Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ VÀ THỰC HÀNH CỦA NGƯỜI DÂN VỀ CHẾT ĐUỐI TRẺ EM ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (251.01 KB, 27 trang )


KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ VÀ THỰC HÀNH CỦA NGƯỜI DÂN
VỀ CHẾT ĐUỐI TRẺ EM


TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Một quan tâm lớn của nhiều người dân “sống chung với lũ” là chăm sóc trẻ
an toàn. Một số thống kê cho thấy rằng chết đuối ở trẻ em là một vấn đề xã hội đang gia tăng
trong khi mức độ của vấn đề và nguyên nhân của nó vẫn chưa được rõ.
Mục tiêu: (1) Xác định kiến thức, thái độ và thực hành ở các cộng đồng ở vung đồng
bằng sông Mekong về sự an toàn của trẻ trong mùa lũ và (2) Xác định đặc tính dịch tễ của trẻ
chết đuối dưới 10 tuổi.
Phương pháp: Đây là một cuộc điều tra cắt ngang kết hợp cả hai phương pháp định
tính và định lượng, được tiến hành trong hai xã có tỉ lệ chết đuối cao. Các ca chết đuối cũng
được điều tra để mô tả các đặc điểm dịch tễ. Mỗi xã chọn ngẫu nhiên 100 hộ gia đình để phỏng
vấn dựa trên bảng câu hỏi đã soạn sẵn và một nhóm 15 hộ gia đình được phỏng vấn sâu. Ủy
ban phòng chống lụt bão của xã và huyện cũng được phỏng vấn sâu về chết đuối của trẻ và các
giải pháp. Số liệu được phân tích trên phần mềm thống kê Epi 2000.
Kết quả: 71% trẻ chết đuối là dưới 3 tuổi trong đó 65% là bé trai và 35% bé gái.
Nguyên nhân phổ biến nhất đưa đến chết đuối ở trẻ là “sự bất cẩn” (81%) trong chăm sóc trẻ

và nguyên nhân phổ biến thứ hai la “trẻ bơi mà không có sự giám sát” (7,8%). 74% hộ gia
đình có bận tâm lớn nhất là trẻ chết đuối.
Kết luận: “Sự bất cẩn” trong chăm sóc trẻ là nguyên nhân quan trọng nhất trong chết
đuối của trẻ. Kết quả nghiên cứu gợi ý nhận thức của người trưởng thành về các nguy cơ trẻ
chết đuối còn thấp và thiếu các biện pháp dự phòng hiệu quả.
ABSTRACT
Background: A big problem concerned many people “living together with flood” is the
safety and care of children. Several local reports show that drowning in children is a matter of
growing concern whereas the extent of the problem and its causes remains unclear.
Objectives: (1) To identify the knowledge, attitude and practice in Mekong delta


communities regarding the safety of children during flood, (2) To identify epidemiological
characteristics of drowning children under ten years old.
Methods: It was a cross-sectional survey that combined the qualitative and quantitative
methods. The survey was carried out in two communes with high drowning rate. Data of
childhood drowning cases in each community were investigated for descriptive epidemiology.
In each commune, randomly selected 100 households were interviewed by the prepared KAP
questionnaire and a group of 15 households was in-depth- interviewed. Members of Flooding
Mitigating Committee of communes and districts were also in-depth interviewed on Results:
71% of drowned children were under 3 years old. 65% of them were male and 35 % female.
The most common reason led to be drowned was “carelessness” (81%) and the second reason

was “swimming without supervision” (7.8%). 74% of the households had the greatest concern
about children’s drowning.
Conclusions: Adults’carelessness appears to be the most important cause of childhood
drowning. This finding suggests that the adults’ perception about their children’s drowning
risks was low. There is a lack of effectively preventive measures.
Ackowlegement: We would like to thank the WHO sponsored this study
Many thanks to colleagues and Chau Thanh and Chau Phu District committees for
support
ĐẶT VẤN ĐỀ
Mùa lũ xảy ra hàng năm thường bắt
đầu từ tháng 8 đến tháng 12 ở đồng bằng
sông Mekong. Lũ thường gây thiệt hại to lớn
về con người, tài sản và vụ mùa.Theo Ủy ban
phòng chống thảm họa thiên tai của tiểu vùng
sông Mekong có hàng trăm người chết trong
năm 2000 và 2001. Tỉnh An Giang, năm
2000, có 134 người chết, trong đó có 94 trẻ;
năm 2001 có 134 người chết, trong đó có 104
trẻ do hậu quả của hai cơn lũ liên tiếp xảy ra

trong tỉnh
(1)
. Điều này không chỉ xảy ở An
Giang mà cũng ghi nhận tương tự cho các
tỉnh khác ở vùng sông Mekong.
Chết đuối trẻ em không chỉ gây ra
thiệt hại con người và đau khổ không thể
đền bù được cho gia đình
(2)
và cũng gây lo
lắng cho cộng động, đặc biệt khi mùa lũ
đến. Mặc dù hệ thống truyền thông đưa tin
về chết đuối như một sự cảnh báo và chính
quyền của các địa phương kêu gọi mọi
người chú ý chăm sóc trẻ trong mùa lũ,
nhưng thực tế tỉ lệ chết đuối ở vùng đông
bằng sông Mekong vẫn được ghi nhận rất

cao. Tuy nhiên, không có nghiên cứu về
chết đuổi ở trẻ em ở vùng này. Vì thế,
chúng tôi tiến hành một cuộc điều tra về
kiến thức, thái độ và thực hành (KAP) để
tìm hiểu nguyên nhân và biện pháp dự
phòng chết đuối ở trẻ em trong vùng lũ ở
đồng bằng sông Mekong, nhằm giúp người
dân hiểu được tình trạng chết đuối trong
cộng đồng và tìm ra các biện pháp dự
phòng thích hợp.
Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu này nhằm mục đích tìm

hiểu KAP trong các cộng đồng vùng đồng
bằng sông Mekong về sự an toàn của trẻ
trong mùa lũ. Các mục tiêu cụ thể như sau:
Xác định tỉ lệ gia đình có trẻ dưới 10
tuổi có kiến thức thực sự về chết đuối
Xác định tỉ lệ gia đình có trẻ dưới 10
tuổi có thái độ thực sự về phòng chống chết
đuối
Xác định tỉ lệ gia đình có trẻ dưới 10
tuổi có thực hành thực sự về phòng chống
chết đuối.
Xác định đặc tính dịch tễ của các ca
chết đuối
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đây là một nghiên cứu cắt ngang kết
hợp cả hai phương pháp nghiên cứu định tính
và định lượng. Nghiên cứu này được tiến
hành trong 2 xã có tỉ lệ chết đuối cao- xã Phú
Hữu tỉnh Đồng Tháp và xã Thạnh Mỹ Tây,
tỉnh An Giang từ tháng 10-12 năm 2003.
Cỡ mẫu được tính theo công thức sau:
n=4 pq / d
2
(d = 0,1: độ chính xác tuyệt đối,
với d cố định; tích pq đạt cực đại khi p= 0,5,
q=0,5; thay vào công thức trên ta có cỡ mẫu
n = 100).
Mỗi xã chọn ngẫu nhiên 100 hộ gia
đình để phỏng vấn KAP và một nhóm 15 hộ
gia đình được phỏng vấn sâu và một số


trường hợp chết đuối điển hình. Thêm vào
đó, phỏng vấn sâu một nhóm thành viên của
Ủy ban Phòng Chống Bão Lụt xã và huyện
về chết đuối và các giải pháp phòng chống.
Số liệu được phân tích với phần
mềm Epi 2000. Kết quả bao gồm tỉ lệ KAP,
đặc tính dịch tễ của ca chết đuối và những
thông tin thu được từ các cuộc phỏng vấn
sâu dùng để giải thích nguyên nhân của
chết đuối và đề nghị các giải pháp.
KẾT QUẢ
Nghiên cứu định tính
Bảng1: Đặc điểm kinh tế- xã hội của
mẫu nghiên cứu
Đặc điểm
Tần
suất
(n=2
00)
T
ỉ lệ
(
%)
Đặc điểm
Tần
suất
(n=2
00)
T

ỉ lệ
(
%)
Mẹ 116
5
8
Cha 60
3
0
N
g
ười
được
ph
ỏng
vấn
Ông

24
1
2
18-29

72
3
6
Tu
ổi
30-39


76
3
8

Đặc điểm
Tần
suất
(n=2
00)
T
ỉ lệ
(
%)
≥40 52
2
6
Nữ 132
6
6
Gi
ới tính
Nam 68
3
4

chữ
14 7

Tr
ình đ


học vấn
Cấp I

106
5
3
Đặc điểm
Tần
suất
(n=2
00)
T
ỉ lệ
(
%)
Cấp
II
59
2
9
Cấp
III và hơn
21
1
0,5
Nông
dân
170
8

5
N
gh

nghiệp
Khác

30
1
5
N

Gỗ 72
3
6

Đặc điểm
Tần
suất
(n=2
00)
T
ỉ lệ
(
%)
Tre 68
3
4
Gạch


38
1
9
Khác

22
1
1
R
adio
Có 110
5
5
Ti
vi
Có 128
6
4
Đặc điểm
Tần
suất
(n=2
00)
T
ỉ lệ
(
%)
Có 68
3
4

T
huyền
Có 131
6
5
Bảng 1 cho thấy đặc điểm kinh tế xã
hội của 200 hộ gia đình có trẻ em dưới 10
tuổi trong mẫu nghiên cứu. Tỉ lệ nữ cao hơn
nam (66% so với 34%), tuổi từ 18 đến 77 với
gần ¾ người được phỏng vấn dưới 40 tuổi.
Phần lớn đối tượng phỏng vấn là nông dân có
trình độ văn hóa dưới cấp 2 trong đó khoảng
2/3 là trình độ cấp một hoặc mù chữ. 2/3 số
hộ gia đình sống trong nhà lợp bằng tre gỗ và

có tivi, hơn ½ hộ có radio, phương tiện đi lại
phần lớn bằng thuyền.
Bảng 2: Kiến thức của người dân
vùng lũ về chết đuối.
Kiến thức của ngư
ời
dân về trẻ chết đuối
T
ần
suất
(
n=200
)
ỉ lệ
%)

Chết đuối
1
47 3.5
Đói
1
04 2
B
ận tâm
trong
mùa lũ
Bệnh tật
7
5 7,5
Kiến thức của ngư
ời
dân về trẻ chết đuối
T
ần
suất
(
n=200
)
ỉ lệ
%)
Di chuyển
3
4 7
Thương tổn
1
6

Rắn cắn
1
5 ,5

Sập nhà
1
1 .5
N
guyên
Bất cẩn
1

Kiến thức của ngư
ời
dân về trẻ chết đuối
T
ần
suất
(
n=200
)
ỉ lệ
%)
61 9,5
Thuyền bị lật
8
Nước chảy xiết

1
4

nhân
d
ẫn đến
chết
đuối
Bơi và chơi v
ới
nước
2

1
52 6
N
hận
thông
tin ch
ết
Không
4
Kiến thức của ngư
ời
dân về trẻ chết đuối
T
ần
suất
(
n=200
)
ỉ lệ
%)

8 4
Ngu
ồn thông
tin

Truyền hình
1
06 3
Đài và loa
phóng thanh
9
0 5
đuối
Hàng xóm
5
6 8

Kiến thức của ngư
ời
dân về trẻ chết đuối
T
ần
suất
(
n=200
)
ỉ lệ
%)
Chính quy
ền

địa phương và nhân
viên y tế
9
2,5
Tờ bư
ớm, tờ
rơi
1
4
Khác
5
,5
N
ội dung thông
tin

Quan tâm đ
ến
1
Kiến thức của ngư
ời
dân về trẻ chết đuối
T
ần
suất
(
n=200
)
ỉ lệ
%)

trẻ 13 4,3
Đưa tr
ẻ đến
nhà giữ trẻ
6
,9
Thông báo v

chết đuối
2
6 7,2
Sơ c
ứu chết
đuối
2
,3
Không nhớ
5
,3

Kiến thức của ngư
ời
dân về trẻ chết đuối
T
ần
suất
(
n=200
)
ỉ lệ

%)
Truyền hình
6
6 3.4
Phát thanh
4
6 0.3
Hàng xóm
6
.9
Khác
3
N
gu
ồn
thông
tin h
ữu
ích nhất

Không biết
3
1 0.4
Kiến thức của ngư
ời
dân về trẻ chết đuối
T
ần
suất
(

n=200
)
ỉ lệ
%)

5
0 5
Không chắc
1
5 ,5
B
iết về s
ơ
c
ứu chét
đuối
Không
1
35 7,5
Sơ cứu chết đuối đư
ợc
mô tả là

Hô hấp miệng - miệng
8

Kiến thức của ngư
ời
dân về trẻ chết đuối
T

ần
suất
(
n=200
)
ỉ lệ
%)
2,3
Dốc nước ra
2
3 5,4
Hô hấp miệng - mi
ệng
rồi dốc nước ra
2
,1
Dốc nư
ớc ra rồi hô hấp
miệng - miệng
3
2 9,2
Mối lo ngại chính trong mùa lũ của
các hộ gia đình là sợ trẻ bị chết đuối (74%),
đói (52%) và bị bệnh (37.5%) (Bảng 2). Lý
do chính dẫn trẻ đến chết đuối chính là sự
“bất cẩn”của người giữ trẻ. Có 76 % hộ gia
đình biết thông tin về chết đuối: từ tivi là 53
%, radio và loa phát thanh 45 %, hành xóm
28 % và các nguồn khác 7%. Phần lớn (74
%) nhớ nội dung thông tin là nhắc nhở mọi

người chăm sóc trẻ tốt hơn trong mùa lũ, tiếp
theo thông báo tình hình chết đuối và có một
tỉ lệ nhỏ không nhớ nội dung thông tin.
Trong số 200 người được phỏng vấn,
¼ cho rằng họ biết hồi sức cấp cứu. Thực tế,
chỉ có 12,3 % người biết hô hấp nhân tạo, 36
% biết cách dốc cho nước chảy ra ngoài, 49,2
% biết dốc nước và hô hấp nhân tạo.
Bảng 3: Thái độ của dân vùng lũ về
tình trạng trẻ chết đuối

Thái độ
T
ần
suất
(
n=200)

ỉ lệ
%)
Không biết b
ơi là nguyên nhân chính
của chết đuối
Đồng ý
1
89 4,5
Không đồng ý
1
1 ,5
Dạy bơi là biện pháp bảo vệ cần thiết


Đồng ý
1
98 9
Thái độ
T
ần
suất
(
n=200)

ỉ lệ
%)
Không đồng ý
2
Ai dạy trẻ bơi

Gia đình
1
83 1,5
Tổ chức xã hội và khác

2
0 ,5
Đánh giá chết đuối ở địa phương
Nghiêm trọng
1
27 3,5

Thái độ

T
ần
suất
(
n=200)

ỉ lệ
%)
Trung bình
5
8 9
Không nghiêm trọng
1
5 ,5
Quan tâm c
ủa chính quyền địa
phương v
ề chết đuối
Không
6
0 0
Ít
5
8 9
Thái độ
T
ần
suất
(
n=200)


ỉ lệ
%)
Trung bình
4
4 2
Tốt
3
8 9
Cần được hỗ trợ từ chính quyền

1
39 9.5
Không
2
6 3

Thái độ
T
ần
suất
(
n=200)

ỉ lệ
%)
Không biết
3
5 7.5
Thích nghe thông tin nhất từ

Truyền hình
1
06 3
Truy
ền thanh, loa
phóng thanh
5
2 6
Khác
1
8
Thái độ
T
ần
suất
(
n=200)

ỉ lệ
%)
Chính quy
ền địa
phương
7
.5
Nhân viên y tế
5
.5
Sách
6

.5
Hàng xóm
3
.5
Báo
1
.5

Bảng 3 cho thấy thái độ người dân về
tình trạng chết đuối của trẻ em. Gần 2/3 hộ
gia đình cho trẻ em chết đuối là nghiêm
trọng, gần 1/3 cho rằng mức độ vừa phải. Nói
cách khác, hầu hết gia đình cho rằng chết
đuối ở trẻ em là vấn đề cần được quan tâm.
Tuy nhiên, 7,5 % không quan tâm tới tình
trạng này. Hơn ½ hộ gia đình cho rằng quan
tâm của chính quyền địa phương là không tốt
(59%), vừa phải (22 %), tốt (19 %).
Gần 95 % hộ gia đình đồng ý rằng
không biết bơi là nguyên nhân chính của chết
đuối và dạy cho trẻ biết bơi là cần thiết. Hầu
hết các gia đình báo cáo rằng người dạy bơi
cho trẻ là các thành viên trong gia đình. Gần
70 % hộ gia đình mong có sự giúp đỡ từ cộng
đồng.
Bảng 4: Thực hành về phòng tránh
chết đuối
Thực hành
T
ần

suất
ỉ lệ
(%)
Nhà có trẻ dư
ới 5 tuổi
có hàng rào (n=176)
4
2 3.8
Số trẻ trên 5 tu
ổi biết
bơi (n=124)
5
2 2
Nơi trẻ được gửi khi gia đình
đi làm
trong mùa lũ (n=200)
Ở nhà có ngư
ời lớn
trông
1
80 0
Nhà giữ trẻ
1
3 .5
Đem trẻ theo
6

Thực hành
T
ần

suất
ỉ lệ
(%)
Ở nhà không có ngư
ời
coi
1
.5
Kiến nghị

Nhà giữ trẻ
7
0 5
Phao cứu sinh
6
9 4.5
Gia tăng thông tin-
giáo
dục-truyền thông
4
9 4.5
Dạy bơi
1
1 .5
Thực hành
T
ần
suất
ỉ lệ
(%)

Huấn luyện sơ cứu
7
.5
* n: cỡ mẫu
Bảng 4 cho thấy thực hành trên dự
phòng chết đuối của trẻ. Hầu hết trẻ được giữ
ở nhà, một số nhỏ mang trẻ theo khi làm việc
và đưa trẻ đến nhà giữ trẻ. Tỉ lệ nhà có hàng
rào bảo vệ cho trẻ dưới 5 tuổi là 24% và ít
hơn ½ số trẻ trên 5 tuổi biết bơi.
Nghiên cứu định lượng
Bảng 5: Đặc tính dịch tễ của 52 ca
chết đuối ở huyên Châu Thành và Châu Phú
2002-2003

Đặc tính
Tần
số (n=52)
T
ỉ lệ (%)

Nam 34
6
5.4
iới
Nữ 18
3
4,6
1 6
1

1.5
2 15
2
8.9
3 16
3
0,8
uổi
4 5
9
,6
5 5
9
,6
6-10 5
9
,6
Bất cẩn 42
8
0,8
Bơi
không có giám
sát
4
7
,8
Đi chơi
một mình
2
3

,8
Đi v

sinh
2
3
,8
ý do
dẫn
đến
chết
đuối
Khác 2
3
,8

Nguồn: Số liệu từ Chau Thanh &
Chau Phu District
Bảng 5 cho thấy hơn 80% ca chết
đuối là trẻ dưới 5 tuổi, trong đó hơn 70% là
trẻ dưới 3 tuổi. Trẻ trai có tỉ lệ cao hơn nữ.
Lý do chính đưa đến chết đuối được ghi nhận
là do bất cẩn và trẻ bơi mà không có người
giám sát
BÀN LUẬN
Kiến thức
“Bất cẩn” của người giữ trẻ được xem
như nguyên nhân quan trọng nhất của chết
đuối ở trẻ em. Được xem là “ bất cẩn” khi
người giữ trẻ không trông chừng trẻ một cách

liên tục. Hậu quả là trẻ đi khỏi tầm nhìn và và
rơi xuống nước xung quanh nhà và chết đuối.
Một số ví dụ minh họa như sau:
“ M là một trẻ trai 2 tuổi, ngủ với mẹ.
M thức dậy trong khi mẹ vẫn còn ngủ. Em
chơi một mình và rơi xuống nước ở dưới nhà
và chết”
“Bà mẹ N vừa làm và vừa trông
chừng trẻ nhưng bà ta quên chú ý đôi phút,
hậu quả con của bà tự chơi và rớt xuống
nước”.
“Bà nội trông trẻ và cảm thấy buồn
ngủ. Bà ta buộc trẻ với một cái khăn mặt. Sau
đó, khăn tuột ra vì trẻ cố gắng bò đi xa, và rồi
trẻ rơi xuống nước và chết.
“Ở các gia đình nghèo, đứa lớn trông
đứa nhỏ, nhưng đưa lớn thường thích chơi và
để đứa nhỏ một mình. Đứa nhỏ đi vòng vòng
và té xuống nước.
“Có gia đình nghĩ rằng hàng rào xung
quanh nhà đủ an toàn để bảo vệ trẻ không bị
chết đuối khi chơi trong nhà mà không cần ba
mẹ trông coi. Nhưng khi cả nhà đang ngủ,
đứa trẻ phá rào ra ngoài và rơi xuống nước.

76 % hộ gia đình nhận được thông tin
về chết đuối. Điều đó có nghĩa là tỉ lệ phủ
chưa đủ cho toàn cộng đồng. Những hộ này
là những hộ có tivi hay/và radio. Thêm vào
đó, họ thường là sống gần loa phát thanh

thường được đặt ở trung tâm xã. Các hộ
không có tivi/radio nghèo hơn và sống ở
những làng xa mà tiếp cận của họ đối với
phương tiện truyền thông rất hạn chế. Thật
vậy, các loa phóng thanh là phương tiện
truyền thông chính của chính quyền địa
phương nhưng không phủ khắp các xã, đặc
biệt là các làng xa xôi. Nội dung thông tin
chủ yếu nhắc nhở “cẩn thận, để ý chăm sóc
trẻ”, “thông báo tình hình chết đuối”. Các
thông tin này quá chung chung, không thật sự
cung cấp các biện pháp bảo vệ. Thêm vào đó,
thời gian phát thanh quá trễ, khi người dân đã
đi làm và môi trường quá ồn ào khiến cho
nghe thông tin bị hạn chế.
Các phương tiện truyền thông khác
không đa dạng và không thực tế. Thí dụ như
cuốn sách mỏng với nhan đề “sống với lũ” có
“9 lời khuyên cho người lớn bảo vệ trẻ” và“ 8
lời khuyên” trẻ cần chú ý như: “không cho
phép trẻ bơi trong trong dòng nước cuốn”,
“cần để trẻ ở nơi cao có người lớn chăm sóc”.
Các hộ gia đình có thể không cần đến các lời
khuyên như vậy vì chúng quá hiển nhiên,
không cung cấp thêm thông tin hữu ích.
Không có thông tin nào viết về “sự bất cẩn
khi trông trẻ”. Mặc dù chết đuối là mối quan
ngại lớn nhất của người dân trong cộng đồng
xã, ít có buổi họp nào nói hay thảo luận về
vấn đề chết đuối. Điều cần thiết là cung cấp

thông tin cho người nghèo và ở xa không có
tivi/radio. Vì thế, cần có chương trình truyền
thông hiệu quả dựa trên nhóm có nguy cơ
cao.
Sơ cứu
“T là một cậu bé 7 tuổi không biết
bơi. Nhà của bé ở trên bờ kênh. Một đêm,
bé đau bụng và đi đại tiện trong “nhà vệ

sinh trên kênh” sau nhà. Chẳng may, bé rơi
xuống kênh. Vài phút sau, mẹ bé phát hiện
và đem bé lên bờ. Bà không làm gì cả mà
chỉ biết đưa bé ngay đến trạm y tế xã. Tại
đó, người ta đã cố gắng cứu nhưng bé đã
chết.
Số hộ gia đình biết cách sơ cứu chết
đuối rất thấp. Chỉ hơn 10 % của 200 hộ gia
đình trả lời biết. Số còn lại biết chút chút và
đôi khi biết sai. Thí dụ, khi được hỏi khi gặp
trẻ sắp chết đuối sẽ làm gì, họ trả lời “đem trẻ
tới trạm y tế gần nhất” hay “để tro lên người
để hút nước ra”. Thiếu kiến thức một phần do
hiểu sai thông tin y tế hay do kinh nghiệm
sai.
Thái độ về trẻ chết đuối
Từ thảo luận nhóm sâu và phỏng vấn
từng người, đa số cho là “trẻ chết đuối là vấn
đề và trách nhiệm chính của gia đình” hơn là
của chính quyền. Nâng cao nhận thức của
chính quyền là một việc làm cần thiết để làm

giảm tỉ lệ chết đuối.
Thực hành ngăn ngừa chết đuối
Rõ ràng là các hộ gia đình có thái độ
tốt bảo vệ con mình không bị chết đuối. Họ
cũng cố gắng hết sức mình để giữ cho con
mình an toàn. Mặc dù có nhiều nỗ lực, chết
đuối vẫn xảy ra thường xuyên. Điều này cho
thấy nhận thức của người giữ trẻ về nguy cơ
chết đuối chưa đủ và điều này có thể được
giải thích như sau:
Trước hết, hầu hết các hộ sống trong
môi trường có nhiều nguy cơ: nước ở dưới
hay xung quanh nhà. Trẻ có thể rơi xuống
nước bất kỳ lúc nào. Vì thế, cha mẹ khó mà
giữ cho trẻ an toàn từ ngày này sang ngày
khác. Thật ra, chỉ có 24 % hộ gia đình có trẻ
dưới 5 tuổi nhà có hàng rào và như vậy
dường như không có nhiều nhà có thể làm
hàng rào.

Thứ hai, hàng rào là biện pháp tốt
nhưng không phải lúc nào cũng đảm bảo bảo
vệ trẻ không bị ngã xuống nước vì có thể
hàng rào không vững chắc. Nhưng các bà
mẹ, người quá tin cậy vào hàng rào nên
chuyện không may có thể xảy ra.
Thứ ba, giữ trẻ-nghĩa là luôn luôn để
mắt đến trẻ. Đây là một quá trình liên tục và
lâu dài khiến cho người giữ trẻ nhàm chán và
mệt mỏi. Thật vậy, trẻ năng động và quá khó

để kiểm soát liên tục. Hậu quả là, sai sót
thường không thể tránh khỏi. Thí dụ, họ đôi
khi vừa làm vừa trông trẻ và lơ đễnh trong
vài phút. Hậu quả, trẻ té xuống nước và chết.
Lý do cuối cùng là trách nhiệm trông
trẻ không rõ ràng hay trẻ bơi mà không có sự
giám sát của người lớn.
Giải pháp
Nhà giữ trẻ dường như là giải pháp an
toàn và hiệu quả cho cha mẹ về vấn đề an
toàn cho trẻ trong mùa lũ. Thực tế, không có
nhiều nhà giữ trẻ ở cộng đồng. Vấn đề xây
nhà trẻ mới hay tìm nơi có thể thuê nhà để
làm nhà giữ trẻ là một thách thức. Một vấn đề
khác nên được xem xét về mặt nhân sự và
nhân lực chẳng hạn như giáo viên, dinh
dưỡng cho trẻ, di chuyển và các chi phí khác.
Cuối cùng, các gia đình nghèo không
có tiền trả cho nhà giữ trẻ và họ không có
thuyền đưa đón trẻ khi gửi trẻ ở nhà trẻ. Thực
tế là chỉ có một số nhỏ gia đình gửi trẻ ở nhà
giữ trẻ. Sống tập trung trong vùng chống lũ
không phải luôn luôn là một giải pháp tốt bởi
vì các gia đình nghèo thường thấy khó sống
trong một môi trường mới không thuận lợi
cho công việc mưu sinh của họ. Vì thể để giải
quyết vấn đề này, chính quyền địa phương đề
nghị phải được hướng dẫn, chỉ thị và giúp đỡ
từ các cấp và nguồn lực bên ngoài.
Mặc dù các hộ gia đình biết rằng biết

bơi là một kỹ năng quan trọng để sống sót

trong vùng lũ và hội chữ thập đỏ gần đây đã
tổ chức một số khóa huấn luyện bơi nhưng
chỉ có chưa đến một nửa số trẻ trên 5 tuổi có
biết bơi. Bố mẹ thường thấy khó khăn khi
hướng dẫn trẻ dưới 5 tuổi bơi bởi vì họ thiếu
kỹ thuật và kiến thức. Những người khác sợ
rằng “trẻ tiếp xúc sớm với nước dễ bị bệnh”.
Ngoài ra, cuộc điều tra cũng ghi nhân rằng có
một số trẻ từ 3-4 tuổi biết bơi. Vì thế, hướng
dẫn bơi sớm có thể cũng là một giải pháp tốt.
Một giải pháp khác đó là dùng “nôi”
cho trẻ mới sinh cho đến dưới 4 tuổi. Một cái
nôi có chiều cao cao hơn chiều cao của trẻ có
thể giữ nó an toàn khi bố mẹ làm việc hay
nghỉ ngơi. Một áo phao cho trẻ sống trong
gia đình trên các kênh rạch là một giải pháp
đáng được xem xét khi chẳng may trẻ rơi
xuống nước.
Mặc dù Ủy ban phòng chống thảm
họa và thiên tai đã được thiết lập ở các địa
phương, nhưng các hoạt động của ủy ban trên
để giảm thiểu chết đuối của trẻ vẫn còn rất
hạn chế.
KẾT LUẬN
Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, nguy
cơ chết đuối của trẻ rất cao ở vùng đồng bằng
sông Mekong, đặc biệt là trẻ trai dưới năm
tuổi. Kết quả này cũng phù hợp với nhiều

nghiên cứu về tuổi của chết đuối ở trẻ em
(3)

Lý do chính là “bất cẩn” của người trông trẻ
có ít sự hiểu biết về các nguy cơ gây ra chết
đuối và sơ cứu trẻ khi bị chết đuối. Trong
mùa lũ, quan tâm lớn nhất của phần lớn các
gia đình có trẻ em dưới 10 tuổi là chết đuối.
Hầu hết gia đình đánh giá rằng vấn đề chết
đuối của địa phương là từ mức độ trung bình
đến trầm trọng và cho rằng “không biết bơi”
là nguyên nhân trực tiếp của chết đuối và dạy
bơi chơ trẻ là biện pháp bảo vệ cần thiết.
Thực tế, gia đình là nơi chính chăm sóc trẻ và
bảo vệ trẻ khỏi nguy cơ chết đuối, chỉ có một
số trẻ được chăm sóc ở nhà giữ trẻ trong mùa

lũ và một số nhỏ trẻ được bố mẹ mang theo
khi làm việc.
Nghiên cứu này cũng ghi nhận rằng
chết đuối của trẻ em có thể xảy ra bất kỳ mùa
nào trong năm, nhưng nhiều nhất là trong
mùa lũ; thường là trẻ sống trong gia đình
nghèo và ở vùng xa, nhà của trẻ thường ở
trên các kênh và các dòng sông.
Chết đuối vẫn còn xem là một vấn đề
của gia đình hơn là một vấn đề của cộng
đồng. Quan tâm của chính quyền chưa đáp
ứng được mức độ gánh nặng tâm lý và kinh
tế mà chết đuối của trẻ em gây ra cho gia

đình và cộng đồng. Mặc dù, địa phương đã
dành nhiều thời gian hơn và tiến hành nhiều
hoạt động hơn cho chết đuối của trẻ trong
thời gian gần đây, nhưng tình trạng chết đuối
của trẻ vẫn còn là vấn đề y tế công cộng (4).
Kết quả cũng cho thấy có một khoảng khác
biệt lớn giữa nhận thức của người dân và các
tổ chức đoàn thể về các hoạt động đã thực
hiện nhằm giảm thiểu chết đuối.
Tỉ lệ KAP được xác định trong nghiên
cứu này có thể không đại diện cho vùng đồng
bằng sông Mekong. Tuy nhiên, các kết quả
nghiên cứu này có thể giúp cho sự hiểu biết
nguyên nhân của chết đuối và sử dụng chúng
trong phòng tránh chết đuối ở trẻ em vùng
đồng bằng sông Mekong.
ĐỀ NGHỊ
Đối với kiến thức
Đa dạng hóa các hoạt động thông tin
giáo dục truyền thông cả về chiều rộng và
chiều sâu để gia tăng nhận thức và thực hành
của người dân về nguy cơ chết đuối. Nội
dung của thông tin nên tập trung trên các
nguy cơ chết đuối ở trẻ em và hướng dẫn về
sơ cứu ban đầu một cách thích hợp.

Đối với thái độ
Chính quyền địa phương cần nâng cao
nhận thức về nguy cơ chết đuối, cần tiến
hành nhiều hoạt động để giảm thiểu chết đuối

ở trẻ em vì chết đuối cũng là một vấn đề của
cộng đồng và cần giải quyết bởi cộng đồng,
chứ không phải chỉ gia đình.
Đối với thực hành
Chính quyền địa phương cần có một
chương trình hành động cụ thể, có nguồn lực
và huy động xã hội cho các hoạt động thích
hợp để giảm thiểu nguy cơ chết đuối ở trẻ
em. Có lẽ tốt hơn một một bộ phận của chính
quyền sẽ chịu trách nhiệm chính về phòng
chống chết đuối. Các biện pháp bảo vệ như
xây dựng nhà giữ trẻ, “nôi” và hàng rào “kiên
cố” nên được khuyến khích. Đồng thời phải
xem xét những gia đình khó khăn ở vùng xa
sẽ được chuyển đến những vùng đất cao cùng
với các hoạt động xóa đói giảm nghèo để có
thể góp phần gián tiếp đến chết đuối của trẻ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo cáo thiệt hại do lũ năm
(2002). Ban phòng chống lụt bão An
Giang.
2. Begg S. Tomijima N, Vos T,
Mathers C (2002). Global burden of
injury in the year 2000: an overview of
methods. Geneva. GPE. World health
organization.
3. Peden MM, McGee K (2003).
The epidemiology of drowning
worlwide. Injury control and safety
promotion; 10(4): 195-199.

4. Sethi D, Zwi A (1998).
Challenge of drowning prevention in
low and middle income countries. Inj
Prev; 4:162.

×