Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Tính chất vật lý của đất: D, d, P. Cách điều tiết? pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.48 KB, 7 trang )

Tính chất vật lý của đất:
D, d, P. Cách điều tiết?

Tỷ trọng của đất
Ðịnh nghĩa: Tỷ trọng của đất là tỷ số khối
lượng của một đơn vị thể tích đất ở trạng
thái rắn, khô kiệt với các hạt đất xếp sít vào
nhau so với khối lượng nước cùng thể tích
ở điều kiện nhiệt độ 4oC.

Tỷ trọng của đất
Ðịnh nghĩa: Tỷ trọng của đất là tỷ số khối
lượng của một đơn vị thể tích đất ở trạng
thái rắn, khô kiệt với các hạt đất xếp sít vào
nhau so với khối lượng nước cùng thể tích
ở điều kiện nhiệt độ 4oC.
Ðể tính tỷ trọng người ta áp dụng công
thức:
d= P / P1
Trong đó: d- Tỷ trọng của đất.
P- Khối lượng các hạt đất (khô kiệt, xếp
xít vào nhau và không có khoảng
hổng không khí) trong một thể tích xác
định (thường được đo bằng g/cm3).
P1- Khối lượng nước được chứa trong
cùng thể tích ở điều kiện T0: 4oC
(g/cm3).
Tỷ trọng của các loại khoáng vật khác
nhau có sự giao động khá lớn song nhìn
chung biến động trong phạm vi từ 2,40 -
2,80 (bảng 11.1)



Tỷ trọng của đất được quyết định chủ yếu
bởi các loại khoáng nguyên sinh, thứ sinh
và hàm lượng chất hữu cơ có trong đất.
Nhìn chung do tỷ lệ chất hữu cơ trong đất
thường không lớn nên tỷ trọng đất sẽ phụ
thuộc chủ yếu vào thành phần khoáng vật
của đất.
Các loại đất có thành phần cơ giới khác
nhau có tỷ trọng khác nhau:
Loại đất Tỷ trọng
Ðất cát 2,65 ± 0,01
Ðất cát pha 2,70 ± 0,017
Ðất thịt 2,70 ± 0,02
Ðất sét 2,74 ± 0,027
Dựa vào tỷ trọng đất, Katrinski đã đưa ra
mức đánh giá chung khi xác định tỷ trọng
của đất trồng như sau:
Tỷ trọng Loại đất
<2,50 Ðất có lượng mùn cao
2,50 - 2,66 Ðất có lượng mùn trung bình
>2,70 Ðất giàu sắt Fe2O3

Ý nghĩa thực tiễn: Tỷ trọng đất được sử
dụng trong các công thức tính toán độ xốp,
công thức tính tốc độ, thời gian sa lắng của
các cấp hạt đất trong phân tích thành phần
cơ giới. Thông qua tỷ trọng đất người ta
cũng có thể đưa ra được những nhận xét
sơ bộ về hàm lượng chất hữu cơ, hàm

lượng sét hay tỷ lệ sắt, nhôm của một loại
đất cụ thể nào đó.
Dung trọng của đất
Ðịnh nghĩa: Dung trọng của đất là khối
lượng (g) của một đơn vị thể tích đất (cm3)
ở trạng thái tự nhiên (có khe hở) sau khi
được sấy khô kiệt.
Dung trọng của đất được người ta xác định
bằng cách đóng ống kim loại hình trụ có thể
tích bên trong 100 cm3 thẳng góc với bề
mặt đất ở trạng thái hoàn toàn tự nhiên, sau
đó đem sấy khô kiệt rồi tính theo công thức
sau:
D = P / V
Trong đó:
D - Dung trọng của đất (g/cm3);
P - Khối lượng đất tự nhiên trong ống trụ
đóng sau khi đã được sấy khô kiệt (được
tính theo g).
V - Thể tích của ống đóng (được tính theo
cm3).
Như vậy dung trọng của đất thường nhỏ
hơn so với tỷ trọng vì thể tích đất khô kiệt
được xác định ở đây bao gồm cả các hạt
đất rắn và các khe hở tự nhiên trong đất.
Quan hệ giữa dung trọng đất với thành
phần cơ giới và thành phần vật liệu cấu tạo
ở một số loại đất
* Khi sấy khô bị mất nhiều nước dẫn đến
sét có tỷ trọng bé.

Như vậy dung trọng của đất phụ thuộc vào
cấp hạt cơ giới, độ chặt và kết cấu của đất.
Các loại đất tơi xốp, giàu chất hữu cơ và
mùn thường có dung trọng nhỏ và ngược
lại những loại đất chặt bí kém tơi xốp và
nghèo chất hữu cơ thường có dung trọng
lớn (bảng 11.2). Trong phẫu diện đất của
phần lớn các loại đất, dung trọng có chiều
hướng tăng dần khi xuống tầng đất dưới
sâu, vì càng xuống sâu hàm lượng mùn của
đất càng giảm, mặt khác do quá trình tích tụ
sét và các vật liệu mịn bị rửa trôi từ trên
xuống lấp đầy các khe hở và bị nén đã làm
cho đất bị chặt gí hơn các tầng trên.
Katrinski đã đưa ra đánh giá dung trọng của
một số loại đất có thành phần cơ giới từ thịt
và sét như sau:
Ý nghĩa: Dung trọng của đất được sử dụng
trong việc tính độ xốp của đất, tính khối
lượng đất canh tác trên 1 ha để xác định trữ
lượng các chất dinh dưỡng, lượng vôi cần
bón cho đất hay trữ lượng nước có trong
đất
Dựa vào đặc tính nén của đất dung trọng
còn được dùng để kiểm tra chất lượng các
công trình thủy lợi, đê, bờ mương máng
để đảm bảo độ vững của các công trình
trên đòi hỏi dung trọng cần đạt được tối
thiểu phải lớn hơn 1,5 g/cm3.
Ðộ xốp của đất

Ðịnh nghĩa: Ðộ xốp của đất là tỷ lệ % các
khe hở chiếm trong đất so với thể tích
chung của đất (ký hiệu P).
Công thức tính độ xốp của đất: Do các khe
hở trong đất có các hình dạng phức tạp và
kích thước rất khác nhau nên việc tính toán
trực tiếp thể tích của các khe hở trong đất là
rất khó, do đó để xác định được độ xốp của
đất người ta phải tính một cách gián tiếp từ
tỷ trọng và dung trọng của đất theo công
thức sau:
P(%) = (1 - D/ d) x 100
Trong đó:
P - Ðộ xốp của đất (%);
D - Dung trọng đất;
d - Tỷ trọng đất.
Ðộ xốp của đất có thể biến động từ 30-70%
tùy thuộc vào đất rời rạc không có kết cấu
như đất cát, đất bạc màu cho đến những
loại đất có kết cấu viên như đất đỏ vàng đồi
núi. Như vậy độ xốp phụ thuộc vào kết cấu,
tỷ trọng và dung trọng của đất.
Ý nghĩa thực tiễn: Ðộ xốp của đất rất có ý
nghĩa đối với sản xuất nông nghiệp và các
loại cây trồng vì nước và không khí di
chuyển được trong đất nhờ vào những
khoảng trống hay độ xốp của đất. Các chất
dinh dưỡng của đất có thể huy động được
cho cây trồng, các hoạt động của vi sinh vật
đất chủ yếu cũng diễn ra ở đây, chính bởi

vậy mà người ta nói độ phì đất phụ thuộc
đáng kể vào độ xốp của đất. Ngoài ý nghĩa
trên chúng ta cũng dễ dàng nhận thấy nếu
đất tơi xốp thì làm đất cũng dễ dàng, rễ cây
phát triển tốt, khả năng thấm, thoát nước và
trao đổi không khí diễn ra cũng hết sức
thuận lợi và nhanh chóng. Vùng đồi núi nếu
đất có độ xốp cao thì phần lớn nước mưa
được thấm xuống sâu, hạn chế hiện tượng
nước chảy tràn trên mặt đất và do đó hạn
chế được xói mòn trên bề mặt. Bảng 11.3
biểu diễn quan hệ giữa dung trọng, tỷ trọng
và độ xốp của một số loại đất.

×