Website: Email : Tel : 0918.775.368
ĐỊNH HƯỚNG KHAI THÁC ĐỀ TÀI
Hiện nay, rất nhiều quan niệm cho rằng chỉ có báo chí ở các nước TBCN
mới có tự do. Còn báo chí ở các nước XHCN hoàn toàn nằm trong sự bó buộc,
giám sát của chính quyền. Cũng không ít luận điệu của phe phản động cho rằng
Việt Nam cần phải thay đổi thể chế chính trị thì mới có thể có nền báo chí tự do.
Trên đài BBC tiếng Việt, có rất nhiều người Việt Nam phản đối những luận điệu
không đúng thực tế này. Tuy nhiên, họ mới chỉ đưa ra lời phản đối mà không
đưa ra được minh chứng và cũng không làm được điều ngược lại đó là đưa ra
các dẫn chứng về sự “không tự do” của báo chí TBCN.
Lấy một ví dụ về những luận điệu không đúng thực tế:
“Dưới thể chế độc tài, tại sao chính quyền lại luôn chủ trương kiểm soát
gần như tuyệt đối các phương tiện truyền thông? Tại sao không có đến thậm chí
một phương tiện truyền thông đại chúng nào được hoạt động độc lập dưới các
nhà nước cộng sản như Trung Quốc, Cu Ba, Việt Nam và Bắc Hàn?
Dưới thể chế dân chủ phóng khoáng (liberal democracy), tại sao các hệ
thống chính trị thường phải dồn tối đa nỗ lực, trí tuệ để khai dụng, bằng một
phương cách khôn ngoan, khéo léo nhưng không kém phần gay gắt, các phương
tiện truyền thông tự do, để thuyết phục và gây ảnh hưởng lên dân chúng về
chính sách của họ?
Hay phải chăng mọi thể chế chính trị đều nỗ lực tác động lên tư tưởng,
bằng cách thuyết phục và quảng cáo trong thể chế dân chủ, hay bằng cách kiểm
soát và tuyên truyền trong thể chế độc tài, với mục tiêu tối hậu là giành lấy sự
ủng hộ ngắn hạn và sự hậu thuẫn lâu dài của dân chúng? Nói cách khác, trong
thể chế độc tài, quan hệ giữa chính trị và truyền thông, ngoại trừ truyền thông
mật (ngoài luồng), phần lớn mang tính một chiều, mà chủ yếu là chính trị điều
khiển truyền thông. Ngược lại, trong thể chế dân chủ phóng khoáng, tự do thông
tin ngôn luận, đặc biệt từ khi xuất hiện tràn ngập các phương tiện truyền thông
đại chúng, không những là quan hệ hai chiều giữa chính trị và truyền thông, mà
nhiều khi truyền thông đã chủ động, cả tích cực lẫn tiêu cực, uốn nắn cung cách
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hoạt động của giới chính trị” (Trích từ “Truyền thông và chính trị” của Phạm
Phú Đức, ngày 17/1/2007)
Thế nào là tự do báo chí? Ở các nước TBCN, tự do báo chí đạt tới ngưỡng
nào? Có phải báo chí ở các nước TBCN muốn viết gì, nói gì cũng được, chỉ cần
đó là sự thực?
Chúng tôi lấy quan điểm tự do báo chí của Karl Marx làm kim chỉ nam
cho công cuộc vạch ra những điểm không tự của báo chí TBCN:
"Báo chí tự do – đó là con mắt sáng suốt của tinh thần nhân dân, là hiện
thân sự tin cậy của nhân dân đối với bản thân mình, là những dây liên hệ biết nói
gắn liền các cá nhân với nhà nước và với toàn thế giới. Nó là hiện thân của nền
văn hóa đang biến cuộc đấu tranh vật chất thành cuộc đấu tranh tinh thần và lý
tưởng hóa hình thức vật chất thô bạo của cuộc đấu tranh đó. Báo chí tự do – đó
là sự sám hối công khai của nhân dân trước bản thân mình, mà lời thú nhận thật
tâm như mọi người đều biết thì có cơ cứu rỗi. Báo chí tự do – đó là tấm gương
tinh thần trong đó nhân dân nhìn thấy bản thân mình mà sự tự nhận thức là điều
kiện đầu tiên của sự sáng suốt..."
"Báo chí nói chung là sự thực hiện tự do của con người. Do đó ở đâu có
báo chí ở đó có tự do báo chí".
"Bản chất" của báo chí tự do – đó là bản chất dũng cảm, có lý tính, có đạo
đức của tự do".
"Báo chí tự do là toàn diện, nơi nào cũng có mặt, cái gì cũng biết. Báo chí
tự do là cái thế giới ý tưởng không ngừng trào ra từ thực tế hiện thực và lại chảy
trở về hiện thực như một dòng thác đầy sinh khí dưới hình thức của cái tinh thần
ngày càng dồi dào".
"Báo chí quan hệ với điều kiện sinh sống của nhân dân với tư cách là lý
tính, nhưng cũng không kém phần với tư cách là tình cảm. Vì vậy báo chí không
chỉ nói bằng tiếng nói lý tính của sự phê phán đang nhìn những mối quan hệ
hiện tồn từ đỉnh cao của mình, mà còn nói bằng tiếng nói đầy nhiệt tình của bản
thân cuộc sống"...
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
"Báo chí tự do đem tình trạng (bần cùng) của nhân dân dưới hình thái trực
tiếp của nó, không bị khúc xạ qua bất kỳ giới quan liêu nào tới ngưỡng cửa của
quyền uy (nhà vua), đưa nó tới trước quyền lực của nhà nước... Báo chí chẳng
qua chỉ là và phải là "biểu hiện" vang dội của những tư tưởng và tình cảm hàng
ngày của nhân dân đang suy nghĩ thật sự theo cách của nhân dân – biểu hiện thật
ra đôi khi nồng nhiệt, phóng đại và sai lầm".
"Trong hy vọng và lo lắng có điều gì báo chí nghe được ở cuộc sống, báo
chí sẽ lớn tiếng loan tin, báo chí tuyên bố sự phán xét của mình đối với những
tin tức đó một cách gay gắt, hăng say, phiến diện như những tư tưởng và tình
cảm bị xúc động thầm bảo nó vào lúc đó".
Chúng tôi sẽ giải quyết vấn đề này bằng phương pháp chứng minh phản
chứng, với vấn đề “sự can thiệp của nhà nước TBCN đối với báo chí”, để từ đó
thấy rằng, báo chí ở các nước TBCN không phải lúc nào cũng tự do, thậm chí
còn bị xâm hại về quyền lợi.
Bài tiểu luận gồm có 4 chương:
- Chương I: Khái quát chung về báo chí TBCN. Qua đó thấy rõ bức tranh
tổng thể của báo chí TBCN.
Mô hình xã hội phương Tây
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
- Chương II: Tìm hiểu nguyên nhân sâu xa của sự can thiệp của các nước
TBCN đối với báo chí.
- Chương III: Đưa ra các hình thức can thiệp của nhà nước TBCN đối với
báo chí
- Chương IV: Hệ quả của quá trình có bàn tay can thiệp của nhà nước
TBCN đối với báo chí
Hy vọng rằng, cuốn tiểu luận này sẽ củng cố thêm cho người đọc lòng tin
vào tự do báo chí ở Việt Nam trong giai đoạn có nhiều biến động này. Tiểu luận
còn nhiều thiếu sót về dẫn chứng và nhiều chỗ phân tích, bình luận còn chưa
chặt chẽ. Vì vậy rất mong sự góp ý của Thầy và các bạn. Xin chân thành cảm
ơn!
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ BÁO CHÍ TBCN
Báo chí ở các nước TBCN có gì khác so với báo chí ở các nước khác?
Báo chí TBCN hình thành, phát triển như thế nào? Và trong suốt quá trình đó,
có thực sự báo chí TBCN luôn mang trên mình “cây quyền trượng tự do ngôn
luận”? Trong chương này, chúng tôi sẽ giải quyết những vấn đề đó.
1. Đôi nét về CNTB
Nền văn hóa, quan điểm văn minh ảnh hưởng rất lớn tới phong cách,
đường lối của báo chí. Đặc biệt dưới hình thái xã hội tư bản, báo chí có những
nét riêng biệt nhất định. Tìm hiểu về cơ sở xã hội để thấy rõ hơn về bản chất của
báo chí tại đây.
Chủ nghĩa tư bản là một hình thái kinh tế – xã hội phát triển cao của xã
hội loài người, xuất hiện đầu tiên tại châu Âu phôi thai và phát triển từ trong
lòng xã hội phong kiến châu Âu và chính thức được xác lập như một hình thái
xã hội tại Anh và Hà Lan ở thế kỷ thứ 18. Sau cách mạng Pháp cuối thế kỷ 18
hình thái chính trị của nhà nước tư bản chủ nghĩa dần dần chiếm ưu thế hoàn
toàn tại châu Âu và loại bỏ dần hình thái nhà nước của chế độ phong kiến, quý
tộc. Và sau này hình thái chính trị – kinh tế – xã hội tư bản chủ nghĩa lan ra
khắp châu Âu và thế giới.
Đặc điểm đặc trưng nhất của chủ nghĩa tư bản là quyền sở hữu tư nhân
đối với phương tiện sản xuất và quyền tự do kinh doanh được xã hội bảo vệ về
mặt luật pháp và được coi như một quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm của
con người. Trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa không loại trừ hình thức sở hữu
nhà nước và sở hữu toàn dân và đôi khi ở một số nước tại một số thời điểm tỷ
trọng của các hình thức sở hữu này chiếm không nhỏ, nhưng điều cơ bản phân
biệt xã hội của chủ nghĩa tư bản với xã hội đối lập với nó là xã hội cộng sản là
trong xã hội tư bản chủ nghĩa quyền tư hữu đối với phương tiện sản xuất là
thiêng liêng được xã hội và pháp luật bảo vệ, sự chuyển đổi quyền sở hữu phải
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thông qua giao dịch dân sự được pháp luật và xã hội quy định. Còn chủ nghĩa
cộng sản loại trừ quyền tư hữu đối với phương tiện sản xuất.
Trong hình thái kinh tế tư bản chủ nghĩa các cá nhân dùng sở hữu tư nhân
để tự do kinh doanh bằng hình thức các công ty tư nhân để thu lợi nhuận thông
qua cạnh tranh trong các điều kiện của thị trường tự do: mọi sự phân chia của
cải đều thông qua quá trình mua bán của các thành phần tham gia vào quá trình
kinh tế. Các công ty tư nhân tạo thành thành phần kinh tế tư nhân là thành phần
kinh tế chủ yếu của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Có thể nói các yếu tố quyền tư
hữu, thành phần kinh tế tư nhân, kinh doanh tự do, cạnh tranh, động lực lợi
nhuận, tính tự định hướng tự tổ chức, thị trường lao động, định hướng thị
trường, bất bình đẳng trong phân phối của cải là các khái niệm gắn liền với nền
kinh tế tư bản chủ nghĩa.
2. Các thời kì truyền thông chính trị
Chúng tôi tạm chia truyền thông trong chính trị ra làm 4 thời kì, đánh dấu
những bước phát triển quan trọng sứ mệnh chính trị của truyền thông. Từ đó
thấy rằng, ở nhà nước TBCN, truyền thông không thể tách rời chính trị và không
thể chối bỏ nhiệm vụ là công cụ của chính quyền.
2.1. Thời kỳ ‘0’
Có thể được xem là thời kỳ khai sinh nền truyền thông. Truyền thông vào
lúc này chủ yếu là báo chí, mà báo chí lại đi đôi với chính trị (chính quyền) ngay
từ ban đầu.
Thí dụ, đối với Úc, báo chí là một chi nhánh của chính quyền, điển hình
như tờ Sydney Gazette xuất bản năm 1803, chủ yếu là để đưa thông tin của
chính quyền đến người dân, và mãi cho đến năm 1826, chính quyền Úc gần như
nắm hoàn toàn quyền hành đối với báo chí (Theo Schultz, Julianne, Reviving the
Fourth Estate. Democracy, Accountability and them media, Cambridge
University Press, Cambridge, 1998 - Trang 81). Tuy nhiên, vào năm 1824, một
số tờ báo bắt đầu được xuất bản tại tiểu bang NSW mà không có sự đỡ đầu nào
từ chính quyền, từ đó khai mào cho sự hoạt động độc lập sau này. Tuy nhiên, cả
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
một thế kỷ tiếp theo đó, quan hệ giữa truyền thông và chính trị là một sự chồng
chéo phức tạp giữa kinh tế cũng như quyền lực và ảnh hưởng. Ngay cả đến cuối
thập niên 1930, truyền thông vẫn chủ yếu thiên đảng (tức nghiên về một đảng
nào đó), chứ vẫn chưa đứng khách quan, độc lập... Ông Keith Murdoch, bố của
Rupert Murdoch (là một trong những chủ nhân sở hữu nhiều phương tiện truyền
thông đại chúng nhất trong nhiều thập niên qua), lúc đó chỉ sở hữu vài tờ báo
trên nước Úc, nhưng từng tuyên bố về cựu Thủ Tướng Úc, Joseph Lyons (1932-
1939), rằng "Tôi đã đưa ông ấy vào ghế đó và tôi sẽ đưa ông ra khỏi ghế đó"
(ông Murdoch đã thực sự làm được việc đó). Cho nên, nói tóm lại, quan hệ giữa
truyền thông và chính trị là một mối phức tạp, luôn thay đổi nhưng vẫn luôn chặt
chẽ không thể tách rời, dù trên lý thuyết (như hiến pháp) nó phải được tách rời
hẳn hoi.
2.2. Thời kỳ 1
Đó là hai thập niên sau Thế chiến thứ hai, được xem là thời kỳ hoàng kim
của các đảng phái chính trị. Trong thời gian này, hệ thống đảng là nơi chủ chốt
đề xướng các cuộc tranh luận để cải tổ xã hội, và là nơi chủ yếu quyết định
chính sách. Cử tri thì thường có một sự liên hệ (cảm tình viên, ủng hộ viên...),
với các đảng phái vững mạnh và hiện hữu lâu dài. Sự tin tưởng và đồng thuận
của quần chúng đối với các định chế chính trị rất cao, do đó truyền thông chính
trị chủ yếu phụ thuộc vào niềm tin cũng như các định chế chính trị vững mạnh
và ổn định. Vào lúc này, các nhà lãnh đạo chính trị thường nói về những vấn đề
họ quan tâm, đặc biệt là những thay đổi họ muốn thấy từ chính quyền cũng như
các chính sách và nguyên tắc mà phân biệt họ với các phiá đối lập. Nói chung,
vào lúc này, các thông điệp chính trị đúng đắn thường dễ được các phương tiện
truyền thông loan tải, phổ biến.
2.3. Thời kỳ 2
Đó là thời điểm mà truyền hình xuất hiện, với một số đài giới hạn phát
hình toàn quốc, và sau đó trở thành phương tiện truyền thông chính trị chính. Sự
xuất hiện của truyền hình, thể hiện rõ nhất qua cuộc tranh cử tổng thống Hoa Kỳ
năm 1960 giữa John Kennedy và Richard Nixon, đã thay đổi bộ mặt truyền
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
thông chính trị. Lúc này, phần lớn các cơ quan truyền thông bắt đầu đứng độc
lập, không nghiêng hẳn về đảng nào, đề cao tính cách công bằng, không thiên vị,
khách quan và trung lập. Các giá trị này dần dần được xem là tiêu chuẩn mẫu
mực để đánh giá sản phẩm truyền thông. Do các yếu tố nêu trên, các đảng chính
trị không còn nhiều ảnh hưởng như trước đối với truyền thông, và ngay cả các
cơ quan truyền thông do các đảng chính trị nuôi dưỡng cũng không thể hoạt
động hiệu quả trong thời kỳ cạnh tranh này, bởi cảm nhận của đa số người dân
là không còn xem nó là khách quan và trung thực nữa. Do đó, các đảng chính trị
phải đưa ra những sáng kiến và chiến thuật mới để thu hút giới truyền thông, để
được truyền thông loan tải tin tức theo chiều hướng có lợi cho mình, và để ảnh
hưởng lên chương trình nghị sự của giới truyền thông, ví dụ như họp báo là hình
thức có thể chủ động để đưa ra các quan điểm đã chuẩn bị sẵn. Cũng vào lúc
này, các chủ đề vận động tranh cử phải được thử nghiệm trước, và các chính trị
gia không được khuyến khích nói ra những gì mình suy nghĩ như trước kia mà
thường phải tham khảo ý kiến của giới chuyên gia để lượng định kết quả (tích
cực hay tiêu cực) trước khi sự việc xảy ra, để rồi đi đến kết luận và lấy quyết
định nên hay không nên nói những gì qua truyền thông.
2.4. Thời kỳ 3 (đã, đang và vẫn còn tiếp diễn)
Giai đoạn này được đánh dấu bởi sự tràn ngập của các phương tiện truyền
thông đại chúng, từ báo chí, truyền thanh, truyền hình, đến truyền thông mới
(Internet). Hai giáo sư của lĩnh vực truyền thông Blumler và Kavanagh cho rằng
có 5 chiều hướng bao gồm các đặc điểm truyền thông chính trị như sau:
1- Sự gia tăng chuyên nghiệp trong cung cách vận động chính trị
2- Sự gia tăng áp lực cạnh tranh
3- Đại chúng hoá và chủ nghĩa quần chúng phản trí thức (hay phản ưu tú,
tức Anti-elitist)
4- Sự đa dạng hoá ly tâm (Centrifugal diversification)
5- Sự tiếp nhận của khán - thính - độc giả về chính trị
Để dễ phân tích và nhận định, xin tóm tắt 5 đặc điểm lại như sau:
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Gia tăng sự cạnh tranh và vận động chính trị: Trong thời đại này, các
nguồn gây ra áp lực trên chính trị và truyền thông là nhiều hơn bội phần so với
hai thời kỳ trước. Trong môi trường mới như thế, để thông tin, thuyết phục hay
đặt để vấn đề gì, chính trị phải có khả năng thu hút các nhà báo, chủ báo và khán
- thính - độc giả. Sự tràn ngập thông tin đã làm cho khán thính độc giả tự nhiên
thấy cần phải chọn cái gì thích hợp với mình nhất, từ đó văn hoá “lựa và chọn”
nảy sinh, cho nên truyền thông không còn mang nặng tính thiên đảng nữa.
Những chương trình chính trị hoàn toàn nghiêm chỉnh không còn được xem là
thu hút đối với đại đa số quần chúng hỗn hợp (thay vào đó là phương cách nửa
thông tin nửa giải trí - infotainment). Giới chính trị (đảng phái và chính trị gia)
đã phải tìm phương cách mới để ảnh hưởng lên truyền thông, và do đó phải lệ
thuộc khá nhiều vào sự giúp đỡ của giới chuyên môn trong lãnh vực truyền
thông để trau dồi, gia tăng khả năng thuyết phục. Kể từ đó, đại đa số các chính
quyền và đảng phái ở Hoa Kỳ, Anh, Úc đều bắt đầu hình thành các bộ phận
truyền thông (tuy trước đây đã có nhưng không mang tầm quan trọng, chuyên
môn và chiến lược như lúc này) để quản lý thông tin và quan hệ quần chúng.
Đại chúng hoá, chủ nghĩa quần chúng và đa dạng hoá theo chiều hướng
phản trí thức: Đầu thập niên 1990 xuất hiện các làn sóng đại chúng hoá và chủ
nghĩa quần chúng mang tính cách phản trí thức trong lĩnh vực chính trị và truyền
thông. Trong các thời kỳ trước, thí dụ như thời kỳ 2, khán thính độc giả nói
chung rất giống nhau, và nội dung các chương trình của truyền thông đại chúng
thật ra không khác nhau nhiều lắm. Phần lớn, truyền thông chính trị là từ trên đi
xuống, và đa số các vấn đề (chính sách, chiến lược v.v...) được hoạch định và
thảo luận trong đảng, nhưng cũng chủ yếu do giới ưu tú/ trí thức cầm đầu.
Những thông điệp chính trị thì nhắm vào đại đa số cử tri. Tuy nhiên, trong thời
kỳ 3, khi có quá nhiều chọn lựa thì số lượng khán thính độc giả cho bất cứ một
chương trình nào đó đều bị giảm đi, và họ có thể chọn nghe hoặc không nghe,
do đó các chương trình tin tức mang tính cách nặng nề và áp đặt rất khó được
chấp nhận như trước. Các chương trình truyền thông về chính trị phải được thực
hiện một cách hấp dẫn và lôi cuốn hơn. Giới chính trị phải nói theo ngôn ngữ
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
bình dân hơn, và phải tỏ ra quan tâm đến phúc lợi của người dân thường, điển
hình qua các chương trình hội luận (talk-shows, hay talk-back radios). Sự xuất
hiện của phương tiện truyền thông mới Internet, và chính trị trên Internet, đã
ngày càng gây nhiều ảnh hưởng và trở thành một phương tiện có thể dùng để
vận động chính trị cho các nhóm có chung quyền lợi, sở thích ở trong hay ngoài
lục địa quốc gia.
Khả năng tiếp thu của dân chúng về chính trị: Khi văn hoá “lựa và chọn”
xuất hiện, và khi thông tin bị tràn ngập và do ảnh hưởng của các quan điểm
chính trị khác nhau tác động, cách thu nhận các luồng thông tin của khán thính
độc giả cũng bị ảnh hưởng sâu rộng. Người dân được tiếp cận với các loại
chương trình chính trị mang tính cách ngoạn mục, gây cảm xúc mạnh, và lắm
khi tiêu cực. Ngoài ra, họ cũng tiếp thu luồng thông tin chỗ này và chỗ kia nên
cũng không biết hư thực ra sao, và không thể đan kết lại với nhau để hệ thống
hoá và không thể tiêu hoá nổi lượng thông tin đó. Cho nên nhiều khi mức độ
hiểu biết/ kiến thức của dân chúng có thể kết luận là phát triển bề rộng nhiều
hơn là bề sâu.
Nói chung, truyền thông chính trị đóng vai trò vô cùng quan trọng, nếu
không muốn nói hàng đầu, đối với mọi hoạt động chính trị và mọi giới chính trị
trong thời đại này. Cho nên, mọi quyết định chính trị hiện nay, không nhiều thì
ít, đều bao gồm yếu tố truyền thông trong đó.
3. Báo chí ở xã hội TBCN qua một số giai đoạn tiêu biểu
Chúng tôi tổng hợp 2 giai đoạn theo cách phân loại của Pierre Albert
trong bộ sách Que sais je?: giai đoạn thế kỉ 17, 18- báo chí có sự tiến bộ và đa
dạng hóa và giai đoạn đầu thế kỉ 19 đến năm 1871- thời kì công nghiệp hóa và
dân chủ hóa báo chí. Qua nền báo chí ở nhiều nước TBCN trong hai giai đoạn
này, chúng tôi làm rõ được phần nào bức tranh mang tên Tự Do của báo chí
TBCN. Từ khi ra đời đến khi bắt đầu có những bước phát triển, báo chí TBCN
chưa từng có khoảng thời gian “tự do” theo đúng nghĩa mà TBCN vẫn rêu rao.
Kiểm soát truyền thông - Những thành tích ngoạn mục của tuyên truyền
(Media control - The spectacular achievements of propaganda) của Noam
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Chomsky là một cuốn sách viết về vấn đề và tư tưởng trong các xã hội dân chủ
đương đại. Rất nhiều người lầm tưởng rằng vấn đề kiểm soát truyền thông và tư
tưởng chỉ có trong các xã hội toàn trị, nhưng thực chất nó tồn tại trong tất cả các
quốc gia hiện nay, kể cả Mỹ và Tây Âu, tuy ở các hình thức khác nhau thô thiển
hay tinh vi, đơn giản hay phức hợp, công khai hay che giấu. Chomsky viết rằng:
"Tuyên truyền của nhà nước, khi được các tầng lớp có học ủng hộ và khi không
có sự trệch hướng được cho phép, có thể có hiệu quả lớn. Đó là bài học được
Hitler và nhiều người khác học thuộc và nó vẫn còn được tiếp tục cho đến tận
hôm nay." Nền dân chủ khán giả và quan hệ công chúng chính là các hình thức
kiểm soát truyền thông và tư tưởng hữu hiệu. Mục đích của quan hệ công chúng
(public relations) chính là "kiểm soát nhận thức của công chúng" (Chomsky sử
dụng từ public mind). Nhiều người lầm tưởng rằng quan hệ công chúng chỉ là
một hình thức quảng cáo hay kinh doanh thuần túy. Nhưng đó chỉ là bề nổi, là
bộ mặt bên ngoải, còn bản chất bên trong chính là kiểm soát tư tưởng thông qua
truyền thông. Khi hệ thống chính trị áp dụng một cách nhuần nhuyễn quan hệ
công chúng đó là lúc tuyên truyền nhà nước thu được các kết quả ngoạn mục.
Chomsky còn có nhận xét thế này: "Lý thuyết dân chủ tự do và chủ nghĩa Marx
- Lenin rất gần nhau trong những giả định tư tưởng chung của chúng."
Chomsky nêu ví dụ rất hay về tuyên truyền qua hình thức quan hệ công chúng.
Đó là trận đình công ngành thép vào năm 1937 ở Tây Pennsyvalnia. Các phương
thức cũ chống đình công không hiệu quả. Và thế là người ta nghĩ ra cách mới
chống đình công: quan hệ công chúng. Mục đích của quan hệ công chúng là làm
sao để tất cả mọi người phản đối những người đình công, và cho mọi người thấy
những người đình công như là những kẻ phá hoại và gây hại đối với những lợi
ích chung và công cộng. Và thế là các giá trị Mỹ (Chomsky dùng từ
Americanism, chúng tôi tạm dịch là các giá trị Mỹ) được đề cao cổ vũ mọi
người trong một tinh thần hòa hợp. Truyền thông được huy động làm việc này.
Ai có thể chống lại giá trị Mỹ? Ai có thể chống lại sự hòa hợp? Không ai cả.
Nhận thức của công chúng được điều chỉnh theo tuyên truyền. Mọi người cứ
tưởng rằng tư tưởng và nhận thức của mình rất được tự do, rất được dân chủ,
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
nhưng thực chất đều đã bị điều chỉnh, đã bị kiểm soát một cách rất tinh vi. Và
kết quả đình công bị dập tắt. Những khẩu hiệu được đưa ra, những khẩu hiệu
không ai cảm thấy không thể đồng ý hay phản đối, nhưng thực ra rỗng tuếch,
không chứa bất cứ một nội dung thực tế nào, làm cho công chúng không còn
nhận ra bản chất thực sự của vấn đề.
Ví dụ gần đây, không phải do Chomsky viết trong sách, là chiến dịch
tuyên truyền Iraq có vũ khí hủy diệt hàng loạt. Cực kỳ hiệu quả, không chỉ trong
nước Mỹ, mà gần như trên toàn thế giới. Điều kỳ lạ là khi không ai có thể tìm ra
vũ khí hủy diệt ở Iraq, công chúng vẫn không cảm thấy mình bị lừa, hay bị
tuyên truyền. Sự kiểm soát truyền thông và tư tưởng có thể nói đạt tới cảnh giới
rất cao, cấp độ mà giới truyền thông ở một số nước còn lâu mới đạt tới. Sự thành
công của tuyên truyền nhà nước không khỏi không có sự ủng hộ của tầng lớp có
học. Nhưng có một điều lạ nữa là những tầng lớp có học ủng hộ tuyên truyền
này không bị (hay tự) dán mác "phò". (Tài liệu dịch).
Trích tiểu sử tác giả: Avram Noam Chomsky, Ph.D (sinh 7 tháng 12, 1928
tại East Oak Lane thuộc vùng ngoại ô của Philadelphia, Pennsylvania) là Giáo
sư về hưu (Emeritus) về ngôn ngữ học tại Massachusetts Institute of
Technology. Chomsky nhận bằng Ph.D về ngôn ngữ học từ Đại học
Pennsylvania vào năm 1955. Ông tiến hành các nghiên cứu cho luận án của
mình trong suốt 4 năm ở Đại học Harvard như là Harvard Junior Fellow. Trong
luận án tiến sỹ, ông bắt đầu phát triển một số ý tưởng về ngôn ngữ của mình,
phát triển thêm trong cuốn sách xuất bản năm 1957 Syntactic Structures (Các
cấu trúc ngữ pháp), có lẽ là công trình được nhiều người biết nhất trong ngành
ngôn ngữ học. Chomsky gia nhập như là giảng viên của Massachusetts Institute
of Technology vào năm 1955 và vào 1961 được phong hàm giáo sư trong Khoa
Ngôn ngữ hiện đại và ngôn ngữ học (nay là Khoa ngôn ngữ học và Triết học).
Từ 1966 đến 1976 ông nắm Ferrari P. Ward Professorship of Modern Languages
and Linguistics. Vào 1976 ông được phong Institute Professor. Chomsky giảng
dạy tại MIT một cách liên tục trong 50 năm qua.
12
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Và 2 giai đoạn phát triển của lịch sử báo chí sau đây sẽ chứng minh nhận
định kiểm soát truyền thông của Noam Chomsky:
3.1. Thế kỉ XVII và XVIII
Đây là thời kì báo chí có sự tiến bộ và đa dạng. Tuy nhiên, để có được
thành quả này, báo chí đã phải vượt qua chế độ kiểm duyệt khắt khe kìm hãm,
bất chấp chế độ đặc quyền và bất chấp mọi sự kiểm duyệt.
3.1.1. Báo chí Anh: đấu tranh giành quyền lực (1621 – 1791)
Từ 1621 đến 1662, thực ra báo chí Anh sống dưới chế độ độc quyền, mà
tình hình chính trị bất an (do nội chiến) làm cho rắc rối thêm. Những tờ báo hợp
pháp có đời sống vất vả và ngắn ngủi. Dưới triều Tudor và đầu triều Stuart, báo
chí được đăng những tin chính thức của triều đình, thậm chí từ 1632 đến 1641
còn bị cấm không đăng các tin tức nước ngoài. Nghị viện thiết lập chế độ kiểm
duyệt chặt chẽ báo chí, do đó năm 1644 mới ra đời cuốn Aeropagitica của
Milton đấu tranh kịch liệt đòi tự do báo chí, tuy nhiên nói về sách nhiều hơn
báo.
Nền quân chủ được khôi phục năm 1660 càng làm chế độ đối với báo chí
thêm khắc nghiệt. Năm 1662, các báo bị cấm không được tường thuật các phiên
họp của Nghị viện, và pháp lệnh licensing act củng cố thêm việc ra báo phải xin
phép trước và bị kiểm duyệt. Chỉ đến 1695, sáu năm sau cuộc Cách mạng 1688,
pháp lệnh này mới hết hiệu lực. Trong vòng một thế kỷ, báo chí Anh được
hưởng tự do tương đối và đóng vai trò quyết định trong cuộc đấu tranh giữa phái
whigs (cấp tiến) và tories (bảo thủ). Tuy nhiên tính độc lập của các báo là có
giới hạn: báo chí luôn luôn bị truy tố ra tòa, và các chính phủ thường dùng tiền
bạc để khống chế báo chí. Từ 1712, Nghị viện hoảng sợ trước thanh thế của báo
chí, ra lệnh đánh tem thuế rất nặng vào từng số báo xuất bản và vào quảng cáo;
tuy nhiên biện pháp ấy không ngăn nổi số bản in của báo chí tăng tới 8 lần từ
1712 đến 1757. Sau hơn một nửa thế kỷ chống đối và cấm đoán, đến năm 1771,
Nghị viện mới cho phép các báo tường thuật các phiên họp. Pháp lệnh libel act
được thông qua năm 1792 quy định cụ thể các trường hợp nhà báo phải chịu truy
13
Website: Email : Tel : 0918.775.368
tố trước pháp luật. Nghe có vẻ tự do, thực ra đây là một sự cứng rắn thêm trong
thái độ của chính phủ với báo chí.
3.1.2. Báo chí Đức bị kiểm duyệt đè nặng (1610 – 1792)
Các cuộc chiến tranh trong nửa đầu thế kỷ XVII không tạo thuận lợi cho
việc xuất bản tờ Gazette. Ở một đất nước có rất nhiều xưởng in, các đảng phái
đấu tranh lẫn nhau dùng các tờ bút chiến, tờ bướm khác nhau để tuyên truyền
cho mình, hơn là dùng báo. Hòa bình lập lại năm 1648 tạo điều kiện cho rất
nhiều báo định kỳ ra đời ở khắp các xứ lớn, nhỏ trong Đế chế: năm 1701 có 57
đầu báo, năm 1780 có 138, năm 1788 có 182, năm 1800 có 193. Chúng được đặt
dưới chế độ phép tắc và kiểm duyệt rất nghiêm ngặt - đặc biệt ở nước phổ dưới
thời Frédéric II - và chịu những phán quyết rất độc đoán của chính quyền. Do đó
những báo đó tồn tại không lâu và nội dung không có gì đáng chú ý.
Tuy nhiên, một số tờ báo cũng sống lâu, như tờ Magdeburgische Zeitung
(Báo Magdeburg) (1644) hoặc tờ Berlisichen... Zeitung (Báo Berlin), còn gọi là
Vossische Zeitung, theo tên của người xuất bản, ra đời năm 1722, mà Lessing
công tác từ năm 1751 đến 1755, hoặc tờ cạnh tranh với nó là Berliner
Nachrichten (Tin tức Berlin) (còn gọi là Spenersche Zeitung), thành lập năm
1740, tờ Kolnische Zeitung (Báo Koln) ra đời năm 1763; hoặc có một số tờ
được tương đối hoan nghênh như FrankFurter Journal năm 1680 ra tới 1.500
bản. Tờ nhật báo đầu tiên xuất bản năm 1660 tại Leipzing dưới cái tên
Neuienlauffende Nachricht von Kriegs - und Welthandeln (Tin tức nóng sốt về
chiến tranh và thế giới).
Những tờ báo có tính toàn quốc sống rất chật vật do bị kiểm duyệt, phát
hành khó khăn do bị sự chia rẽ về chính trị cản trở. Theo gương tờ Journal des
Savants, năm 1682 tại leipzing ra đời các tờ Act eruditorum bằng tiếng Laitnh;
tập thử nghiệm Monatsgesprsche (Đàm thoại tháng) của Christian Thomasius
năm 1688 có cuộc sống ngắn ngủi, nhưng tờ tạp chí văn học và triết học này sẽ
sản sinh ra nhiều tờ kế tiếp. Ở thế kỷ XVIII, nhiều tạp chí loại này, thường xuất
bản ở Hambourg, lăm le ra mắt nhưng không thu nhiều kết quả. Những
14
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Intelligenz blattern (Báo trí thức) là những tờ quảng cáo đơn thuần, mọc ra như
nấm: tờ đầu tiên tung ra năm 1722 tại Francfort.
Trong đế chế của triều Habsbourg, sự kiểm soát đối với báo chí còn rất
ngặt nghèo hơn, nên các báo hiếm hơn, ra đời chậm hơn ở Đức. Năm 1781,
Joseph II nới lỏng kiểm duyệt nên báo chí nở rộ, nhưng đến 1789 lại tăng thuế,
rồi 1791 lập lại chế độ kiểm duyệt làm nhiều báo buộc phải đóng cửa, nếu
không thì cũng sống vật vờ.
3.1.3. Báo chí Pháp thời kì Cách Mạng và Đế Chế (1789 –
1815)
Cuộc cách mạng Pháp đánh dấu một bước ngoặt trong lịch sử báo chí.
Với báo chí các nước khác, nếu nó chỉ gây những hậu quả gián tiếp – mà phải
nói là cơn chấn động cách mạng và chính sách chống lại của các nền quân chủ
đã làm đảo lộn làng báo Tây Âu, trừ nước Anh – thì Cách Mạng, lần đầu tiên đã
xác định, và có lúc đã thực thi, những nguyên tắc lớn của tự do báo chí. Và suốt
thế kỉ XIX, những nguyên tắc ấy sẽ trở thành nội dung yêu sách của các nhà báo
trên toàn thế giới. Cho đến nay, điều XI của bản Tuyên ngôn Nhân quyền ngày
26-8-1789: “sự tự do giao lưu tư tưởng và chính kiến là một trong những quyền
quý nhất của con người: mọi công dân đều có thể tự do nói, viết, in, trừ khi lạm
dụng tự do ấy thì phải chịu trách nhiệm trong những trường hợp do luật pháp
quy định” vẫn là lời tuyên bố nổi bật nhất của nguyên tắc tự do báo chí. Đồng
thời, việc bãi bỏ hệ thống hội đoàn cũng gỡ bỏ mọi cản trở cho hoạt động của
các xí nghiệp và cho việc hành nghề.
Thời kì cách mạng làm cho báo chí có bước bột phát đặc biệt tương xứng
với mối quan tâm sít sao của công chúng đối với biết bao sự kiện long trời lở
đất: từ 1789 – 1800, ra đời tới hơn 1.500 đầu báo mới, nghĩa là trong 11 năm,
tăng gấp đôi so với cả 150 năm cộng lại. Thời kì này đã phát hiện ra sức mạnh
của chính trị của báo chí, mà trước đó chỉ đóng vai trò thứ yếu. Sau ngày 10-8-
1972, các báo bị đàn áp dữ dội; và dưới thời Đế Chế, báo chí bị kiểm soát găt
gao là những bằng chứng cho thấy từ nay báo chí trở thành nguy cơ đáng gườm
15
Website: Email : Tel : 0918.775.368
đối với những chính quyền chuyên chế. Song song với những sự kiện thời sự,
đời sống báo chí vô cùng sục sôi.
3.2. Từ đầu XIX đến 1871
Đây là thời kì công nghiệp hóa và dân chủ hóa báo chí. Tuy nhiên, ngay
trong thời kì này, sự tự do của báo chí lại bị kiểm duyệt gắt gao.
Ở tất cả các nước, các chính phủ đều muốn kìm chế sự phát triển của báo
chí, vì nó gây khó dễ cho thực thi quyền lực : các nhà lập pháp tài tình tạo ra
một lô những luật, quy chế, biện pháp để hạn chế tự do báo chí ngăn trở việc
phát hành. Song kìm kẹp và đàn áp chỉ mang lại hiệu quả nhất thời do sự tiến
hóa về chính trị nói chung (mở rộng quyền bầu cử, tiến bộ của chế độ đại
nghị...) làm tăng mối quan tâm của tầng lớp xã hội ngày càng rộng rãi đối với
các vấn đề chính trị. Giáo dục được phổ cập nhanh tuần tự mở rộng số người
đọc báo. Công cuộc đô thị hóa cũng là một nhân tố quan trọng của phát triển báo
chí. Nhìn chung sự nâng cao trình độ văn hóa của các tầng lớp khá giả cũng như
của quần chúng bình dân làm tăng tính ham tìm hiểu và làm cho thị hiếu của
quần chúng rất đa dạng : vậy báo chí là công cụ duy nhất đáp ứng những nhu
cầu ấy.
3.2.1. Báo chí Pháp từ 1814 đến 1870
Từ 1800 đến 1870, số phát hành các nhật báo tăng lên tới 30 lần: sự phát
triển mạnh mẽ ấy đánh dấu sự đột biến thật sự cảu báo chí Pháp, khiến chính
quyền phải ngỡ ngàng. Các chính phủ nối tiếp nhau đều nhạy cảm trước nguy cơ
mà báo chí mang lại cho chế độ, cản trở việc thi hành quyền lực, vì vậy tìm đủ
mọi cách kìm hãm sự phát triển, kiểm soát tiếng nói của báo chí. Ngược lại,
chính sức mạnh bành trướng của mình lại thúc đẩy báo chí đòi tự do hơn nữa, và
vượt qua mọi chướng ngại do chính quyền giương ra trên đường đi. Báo chí có
ảnh hưởng chính trị và tác động trực tiếp đến dư luận quần chúng, là một trong
những nhân tố chủ yếu truyền bá các tư tưởng tự do, đưa quần chúng tiếp nhận
những kiến thức, những tư duy phù hợp với tư tưởng và thực tế mới của đời
sống kinh tế, xã hội và văn hóa.
3.2.2. Báo chí Anh từ 1791 đến 1870
16
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Do không sửa đổi luật libel act nên các chính phủ đều để mắt kĩ đến báo
chí. Rất nhiều nhà báo bị truy tố và tòa xử nghiêm khắc. Những mối lo lớn của
nhà cầm quyền là sợ nó phát triển thành một nền báo chí đại chúng và cấp tiến
về chính trị. Vì vậy năm 1819, các báo phải đóng tăng lên nhiều thứ thuế, nhất là
báo chính trị ra định kì.
3.2.3. Báo chí Đức từ 1792 đến 1871
Ở Trung Âu thuộc phạm vi ảnh hưởng của Đức, các luật lệ khắt khe đối
với báo chí tỏ ra rất hữu hiệu so với nước Pháp. Các chế độ quân chủ nối tiếp
nhau đều có thái độ cứng rắn với báo chí ; chỉ ở Bavière và các thành phố tự do
như Francfort, Cologne hoặc Hambourg, báo chí mới được nói về chính trị với
chút ít độc lập. Sự ganh đua giữa Phổ và Áo cũng làm cho tình hình báo chí viết
tiếng Đức có những nét riêng.
Ở Berlin, tờ nhật báo đầu tiên Berliner Abenblattern (Báo Berlin buổi tối)
của Kleist (1810 – 1811) bị đình chỉ vì sợ bị Napoleon quở trách.
Chính quyền Đức liên tục có những hạn chế báo chí. Hội nghị chính trị
năm 1819 mở rộng hiệu lực các luật kiềm chế ra toàn bộ các quốc gia Đức, rồi
liên tiếp các năm 1824, 1831, 1832 lại bổ sung, ngày càng cứng rắn hơn. Ngoài
chế độ kiểm duyệt thì quy định chỉ những báo nào được chính quyền ưu ái mới
được đăng quảng cáo, đó cũng là một vũ khí đáng kể.
=> Qua hai giai đoạn lịch sử báo chí ở các nước TBCN trên, phần nào ta
thấy được tổng quan bức tranh báo chí ở nhà nước TBCN.
17
Website: Email : Tel : 0918.775.368
CHƯƠNG II: NGUYÊN NHÂN SỰ CAN THIỆP CỦA TBCN ĐỐI VỚI BÁO
CHÍ
Suy cho cùng, báo chí ở nước nào cũng là công cụ phục vụ cho lợi ích của
chính quyền. Chính vì vậy nhà nước nào cũng phải can thiệp tới báo chí. Tất cả
mọi nguyên nhân can thiệp của nhà nước TBCN đối với báo chí đều quy tụ về
một nguyên nhân chính đó là nhà nước TBCN muốn sử dụng báo chí như một
công cụ để phục vụ cho lợi ích của mình.
1. Báo chí là công cụ trong lĩnh vực chính trị
Không phải ngẫu nhiên mà báo chí được coi là “quyền lực thứ tư”. Với
phạm vi rộng, sức tác động tới công chúng lớn của báo chí, nhà nước TBCN
không thể bỏ qua công cụ hữu hiệu này để tác động đến đời sống chính trị của
người dân.
Trên phạm vi thế giới, do phạm vi ảnh hưởng và sức mạnh tác động to lớn
của mình, các tập đoàn báo chí đã trở hành một thế lực hay một thứ quyền lực
toàn cầu. Nó tác động vào dư luận xã hội một cách tự nhiên, vạch ra hướng đi
cho nhận thức, thúc đẩy việc hình thành thái độ, quan điểm chính trị - xã hôi.
Bằng cách ấy, nó đã tạo ra các điều kiện thuận lợi hoặc bất lợi cho những hành
động chính trị kinh tế cụ thể nào đó.
Nói như nhà báo Mỹ Giô-dép Phít-chơ khi nhận xét về kênh truyền hình
toàn cầu CNN "người ta nhận thấy rõ ràng CNN và cùng với nó là việc đưa tin
dồn dập của toàn thế giới báo chí mà CNN đã kích thích - bắt đầu ảnh hưởng
đến chiều hướng diễn biến của các sự kiện "(người đưa tin UNESCO tháng 9-
1990). Điều ấy cũng có nghĩa cái gọi là khách quan vô tư, phi chính trị trong
hoạt động của các tập đoàn báo chí phương Tây tự nó vẫn chỉ là cái bánh vẽ giả
dối không hơn, không kém. Chính các chính phủ ở phương Tây đóng vai trò
ngày càng to lớn trong định hướng và thao túng các phương tiện truyền thông
đại chúng nhằm những mục đích chính trị bởi các lý do sau:
Thứ nhất, trong chính trị, truyền thông đóng vai trò then chốt, quyết định
sự nghiệp của giới chính trị. Muốn vận động quần chúng cho một chính sách
18
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hay một quan điểm (chính trị hay xã hội) nào đó thì phải thông qua truyền
thông, bởi chỉ qua truyền thông mới đến được quảng đại quần chúng. Cho nên
các hoạt động chính trị nào không được truyền thông loan tải thì thường được
xem như không đáng quan trọng hay thậm chí không hiện hữu. Thành phần nào
có khả năng thu hút và thuyết phục quần chúng, nhất là trước những những sự
chọn lựa (chính sách) khó khăn hay phức tạp, thì sẽ thành công. Thiếu khả năng
truyền thông thì thường dẫn đến tình trạng bị động, nhất là khi gặp thử thách
lớn, và dễ đưa đến những phản ứng cho xong hơn là nắm lấy cơ hội hướng dẫn
dư luận một cách chủ động về một hay nhiều vấn đề nào đó.
Thứ hai, truyền thông chính trị của giới chính trị Tây phương tuy đã tiến
rất xa, biết vận dụng mọi kỹ thuật tân tiến nhất để hiểu biết rất rõ và rất chi tiết
về khả năng của mình và đối phương như thế nào, và qua đó làm cách nào để
vận động cử tri, nhưng mục tiêu sau cùng cũng không khác gì các đảng chính trị
khác từ xưa đến nay. Tức là, mục tiêu vẫn luôn luôn là làm thế nào để vận động,
thuyết phục quần chúng ủng hộ, chấp nhận các thông điệp chính trị, và bỏ phiếu
cho mình.
Ngay tại một quốc gia nào đó không thống nhất về chính trị như Trung
quốc, Malaixia, .. thì đảng chính trị cầm quyền và nhà nước vẫn chủ động tạo ra
các nguồn lực và điều kiện kinh tế, xã hội kỹ thuật, công nghệ để xây dựng các
tập đoàn báo chí nhằm mục đích tạo ra sức mạnh truyền thông chi phối sự luận
xã hội, phục vụ cho các yêu cầu , nhiệm vụ chính trị. Tuy nhiên khi đã trưởng
thành các tập đoàn báo chí không chỉ trở thành thế lực truyền thông chính trị, mà
còn trở thành thế lực kinh tế và chịu ảnh hưởng mạng mẽ bởi các quy luật kinh
tế trong quá trình tồn tại. Cho nên mối quan hệ giữa chính trị và truyền thông có
thể nói rất là mật thiết. Ở đây, cũng cần phải hiểu chính trị ở khía cạnh sâu rộng
của nó (tức ngoài yếu tố quyền lực), bao gồm các tương quan ảnh hưởng trên địa
hạt tư tưởng, văn hoá, lịch sử, kinh tế, giáo dục, thông tin..., nói chung là toàn xã
hội.
Báo chí là tiếng nói ủng hộ chính phủ nhà nước TBCN trong các cuộc
chiến tranh:
19
Website: Email : Tel : 0918.775.368
VD1: CHIẾN TRANH VIỆT NAM
Lúc cuộc chiến mới nổ ra, rất nhiều tờ báo lên tiếng ủng hộ những nỗ lực
của chính phủ. Họ không bao giờ đặt câu hỏi: “Quân đội Mỹ có quyền gì để đặt
chân đến Việt Nam?”. Công việc của họ là khiến các độc giả, thính giả cảm thấy
lạc quan và tự hào về quân đội mình. Điều này cũng giống như cuộc chiến tranh
tại Triều Tiên, các phóng viên chiến trường luôn vẽ ra một khung cảnh “màu
hồng” gửi về công chúng nước nhà.
Trong cuộc chiến ở Việt Nam, đã có lúc giới truyền thông cũng ủng hộ
chính sách tàn bạo của Mĩ ở Việt Nam.
Tạp chí Journal of Broadcasting có đăng một bài khá tường tận của nhà xã
hội học George Baylay nghiên cứu về phương thức của ba hệ thống ti- vi Mỹ
ABC, CBS và NBC trình bày cuộc chiến này từ 1965 cho đến 1970. Theo ông,
gần phân nửa tài liệu chiến tranh liên hệ đến hoạt động của bộ binh và không lực
trên chiến trường; lối 12% gồm có các bản văn tuyên bố của chính quyền Hoa
Thịnh Đốn và Sàigòn; và sau hết, 3% dành cho tin tức lấy từ đối phương Bắc
Việt. Ảnh hưởng của chiến tranh đối với quần chúng Mỹ và những vụ đi bộ cổ
võ cho hòa bình, dân chúng xuống đường, sinh viên biểu tình..v..v.. của phong
trào phản chiến tại Hoa Kỳ được trình bày giới hạn.
VD2: CHIẾN TRANH VÙNG VỊNH (NĂM 1991)
Chiến tranh vùng Vịnh là cuộc chiến được truyền hình ở mức độ rất cao.
Lần đầu tiên tất cả mọi người trên thế giới đều có thể theo dõi trực tiếp hình ảnh
các tên lửa lao vào các mục tiêu và các máy bay chiến đấu cất cánh từ các tàu
sân bay. Các lực lượng liên quân rất nhiệt tình thể hiện mức độ chính xác các vũ
khí của họ.
Tại Hoa Kỳ, nhóm "bộ ba lớn" điều hành mạng lưới tin tức đưa tin về
cuộc chiến: Peter Jennings của ABC, Dan Rather của CBS và Tom Brokaw của
NBC dẫn các chương trình thông tin buổi tối của họ khi các cuộc tấn công đã bắt
đầu ngày 16 tháng 1, 1991.
Nói chung, giới truyền thông Mỹ có xu hướng ủng hộ chính phủ. Cách
đưa tin của họ cho thấy điều đó.
20
Website: Email : Tel : 0918.775.368
VD3: CHIẾN TRANH IRAG (NĂM 2003)
Có thể nói, kể từ khi Tổng thống Mỹ có ý định đánh Iraq, một tập đoàn
báo chí khổng lồ của ông trùm truyền thông Rupert Murdoch cũng đã thở cùng
nhịp với ông Bush bằng cách reo hò cổ vũ cho một cuộc chiến mà sau này theo
đánh giá của báo chí phương Tây là, dễ mở đầu, khó kết thúc. Trên các ấn phẩm
của mình, trong khi lên tiếng công kích các nước Pháp, Đức là “những kẻ vô ơn,
hèn nhát”, tư tưởng bài xích, phỉ báng những cuộc biểu tình cũng được ông trùm
này cho đăng tải công khai và ồ ạt. Không dừng lại ở đó, trong suốt mấy tháng
qua báo chí Mỹ còn liên tục cho đăng tải những thông tin không có lợi cho nền
hòa bình thế giới như khẳng định “Irac vẫn tiếp tục theo đuổi chương trình phổ
biến vũ khí hạt nhân” (dù cho sau này khi chiến tranh đã nổ ra được 2 tuần
nhưng nhà cầm quyền Mỹ vẫn không tài nào đưa ra được những chứng cứ để
hợp thức hóa cuộc chiến của họ) mà bỏ qua những hậu quả có thể đến với người
dân Irac (và cả người dân Mỹ) một khi cuộc chiến đã xảy ra. Hay như việc đăng
công khai danh sách những nguyên thủ thế giới ủng hộ Mỹ trong cuộc hạ bệ
Tổng thống Irac Saddam Hussein như thủ tướng Anh, thủ tướng Tây Ban Nha…
Báo chí là công cụ để đưa tin có lợi cho chính phủ và bóp méo sự thật.
Đọc những ví dụ sau đây để thấy rõ điều đó
VD1: BỘ MÁY TRUYỀN THÔNG VÀ BỘ MÁY CHIẾN TRANH
Ở Liên Xô trước đây, ai cũng biết hay nghe đến tờ nhật báo Pravda (Sự
thật). Dưới sự chỉ đạo và điều khiển của Nhà nước Xô-viết và Đảng Cộng sản
Liên Xô, Pravda đã từng sản suất ra biết bao câu chuyện không tưởng mà chúng
ta có thể gọi là huyền thoại. Ở Mĩ, ông George W. Bush và Đảng Cộng hòa
không thể khoe rằng họ làm chủ một cơ quan truyền thông như Pravda, và cũng
không thể nói rằng họ làm chủ hệ thống báo chí, đài truyền thanh, đài truyền
hình ở Mĩ, nhưng họ vẫn có thể tin tưởng vào hệ thống truyền thông Mĩ vì hệ
thống này cũng vâng dạ như tờ Pravda của Liên Xô cũ.
Bất kể bao nhiêu lời nói dối mà ông Bush và đồng nghiệp của ông nói về
mối đe dọa của Iraq đến nền an ninh nước Mĩ, giới truyền thông Mĩ chẳng bao
giờ chất vấn, chẳng bao giờ đặt những câu hỏi khó cho giới cầm quyền ở
21
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Washington. Bush và chính phủ của ông biết rằng họ có thể dựa và tin tưởng
vào lòng ái quốc của giới truyền thông Mĩ, những người chỉ tường trình cuộc
chiến ở Iraq như là báo cáo trận đấu thể thao của đội nhà. Và, ông Bush, không
như các nhà lãnh đạo của Liên Xô, không cần phải hạ lệnh, ra chỉ thị, hay bổ
nhiệm một cơ quan kiểm duyệt nào cả, bởi vì trong hệ thống truyền thông ở Mĩ
đã có sẵn một cơ chế tự kiểm duyệt.
Tháng 2 năm 2003, tờ Observer ở London tiết lộ rằng chính phủ ông Bush
đã và đang dọ thám các thành viên của Liên hiệp quốc để theo dõi thái độ của họ
trước ý đồ xâm lược Iraq của Mĩ. Đó là một hành động, lén đã đành, nhưng còn
mang tính bẩn thỉu, hèn mọn. Nhưng ở Mĩ, không một tờ báo nào loan tin này.
Tờ Newsweek, một tờ tuần san lớn có qui mô phát hành trên toàn thế giới,
cho chúng ta biết cựu tướng lãnh Iraq là Hussein Kamel, người ra đầu thú với
Washington, vào năm 1995 cho biết Iraq đã giải giới vũ khí rất nhiều. Rất ít báo
chí Mĩ đưa tin này. Nhưng trong các tuyên bố trước công chúng Mĩ và thế giới,
ông Bush lại trích và sửa lời khai của Kamel để nói rằng Iraq vẫn còn duy trì vũ
khí tàn sát hàng loạt!
Thực tế hiện nay cho thấy giới truyền thông Mĩ nói chung có khuynh
hướng ủng hộ cuộc xâm lăng Iraq, cho dù chính phủ Mĩ cố tình hạn chế sự tự do
của họ trong việc tường trình sự kiện, và bóp méo cũng như cung cấp thông tin
giả. Do đó, hiện nay tất cả các hình ảnh về cuộc chiến ở Iraq đều hoàn toàn bị
“vệ sinh hóa”. Giới truyền thông chỉ tường trình những gì mà quân đội Mĩ và
chính phủ Mĩ muốn nói.
Hiện tượng này không phải mới. Trong cuộc chiến ở A Phú Hãn, Walter
Isaacson, tổng giám đốc hệ thống CNN, khuyên các phóng viên không nên chú
trọng vào những khía cạnh tiêu cực như tử vong, thương vong, phá hủy môi
trường … vì những hình ảnh này có thể gây khó khăn cho cuộc chiến. Trong
cuộc chiến vùng Vịnh vào đầu thập niên 1990s cũng thế: giới truyền thông Mĩ
chôn vùi những hình ảnh hãi hùng, dã man của cuộc tàn sát trên xa lộ tử thần
(còn gọi là cuộc thảm sát trên “Highway of Death”) khi quân đội Iraq rút khỏi
Kuwait.
22
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Giới truyền thông còn đứng về phía chính phủ trong những vấn đề quan
trọng khác, không phải vì những âm mưu đen tối, hay những cuộc điều đình
phía sau hậu trường, nhưng bởi vì hệ thống truyền thông ở Mĩ tự nó là những
công ti thương mại khủng lồ, những công ti có cùng lợi ích kinh tế và chính trị
với giới điều hành quốc gia. Trong nhiều trường hợp, họ tuy hai nhưng chỉ là
một thực thể.
Ngày nay, việc các công ti truyền thông sử dụng hay trưng dụng những
cựu tướng lãnh, quan chức cao cấp, chính trị gia … đã trở thành một truyền
thống. Như Edward Said nhận xét, hệ thống truyền thông của Mĩ đã trở thành
một bộ phận trong guồng máy quân sự, guồng máy chiến tranh của Mĩ. Thành
ra, không ai ngạc nhiên khi thấy những tiếng nói chủ chốt trong các cuộc gọi là
“debate” hay “tranh luận” về chiến tranh và chính sách ngoại giao trên các hệ
thống truyền hình và truyền thanh thường là những cựu quan chức trong chính
phủ Mĩ. Điều này cũng giái thích tại sao những cái gọi là “nguồn tin đáng tin
cậy”, nhân viên báo chí, nhân viên Ngũ giác đài, phát ngôn viên Tòa bạch ốc,
hay những nhân vật thân cận với chính quyền Mĩ thường chiếm đại đa số trong
đội quân “chuyên gia” (experts) mà chúng ta nghe và thấy hàng ngày.
Những đại công ty thống trị thế giới truyền thông càng ngày càng tập
trung. Ben Bagdikian, tác giả cuốn sách nổi tiếng Media Monopoly (Độc quyền
truyền thông), ước tính rằng chỉ có 6 đại công ti đang nắm hầu hết hệ thống
truyền thông tại Mĩ. Chủ hãng NBC là General Electric, một công ti sản xuất vũ
khí cho quân đội Mĩ. Ngay cả các công ti truyền thông nhỏ, tuy không có liên
hệ với quân đội, nhưng cũng chịu ảnh hưởng của chính phủ Mĩ.
Giới truyền thông Mĩ có mục tiêu chính là làm lợi qua việc buôn bán
thông tin và quảng cáo. Truyền thông, dù là báo chí, radio, hay truyền hình, đều
kiếm tiền bằng cách buôn bán khán giả đến các công ti đặt quảng cáo và họ biết
rằng cái business của họ sẽ lỗ lãi nếu họ chạy theo những loại thông tin có khả
năng làm tổn hại đến các nhà cầm quyền. Ảnh hưởng kinh tế trong việc tường
trình và cung cấp thông tin chi phối đến những gì khán giả nhìn và thấy. Chẳng
hạn như thay vì chi ra một số tiền gửi kí giả đi thu thập thông tin về việc vi
23
Website: Email : Tel : 0918.775.368
phạm nhân quyền đối với các tù nhân đang bị giam giữ và hành hạ tại căn cứ
không quân Bagram (A Phú Hãn), các công ti truyền thông chỉ việc gõ cửa Tòa
bạch ốc và họ sẽ có ngay một “Thông cáo báo chí” phủ nhận những vi phạm
nhân quyền ở đó. Vừa rẻ tiền, lại vừa làm hài lòng giới cầm quyền.
Điều này có nghĩa là các cơ sở truyền thông độc lập đóng một vai trò
quan trọng. Nhưng tiếc thay, các cơ sở này hiện còn quá yếu kém về tài chính
và cơ sở vật chất để có thể thách thức các công ti truyền thông lớn, hay để làm
áp lực họ phải đề cập đến những vấn đề thiết thực mà đại đa số quần chúng quan
tâm đến. Nhưng thỉnh thoảng một áp lực cũng có hiệu quả khi qui mô của vấn
đề trở nên nghiêm trọng. Chẳng hạn như sau nhiều tháng cố tình xem thường
những cuộc biểu tình chống chiến tranh Iraq, một số tờ báo lớn như New York
Times và Washington Post bắt buộc phải đưa lên trang đầu những hình ảnh và
câu chuyện về cuộc biểu tình vĩ đại chống chiến tranh xảy ra trên toàn cầu vào
hôm 15/2/2003.
Trong cuộc chiến ở Việt Nam, giới truyền thông cũng ủng hộ chính sách
tàn bạo của Mĩ ở Việt Nam, nhưng áp lực của phong trào chống chiến tranh đã
buộc giới truyền thông ghi nhận những thực tế bi thảm và mở màn cho một cuộc
tranh luận trong mọi thành phần trong xã hội. Giới kí giả từ đó có khả năng và
bản lĩnh phơi bày những tội ác chiến tranh,, những hình ảnh dã man của cuộc
chiến, và thách thức những tuyên bố láo của chính phủ. Hậu quả là nhiều cuộc
biểu tình với hàng triệu người ở Mĩ và trên khắp thế giới, dẫn đến chấm dứt
cuộc chiến ở Việt Nam.
Không có gì phơi bày sự bất lực của giới truyền thông ở Washington bằng
thái độ hèn hạ trước những tuyên bố sai lạc của ông Bush về mối quan hệ giữa
Iraq và al Qaeda, giữa Iraq và biến cố 9/11/2001. Trong một lần họp báo ông
Bush đề cập đến mối quan hệ này 8 lần, và ngay cả cho đến nay – khi cuộc chiến
Iraq đang diễn ra – vẫn chưa một ai chất vấn lời tuyên bố này của Bush. Không
một ai trong giới “truyền thông chính thống” đòi ông Bush trưng bày bằng
chứng cho hai tuyên bố quan trọng này của ông. Thay vào đó, giới truyền thông
24
Website: Email : Tel : 0918.775.368
đã cho ông Bush một cái vé miễn phí để ông dùng biến cố 9/11 làm cái cớ gây
chiến và xâm lăng Iraq.
Theo một cuộc thăm dò ý kiến do công ti New York Times / CBS News
tổ chức, có đến 42% người Mĩ tin rằng Saddam Hussein trực tiếp dính dáng và
có trách nhiệm trong cuộc tấn công vào tòa nhà thương mại quốc tế hôm
9/11/2001. Cũng theo một cuộc thăm dò khác, 55% dân Mĩ tin rằng Saddam
Hussein trực tiếp yểm trợ Al Qaeda!
Cho đến nay, không ai có bằng chứng về hai mối quan hệ đó. Thực ra,
đại đa số các học giả Mĩ và giới ngoại giao quốc tế đều cho rằng cả hai tuyên bố
của ông Bush là sai. Nhưng đây là một câu hỏi mà quần chúng không bao giờ
nghe giới kí giả chất vấn: làm sao xã hội Mĩ có thể truyền bá những huyền
thoại như thế, và xem đó là những bằng chứng về sự ủng hộ của công chúng Mĩ
cho cuộc chiến?
Chính phủ ông Bush, qua các phát ngôn viên của Tòa bạch ốc và Ngũ
giác đài, đưa ra nhiều lí do để gây chiến, và giới truyền thông ngoan ngoãn trình
bày những lí do đó cho quần chúng như là những tín lí của chính phủ. Thành ra,
trong trường hợp này, giới truyền thông đã tự họ biến thành những người trong
guồng máy chính phủ, thay vì theo đuổi truy tìm sự thật
Trong những huyền thoại về truyền thông ở Mĩ, có một huyền thoại rất
phổ biến: đó là tự do báo chí. Nhưng trong thực tế, hệ thống truyền thông Mĩ
không bao giờ tự do, hay chỉ tự do đối với những người làm chủ các công ti sản
xuất vũ khí, các công ti thương mại khổng lồ, tức là những nhân vật và cơ quan
nắm quyền điều hành nước Mĩ. Giới truyền thông Mĩ có những quan điểm hẹp
về thế giới bên ngoài, những quan điểm mà trong đó chấp nhận cái “quyền” của
giới quân sự Mĩ và tự do thị trường để chi phối đến cuộc sống của người dân
trên thế giới. Do đó, những cái gọi là “tranh luận” trên hệ thống truyền thông
mà công chúng thấy là những người đồng ý với nhau về cơ bản, nhưng thỉnh
thoảng bất đồng ý kiến về cách thức buôn bán các hương trình nghị sự của nhà
nước.
VD2: CHIẾN TRANH IRAG (NĂM 2003)
25