1 2

T
ổng
cộng
Không
bị ảnh hưởng

0

0 0 1 2 0

3
Không
bị hư hại
0

0 3 0 0 0

3
Bị h
ư
hại
0

0 4 0 0 0

4
Bị h
ư

hại hoàn toàn

3

0 0 0 0 0

3
Tổng
cộng
3

0 7 1 2 0

13
Bảng 1 ghi nhận số ca chết đuối trong các xã nghiên cứu, cho thấy không có
sự khác biệt đáng kể số ca chết đuối giữa loại trạm y tế không bị ảnh hưởng và có bị
ảnh hưởng bởi lũ lụt. Tuy nhiên, kết quả gợi ý rằng đỉnh điểm của tình trạng chết đuối
là vào tháng 11- xảy ra trong thời gian lũ lụt (Bảng 1).
Bảng 2: Số ca tử vong theo tháng tại trạm y tế xã, từ 9/2003 – 2/2004
Tháng
S
ố tử
vong
9

10

11

12


1 2

T
ổng
cộng
Không
bị ảnh hưởng

2

2 4 4 0 2

14
Không
bị hư hại
0

0 2 0 0 3

5
Bị h
ư
hại
4

2 3 1 2 2

14
Bị h

ư
hại hoàn toàn

0

3 3 0 0 1

7
Tổng
cộng
6

7 12

5 2 8

40
Bảng 2 cho thấy số ca tử vong theo tháng trong các xã trước, trong và sau lũ
lụt. Tháng 11 có nhiều ca tử vong nhất, đây là thời gian giữa 2 mùa lũ lụt. Số ca tử
vong được báo cáo từ trạm y tế xã đáng tin cậy, đặc biệt trong suốt thời gian có lũ lụt
bởi vì bất kỳ một ca tử vong cũng được chính quyền địa phương xác thực.
BÀN LUẬN
Lũ quét và lụt ảnh hưởng đến 5 tỉnh miền Trung là những trận lũ xảy ra rất
nhanh, giữa tháng 10 và tháng 11, gây mức thiệt hại vừa phải về sức khỏe cho người
dân sống trong vùng này. Nghiên cứu này cho thấy lũ lụt đã tạo ra những thay đổi mô
hình bệnh tật, ở các mức độ khác nhau trong các xã, phụ thuộc vào mức độ thiệt hại
của lũ lụt. Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra rằng có một sự gia tăng tình trạng bệnh lý
của các bệnh nghiên cứu, ngoại trừ sốt xuất huyết. Kết quả nghiên cứu này cung cấp
bằng chứng cho giả thuyết nghiên cứu đã đặt ra.
Các xã bị hư hại hoàn toàn hay hư hại có tỷ lệ mắc mới bệnh tiêu chảy và bệnh

nhiễm trùng hô hấp cấp cao hơn nhiều so với xã không bị hư hại trong cả thời gian
trước và sau lũ. Đầu tiên, điều này gợi ý rằng, các xã bị hư hại trong hoàn cảnh bình
thường có thể đã cung cấp các dịch vụ y tế hiệu quả hơn về phương diện nhận khám
và chữa bệnh; thứ hai, tỷ lệ mắc mới TCC và NTHHC tăng cao ở những xã bị hư hại
này có thể gây ra do lũ vì môi trường bị ô nhiễm. Tuy nhiên, chúng tôi không thể
khẳng định các lý giải này bởi vì bệnh nhân có thể điều trị ở y tế tư nhân và tự điều trị
là các yếu tố nhiễu mà không thể loại trừ trong nghiên cứu này.
Do khối lượng công việc gia tăng cùng với sự xuống cấp của cơ sở y tế làm
tăng gánh nặng cho nhân viên y tế, đặc biệt ở các trạm y tế xã mà không thực hiện
được chức năng của mình trong thời kỳ lũ và ngay sau lũ. Các trạm y tế bị hư hại
hoàn toàn không hoạt động hiệu quả thể hiện qua số ca TCC và NTHHC giảm một
cách giả tạo trong những thời kỳ này và gia tăng nhanh chóng sau 2 tháng. Điều này
cũng có thể giải thích, mặc dù những trạm y tế này bị hư hại (phá hủy) nhưng không
dừng hoạt động hoàn toàn. Bởi vì những dịch vụ y tế tạm thời được thiết lập ở những
nơi khác chẳng hạn như ủy ban nhân dân xã và ở những nơi vùng đất cao như nhà của
các nhân viên y tế trong các thôn cung cấp dịch vụ y tế cho người dân. Tuy nhiên,
hoạt động của họ không đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh của người dân nên số ca
TCC và NTHHC giảm. Cho đến khi, các trạm y tế được sửa chữa và cung cấp dịch vụ
khám chữa bệnh tốt hơn, số bệnh nhân tăng trở lại.
Thêm vào đó, những gánh nặng khác cho nhân viên y tế ở xã bị ảnh hưởng do
lũ lụt, đó là nguồn lực sẵn có như tài chính và nhân lực bị hạn chế. Mặc dù, các hoạt
động chuẩn bị làm giảm thiệt hại vật chất do thiên tai được các trạm y tế triển khai
được đánh giá là tốt, nhưng các trạm đã không lập kế hoạch thích hợp cho các hoạt
động sau lũ.
Tổng số ca mắc và tỷ lệ mắc bệnh tiêu chảy ở loại trạm y tế bị hư hại và bị hư
hại hoàn toàn cao hơn ở loại trạm y tế không bị ảnh hưởng hay chỉ bị ngập. Phân tích
sâu từ số liệu này, chúng tôi thấy trẻ từ 0-9 tuổi bị tiêu chảy nhiều nhất và ít hơn ở
nhóm tuổi lớn hơn. Thêm vào đó, nam bị tiêu chảy nhiều hơn nữ.
Khuynh hướng gia tăng bệnh nghiên cứu ở trung tâm y tế huyện là không rõ
cho thấy số ca bệnh ở trung tâm y tế không nhạy trong phản ảnh tác động của lũ lụt

trên địa bàn của huyện. Vì thế, khuynh hướng thay đổi tỷ lệ mắc bệnh ở TTYT huyện
nên sử dụng như một nguồn thông tin bổ sung.
Có sự khác biệt lớn trong chết đuối về phương diện tuổi và mức độ giữa miền
Trung Việt Nam và vùng đồng bằng sông Mê Kông. Ở miền Trung Việt Nam, số ca
chết đuối thấp hơn nhiều và nhóm tuổi cao hơn (10-19 tuổi) (số liệu chưa xuất bản).
Nguyên nhân chết đuối thường được xem như một tai nạn, trong khi vùng đồng bằng
sông Mê Kông, số ca chết đuối cao, nhóm tuổi nhỏ (0-4 tuổi) và nguyên nhân chính là
bất cẩn trong việc trông trẻ
(2)
.
Nghiên cứu này cũng có một số hạn chế tiềm tàng. Thứ nhất, hệ thống ghi
nhận bệnh nhân có thể có sự sai khác lớn do hoạt động y tế tư nhân và tự điều trị có
thể khác nhau giữa các xã. Thứ hai, sai số trong phân loại bệnh có thể xảy ra. Tuy
nhiên, nghiên cứu chỉ ra có sự gia tăng lớn bệnh nhân ở các trạm y tế xã bị hư hại và
có sự khác biệt trong khuynh hướng tần suất mắc mới giữa trạm y tế bị hư hại và
không hư hại do khác nhau mức độ lũ. Kết quả nghiên cứu này là phù hợp với kết quả
nghiên cứu ở một số nước Châu Phi có TCC và NTHHC gia tăng sau lũ.
KẾT LUẬN
Kết quả của nghiên cứu này có một ý nghĩa tiềm năng quan trọng cho các hoạt
động nhằm nâng cao hiệu quả chăm sóc sức khỏe ban đầu để đáp ứng hiệu quả với lũ
lụt ở các trạm y tế xã trong vùng nguy cơ. Lũ lụt là một hiện tượng tự nhiên phổ biến
ở Việt Nam. Kết quả của nghiên cứu chỉ ra nhu cầu thu thập thông tin về dân số, mô
hình bệnh tật và nguồn lực hiện có để lập kế hoạch chi tiết cho các xã có nguy cơ cao
lũ lụt, đặc biệt sau lũ lụt. Nghiên cứu này cũng gợi ý rằng để giảm gánh nặng công
việc cho nhân viên y tế trong các trạm y tế xã bị hư hại, nguồn lực phải được phân bố
theo mức độ của lũ và mô hình bệnh tật gây ra do lũ.

×