TÓM LƯỢC
Rau mang lại giá trị dinh dưỡng cao trong đời sống của con người. Đồng thời
cung cấp nhiều khoáng chất cần thiết cho sự phát triển của cơ thể. Nó là thức ăn không
thể thiếu trong mỗi bữa ăn hàng ngày của con người. Tuy rau có thời gian sinh trưởng
ngắn nhưng nó đòi hỏi phải cung cấp lượng phân rất lớn. Do đó để tăng năng suất rau
thì con người đã sử dụng nhiều loại phân hoá học và phun thuốc bảo vệ thực vật làm
làm ảnh hưởng đến tính chất của đất về mặt lý hóa và sinh học đất. Điều này dẫn đến
hậu quả đất trở nên nén dẽ, mất cấu trúc, ẩm độ trong đất giảm, mật số vi sinh vật có hại
gia tăng, ảnh hưởng đến quá trình khoáng hóa chất hữu cơ, khoáng hoá đạm, làm cho
đất ngày trở nên bạc màu. Để giúp cải thiện tính chất của đất nêu trên ta dùng phân hữu
cơ bón cho rau là tốt nhất, chẳng những làm cho đất tơi xốp, thoáng khí, tính đệm của
đất tăng, giàu chất hữu cơ mà còn tăng năng suất cho cây rau. Đề tài “Ảnh hưởng của
việc bón phân hữu cơ lên năng suất và tính chất vật lý của đất trồng dưa hấu, dưa lê ở
phường Long Tuyền- quận Bình Thuỷ, thành phố Cần Thơ” nhằm nghiên cứu ảnh
hưởng của phân hữu cơ lên tính chất vật lý của đất và nghiên cứu ảnh hưởng phân hữu
cơ lên năng suất rau.
Đề tài được thực hiện trên hai thí nghiệm dưa hấu và dưa lê trên hai vụ. Kết quả
cho thấy đất phù sa ở đây có chất hữu cơ thuộc loại nghèo 2%, pH đất trong khoảng 5,5
-5,6 đạt gần mức tối hảo. Các tính chất vật lý như dung trọng đất biến thiên trong
khoảng 0,89-1,13 g/cm
3
, dung trọng của đất bón hữu cơ thấp hơn so với dung trọng của
đất không bón hữu cơ. Độ xốp của đất khi bón hữu cơ khác biệt có ý nghĩa thống kê so
với nghiệm thức không bón hữu cơ. Đối với chỉ tiêu tính bền cho thấy bón hữu cơ đất
có cấu trúc hơn, bền hơn so với không bón hữu cơ. Khi bón phân hữu cơ cho dưa hấu và
dưa lê cũng cho thấy năng suất rau tăng lên rõ rệt như năng suất dưa hấu có bón hữu cơ
là 33,48 tấn/ha so với năng suất dưa hấu không bón hữu cơ là 27,18 tấn/ha. Năng suất
dưa lê nghiệm thức có bón hữu cơ là 26,70 tấn/ha so với năng suất nghiệm thức dưa lê
không bón hữu cơ đạt 24,29 tấn/ha. Vì vậy, nên tiếp tục sử dụng phân hữu cơ để bón
cho rau theo hướng lâu dài để khắc phục những đặc tính bất lợi của đất.
MỞ ĐẦU
Từ lâu nhân dân ta có câu “Cơm không rau như đau không thuốc” cho thấy giá trị
dinh dưỡng của cây rau. Bởi vì, cây rau chứa nhiều chất dinh dưỡng, là thực phẩm
không thể thiếu trong mỗi bữa ăn hằng ngày và cũng là thực phẩm không thể thay thế
của con người do chúng cung cấp nhiều vitamin và khoáng chất cần thiết cho sự phát
triển của cơ thể. Rau xanh chẳng những mang lại giá trị dinh dưỡng cao mà còn là
những cây dược liệu quý giá, một số loại rau có thể chữa được những căn bệnh hiểm
nghèo.
Ngày nay, mức sống của con người ngày một nâng cao thì nhu cầu về sản lượng
và chất lượng rau cũng gia tăng, rau giúp chúng ta cân bằng dinh dưỡng và kéo dài tuổi
thọ. Chính vì vậy, diện tích trồng rau ngày càng mở rộng. Kết hợp với sử dụng các kỹ
thuật tiên tiến, sử dụng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật. Từ đó hình thành những
vùng chuyên canh rau lớn.
Đối với cây rau, nguồn dinh dưõng cung cấp từ đất không đáng kể so với yêu
cầu của rau nên phải bổ sung phần lớn qua phân bón. Việc sử dụng nhiều phân hoá học
và thuốc bảo vệ thực vật làm cho đất ngày càng suy thoái nghiêm trọng ảnh hưởng đến
tính chất vật lý và hoá học đất như: đất bị nén dẽ, mất cấu trúc, khả năng giữ nước giảm,
… Nhằm cải thiện tình trạng trên người ta đã sử dụng phân hữu cơ để bón cho cây trồng
. Nó có các tác dụng là cải tạo tính chất đất, cung cấp chất dinh dưỡng cho cây... Từ đó
làm tăng năng suất và chất lượng cây trồng một cách ổn định, bền vững, đồng thời góp
phần bảo vệ môi trường. Đây cũng là nội dung, mục tiêu của nền nông nghiệp hữu cơ
bền vững. Đề tài: “ Ảnh hưởng của việc bón phân hữu cơ lên năng suất và tính chất vật
lý của đất trồng dưa hấu, dưa lê ở phường Long Tuyền- quận Bình Thuỷ, thành phố
Cần Thơ” được thực hiện nhằm mục tiêu:
-Nghiên cứu hiệu quả của việc bón phân hữu cơ đến một số tính chất vật lý đất.
-Ảnh hưởng của phân hữu cơ đến việc cải thiện năng suất cây rau.
CHƯƠNG I
LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU
I.1 SƠ LƯỢC VÙNG NGHIÊN CỨU
I.1.1 Điều kiện tự nhiên quận Bình Thủy Thành Phố Cần Thơ
Vị trí địa lý
Phía đông giáp tỉnh Vĩnh Long.
Phía tây giáp huyện Phong Điền.
Phía nam giáp quận Ninh Kiều.
Phía bắc giáp quận ÔMôn.
Diện tích quận Bình Thuỷ thành phố Cần Thơ là khoảng 6877 ha.
Khí hậu và thời tiết
Khí hậu ở Bình Thuỷ là khí hậu nhiệt đới với 2 mùa rõ ràng: mùa mưa (tháng 5
đến tháng 11) và mùa khô(tháng 12 đến tháng 4 năm sau)
Khí hậu điều hoà, ít bão. Khí hậu quanh năm nóng ẩm không có mùa lạnh
Đất đai
Đất ở đây chủ yếu là đất phù sa do sông Hậu và sông Cần Thơ bồi đắp rất thuận
lợi cho nghề trồng rau phát triển.
Hình 1.1 Bản đồ hành chính Thành Phố Cần Thơ
I.1.2 Các yếu tố kinh xã hội
Nhìn chung đời sống của người dân nơi đây chủ yếu là dựa vào canh tác nông
nghiệp, đời sống còn nhiều khó khăn, công nghiệp chưa phát triển, về dịch vụ cũng
tương đối phát triển nhưng tập trung ở thị trấn.
I.2 TẦM QUAN TRỌNG CỦA CÂY RAU, ĐẶC ĐIỂM CHUNG VÀ KỸ
THUẬT LÀM ĐẤT TRỒNG RAU
I.2.1 Tầm quan trọng của cây rau đối với nền kinh tế và xã hội
I.2.1.1 Giá trị dinh dưỡng
Rau là loại thực phẩm rất cần thiết cho mọi ngưòi trong cuộc sống hằng ngày.
Cây rau cung cấp rất nhiều chất dinh dưõng quan trọng cho sự phát triển của cơ thể con
người: protein, lipit, vitamin, muối khoáng, và nhiều chất quan trọng khác. Về vai trò
của vitamin trong sự phát triển của cơ thể con người đã được Ch.Eijkman người Hà Lan
và S.F.G. Hopkins người Anh phát hiện từ năm 1929.
Vitamin có tác dụng to lớn trong quá trình phát triển của cơ thể, thiếu vitamin
chúng ta sẽ bị nhiễm nhiều bệnh tật. Thí dụ thiếu vitamin A làm cho cơ thể trẻ em chậm
lớn, giảm thị lực, mắt mờ và giảm khả năng miễn dịch. Vitamin A thường có trong rau
có màu đỏ và vàng da cam như: cà rốt, cà chua, ớt, cà chua, bí ngô.. Chất khoáng trong
rau chủ yếu là Ca, P, Fe…
Chúng có tác dụng điều hòa cân bằng kiềm tan trong máu, là những chất cần thiết
cho cấu tạo máu và xương. Đặc biệt nguyên tố Fe rất cần thiết trong quá trình phát triển
của thai nhi. Chất xơ trong rau có tác dụng nhuận tràng và làm tăng khả năng tiêu hóa.
Rau thuộc về những nhóm cây hằng năm: cà, ớt, cà chua, các cây trong họ bầu bí và đậu
cô ve…
Rau hai năm như rau chân vịt, hàng tây, tỏi tây, cải bắp,...và cây thân thảo lâu
năm như măng mai, măng tre.... Giá trị dinh dưỡng của rau là rất phong phú và đặc biệt
quan trọng trong cuộc sống hằng ngày (Tạ Thu Cúc, 2005).
I.2.1.2 Ý nghĩa kinh tế
-Rau là loại cây trồng cho hiệu quả kinh tế cao:
Giá trị sản suất 1 ha rau cao gấp 2-3 lần 1 ha lúa. Hiệu quả lớn hay nhỏ phụ thuộc
nhiều và trình độ của người sản suất, kinh nghiệm, công nghệ sản xuất và chủng loại
rau.
-Rau là cây lương thực:
Một vài loại cây trồng có hàm lượng cao cũng được sử dụng như cây lương thực
như: khoai tây, khoai sọ, củ từ...
-Rau là loại hàng hóa có giá trị xuất khẩu cao:
Rau là mặt hàng xuất khẩu quan trọng, thu nhiều ngoại tệ cho đất nước.
Tình hình sản xuất rau nước ta còn nhiều hạn chế về chủng loại, mẫu mã, bao bì
và thị trường tiêu thụ...
Thị trường xuất khẩu rau quả của Việt Nam chủ yếu là Trung Quốc, Nhật Bản,
Hàn Quốc, Đài Loan...
Rau là nguyên liệu chế biến thực phẩm phong phú và quan trọng (Tạ Thu Cúc,
2005).
I.2.1.3 Giá trị y học
Rau chẳng những mang lại giá trị dinh dưỡng cao mà chúng còn được sử dụng
như là những cây dược liệu quý như: tỏi, hành hoa, gừng, nghệ, tía tô, hành tây...
Người ta cho rằng ăn mướp đắng và bí ngô một cách thường xuyên thì có thể
phòng ngừa bệnh đái tháo đường (Trịnh Thị Thu Hương, 2001).
I.2.1.4 Giá trị xã hội
Khi ngành sản xuất rau được phát triển một cách nhanh chóng và vững chắc sẽ
góp phần làm tăng thu nhập cho người lao động, thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của
người tiêu dùng.
Khi sản xuất rau được coi là một nghề, những khu chuyên canh rau được mở
rộng sẽ có điều kiện để sắp xếp lao động một cách hợp, giải quyết việc làm cho nông
dân trong những lúc nông nhàn.
Phát triển ngành sản xuất rau còn có điều kiện để hỗ trợ đối với các ngành khác
trong nông nghiệp như cung cấp thức ăn và chất xanh cho chăn nuôi.
Thời kỳ 1991-1997 sản lượng rau tăng từ 3,2 triệu tấn lên 4,7 triệu tấn. Tuy vậy
vẫn chưa đáp được định mức tiêu dùng, hiện nay bình quân đầu người mới chỉ đạt 62-
65kg/năm (Tạ Thu Cúc, 2005).
I.2.2 Đặc điểm chung của ngành sản xuất rau:
Sản xuất rau là một bộ phận quan trọng trong sản xuất nông nghiệp, nhưng nó
mang những đặc thù riêng.
Ngành sản xuất rau có những đặc điểm cần chú ý sau:
I.2.2.1 Thời kỳ vườn ươm
Đặc điểm nổi bật của nghề trồng rau là hầu hết hạt giống rau đều phải được gieo
ươm trước khi đưa ra ruộng sản xuất đại trà.
Ngoài kỹ thuật gieo truyền thống ̣̣̣̣̣̣gieo ngoài đồng̣, hiện nay còn nhiều cách gieo
ươm khác cũng mang lại hiệu quả cao như: gieo trong bầu, gieo trong khay, gieo trong
nhà lưới..ở thời kì này chúng ta phải chăm sóc cho cẩn thận, tỷ mỉ ( Đường Hồng Dật,
2000).
I.2.2.2 Yêu cầu thời vụ nghiêm ngặt, chặt chẽ
Rau là loại cây trồng rất mẫn cảm với điều kiện thời tiết như: nhiệt độ, độ ẩm,
ánh sáng, yêu cầu thời vụ rất nghiêm ngặt. Thời vụ không thích hợp làm giảm năng suất
và chất lượng. Về nguyên tắc cần bố trí sắp xếp thời vụ sao cho thời kỳ hình thành bộ
phận sử dụng gặp được nhiều thuận lợi nhất (Tạ Thu Cúc, 2005).
I.2.2.3 Nhiều sâu bệnh
Rau là loại cây trồng chứa nhiều chất dinh dưỡng phong phú, thân lá non mềm,
hàm lượng nước trong thân lá cao là môi trường rất thích hợp cho nhiều loại sâu bệnh
sinh trưởng, phát triển trên cây rau.
Sâu bệnh hại là một trong những nguyên nhân làm giảm năng suất sản lượng và
giá trị hàng hóa.
Một loại rau có thể bị nhiều sâu bệnh hại tấn công, chúng phá hại trong suốt thời
kỳ sống của nó.
Vì vậy nhà nông cần phải công tác công tác quản lý dịch hại tổng hợp, thực hiện
các biện pháp luân canh tăng vụ, chọn giống kháng bệnh, bón phân cân đối...
Khi phải dùng thuốc nhưng phải tuân thủ quy định của ngành bảo vệ thực vật
(Trịnh Thị Thu Hương, 2001).
I.2.2.4 Cây rau thích hợp với chế độ trồng xen, gieo lẫn, trồng gối:
Hầu hết các loại rau đều có hình thái nhỏ, gọn, phân cành ít, có độ cao khác
nhau.
Thời gian sinh trưởng dài ngằn khác nhau, sự phân bố hệ rễ của từng cây rau
cũng không giống nhau.
Vì vậy trên cùng đơn vị diện tích có thể bố trí nhiều loại cây trồng cùng loại,
cùng sinh trưởng cùng phát triển.
Khi trồng thì nên chú ý những đặc điểm sau đây:
-Thời gian sinh trưởng của các loại rau.
-Hình thái, độ cao và tập quán phân cành.
-Sự phân bố của hệ rễ.
-Yêu cầu với các loại rau đối với ánh sáng khác nhau.
-Yêu cầu đối với các chất dinh dưỡng chủ yếu (Tạ Thu Cúc, 2005).
I.2.2.5 Yêu cầu kỹ thuật, nhân lực, kinh phí đầu tư trong sản xuất:
Rau là loại có thời gian sinh trưởng ngắn, muốn đạt năng suất cao, chất lượng tốt
cần phải thực hiện nhiều biện pháp kỹ thuật tiên tiến và hiện đại, áp dụng khoa học công
nghệ vào sản xuất, cụ thể như sau:
• Đất đai phải cày bừa kỹ, tơi xốp, tầng canh tác dày.
• Trong quá trình sản xuất phải thực hiện nhiều khâu kỹ thuật liên hoàn.
• Các biện pháp chăm sóc phải thực hiện nhiều lần như: vun xới, diệt trừ cỏ
dại, tưới nước...
• Kỹ thuật chăm sóc đặc biệt: làm giàn, bấm ngọn, tỉa cành, tỉa hoa...
• Đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật cao: máy phun mưa, nhà lưới...
• Áp dụng công nghệ cao vào sản xuất rau như: trồng không đất và thủy
canh (Tạ Thu Cúc, 2005).
I.2.2.6 Rau là ngành sản xuất hàng hóa:
Đặc điểm của hầu hết các loại rau là có hàm lượng nước trong thân lá cao, non,
giòn, dễ bị giập gãy. Vì vậy từ các khâu: trồng tỉa, chăm sóc, thu hoạch, vận chuyển,
phân phối đến tận tay người tiêu dùng cần phải được thực hiện theo dây chuyền sản xuất
hàng hóa. Trong quá trình chăm sóc, thu hái phải hết sức cẩn thận, tỷ mỷ và nhẹ nhàng
(Tạ Thu Cúc, 2005).
I.2.3 Đất trồng rau
Rau là loại cây trồng có thời gian sinh trưởng ngắn, chứa rất nhiều chất dinh
dưỡng phong phú, có thể trồng nhiều vụ trong năm...Vì vậy cây rau yêu cầu đất rất
nghiêm khắc. Đất trồng rau phải giữ nước, giữ phân tốt, phải nhẹ, tơi xốp, giàu chất
dinh dưỡng, độ pH trung tính, không bị nhiễm chất độc hại (Tạ Thu Cúc,2005).
Tầng đất canh tác dày từ 20 – 40 cm, mặt đất bằng phẳng, hoặc hơi thoai thoải về
một phía.Các loại đất quan trọng cho sản xuất rau là: đất thịt pha cát, đất thịt nhẹ, đất
thịt mịn, đất thịt pha sét và đất phù sa ven sông. Đất trồng rau cần bảo đảm thành phần
cát khoảng 50 – 60 %, sét khoảng 25 – 40 % (Tạ Thu Cúc, 2005).
Theo Tạ Thu Cúc, 2005 khi quy hoạch vùng sản xuất rau cần quan tâm lý tính và
hóa tính của đất. Đất trồng rau cần bảo đảm tỷ lệ thích hợp giữa các chất rắn, lỏng, khí.
Mặt khác, khi quy hoạch vùng sản xuất rau cần phải nghiên cứu điều kiện thời tiết khí
hậu. Diện tích canh tác lớn hay nhỏ phụ thuộc vào nhiều yếu tố: dân cư nhiều hay ít, thị
hiếu người tiêu dùng, điều kiện tự nhiên, tiêu chuẩn rau của mỗi người/ngày, trình độ
sản xuất rau, nhiều yếu tố ngoại cảnh.
Vùng sản xuất rau phải thuận tiện vận chuyển cho nội vùng, ngoại vùng hoặc
xuất khẩu. Canh tác rau cần nguồn nước lớn, 1 ha rau cần khoảng 4500 – 6000 m
3
nước.
Khu vực sản xuất rau cần xây dựng các hệ thống đường, bờ vùng, bờ thửa,
mương tưới (Tạ Thu Cúc, 2005).
I.3 ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC SẢN XUẤT RAU ĐẾN MÔI TRƯỜNG
I.3.1 Ảnh hưởng của thuốc bảo vệ thực vật đến môi trường
Nước ta sống chủ yếu dựa vào nông nghiệp nên để đảm việc đảm bảo cuộc sống
con người thì cần phải thâm canh tăng vụ, tăng năng suất cây trồng. Do đó lượng lớn
thuốc bảo vệ thực vật và phân hoá học được sử dụng. Trong thực tế, tình trạng sử dụng
phân hoá học và thuốc bảo vệ thực vật quá liều, liên tục và tùy tiện đã ảnh hưởng rất
nhiều đến sức khoẻ con người và môi trường. Thuốc bảo vệ thực vật bao gồm: thuốc
trừ cỏ, thuốc trừ nấm, thuốc diệt côn trùng, thuốc trừ sâu, thuốc kích thích tăng trưởng,
… Theo Lê Văn Khoa và ctv, 1999 đặc điểm chung của thuốc bảo vệ thực vật là đều có
khả năng gây ô nhiễm cho đất và hoạt tính của chúng sẽ gây độc cho con người và
động vật. Các vùng đất có trình độ thâm canh cao thường có sâu bệnh nhiều nên thường
phải sử dụng một lượng lớn thuốc bảo vệ thực vật, trong quá trình sử dụng thuốc thì
lượng nước tưới hay mưa làm cho các loại thuốc này ngấm dần vào đất (Võ Thị
Gương, 2004).
Thuốc trừ sâu bệnh xâm nhập vào môi trường đất làm suy giảm cơ vật lý đất,
với khả năng diệt khuẩn cao nên đã tiêu diệt nhiều vi sinh vật có lợi trong môi trường
sinh thái của đất (Lê Huy Bá, 2000).
I.3.2 Ảnh hưởng của việc sử dụng phân hoá học
Thời gian sinh trưởng của cây rau tương đối ngắn nhưng nó đòi hỏi một lượng
lớn phân hoá học để tăng năng suất cho cây trồng. Người ta sử dụng chủ yếu là đạm,
lân và kali. Trong đó phân đạm được bón với liều lượng nhiều hơn cả bởi mang lại hiệu
quả năng suất rõ rệt nhưng nó cũng dễ gây ô nhiễm môi trường do tồn dư của nó, nhất
là khi không sử dụng theo liều lượng như đã khuyến cáo, dẫn đến hiện tượng đất bị
chua hoá, kết cấu đất kém đi, hàm lượng chất vôi giảm, hoạt động của vi sinh vật giảm,
có sự tích động nitrat, kim loại nặng một số vùng (Lê Văn Khoa và ctv, 1999).
Theo Lê Huy Bá, 2000 cây chỉ sử dụng tối đa 30% lượng phân bón vào, còn lại
phần thì rửa trôi phần thì nằm lại trong môi trường đất gây ô nhiễm môi trường đất.
Mặt khác, khi tích luỹ hoá chất dạng phân bón cũng gây hại cho đất về mặt vật
lý, đất nén chặt, độ trương nở kém, kết cấu không vững chắc, không tơi xốp vì vi sinh
vật bị hoá chất tiêu diệt (Hồng Hưng, 2000).
I.3.3 Ảnh hưởng của thâm canh rau đến tính chất vật lý và hoá học đất
I.3.3.1 Vật lý đất
Sự nén dẽ của đất
Tình trạng canh tác liên tục, lâu năm có sự thay đổi theo hướng bất lợi về độ
phì nhiêu và vật lý đất, trong đó sự nén dẽ của đất trồng rau là yếu tố quan trọng tới độ
phì nhiêu về mặt hóa học và sinh học đất (Võ Thị Gương, 2004) . Đất bị nén dẽ làm
giảm khả năng thấm nước của đất và ảnh hưởng quan trọng đến sự tăng trưởng của bộ
rễ. Mặt khác, sự nén dẽ cũng làm mất cân đối về thành phần rắn, khí và nước trong các
khí khổng đất, hoạt động của vi sinh vật kém. Sự nén dẽ làm thay đổi một số đặc tính
vật lý đất như dung trọng đất, độ chặt, độ xốp, khả năng thấm của đất. Những thay đổi
này làm ảnh hưởng đến sự di chuyển của nước và không khí trong đất, làm tăng sự chảy
tràn nước trên bề mặt đất dẫn đến khả năng dự trữ nước trong đất giảm. Bên cạnh đó, sự
thiếu không khí trong đất nhất là oxi do đất bị nén dẽ đưa đến sự thay đổi về phản ứng
hóa học đất tạo ra những sản phẩm không hữu dụng cho cây trồng làm giảm pH đất , tạo
ra những acid hữu cơ và tạo ra một số hợp chất không hữu dụng cho cây trồng. Khi tế
khổng trong đất giảm do nén dẽ thì sự vận chuyển nước bị hạn chế. Nếu nước được
cung cấp nhanh hơn tốc độ thấm thì gây ra hiện tượng chảy tràn, dẫn đến xói mòn đất,
dinh dưỡng cho cây trồng cũng bị cuốn trôi (Hammel, 1994; Unger and Kaspar, 1994).
Dung trọng và độ xốp
Dung trọng khô và độ xốp là các thông số vật lý đất thường được áp dụng để
đánh giá sự nén dẽ của đất, khả năng giử nước và điều kiện phát triển của rễ cây trồng
(Lê Văn Khoa, 2003). Dung trọng phụ thuộc vào thành phần khoáng, thành phần cơ
giới, hàm lượng chất hữu cơ, cấu trúc, kỷ thuật làm đất. Khi dung trọng thấp sẽ có lợi
cho quá trình hấp thu dinh dưỡng chất của cây trồng (Nguyễn Thế Đặng, 1999). Tuy
nhiên, khi dung trọng của đất cao, tế khổng trong đất giảm sẽ hạn chế sự phát triển của
hệ rễ cây trồng, giới hạn khả năng hấp thu dinh dưỡng, hấp thu nước và cuối cùng là
năng suất cây trồng giảm (Võ Thị Gương, 2004). Mặt khác, đất có độ xốp thấp tạo ra sự
cản trở lớn cho sự phát triển của bộ rễ, khi đó sẽ làm giảm tiến trình hấp thu dưỡng chất
của bộ rễ cây trồng. Đất có độ xốp phù hợp thì có lợi cho cây trồng. Tùy thuộc vào điều
kiện ngoài đồng các tế khổng có thể chứa đầy nước hoặc không khí. Đất lý tưởng trong
sản xuất nông nghiệp cần có độ xốp 50%, trong đó khoảng 25% tỷ lệ là nước
(Miller,1990). Bảng 1 và bảng 2 là thang đánh giá độ xốp và dung trọng của đất:
Bảng 1 Thang đánh giá độ xốp đất (% thể tích), (theo N.A. Karchinski, 1965).
Bảng 2 Thang đánh giá dung trọng đất, g/cm
3
(N.A. Karchinski, 1965)
Dung trọng Đánh giá
<1.0 Đất quá khô hay giàu chất hữu cơ.
1.0-1.1 Đất mới được xới hoặc đất rất thuộc.
>1.2 Đất bị nén dẻ.
1.3-1.4 Đất chặt, bị nén cẻ mạnh.
1.4-1.6 Đất rất chặt thường thấy ở tầng đế cày.
1.6-1.8 Quá chặt thường thấy ở tầng tích tụ.
Thành phần cơ giới
Đất có tỷ lệ hạt nhỏ về cơ bản là giàu dinh dưỡng do khả năng giữ dinh dưỡng
của nó tốt hơn đất có tỷ lệ cát cao. Tuy nhiên, nếu không được bổ sung dinh dưỡng và
không có biện pháp bảo vệ thích hợp thì sẽ dẫn đến thoái hóa: giảm tốc độ thấm nước,
tăng tính mao dẫn, tăng tính dính (Nguyễn Thế Đặng, 1999). Đất có tỷ lệ sét cao, hàm
Tế khổng Đánh giá
>70% Đất quá xốp, đất quá khô
65 - 55% Đất xốp (lớp đất cày xới tầng mặt)
55 - 50% Trung bình cho lớp đất mặt
< 50% Đất chặt, không đạt yêu cầu
40 - 25% Đất quá chặt (các tầng dưới)
lượng chất dinh dưỡng thấp, nếu thời gian canh tác càng lâu, liên tục thì tình trạng nén
dẽ của đất dễ dàng xãy ra (Võ Thị Gương, 2004).
I.3.3.2 Về mặt hóa học đất:
Độ chua của đất
Là một tính chất quan trọng, ảnh hưởng đến các tính chất lý, hóa, sinh học đất.
Qua giá trị pH ta có thể biết được lượng vôi cần bón, khả năng dư thừa gây độc của các
ion, hoạt động của vi sinh vật và liên quan đến độ hữu hiệu của tất cả các dinh dưỡng
khoáng (Nguyễn Xuân Trường và ctv, 2000). Theo Trần Thị Ba, 1999 pH thích hợp cho
rau phát triển từ 5,5-7, ở pH này thì cây hấp thu chất dinh dưỡng dễ dàng và các sinh vật
đất cũng hoạt động tốt. Khi pH thấp từ 4,5-5, muốn trồng rau thì phải bón thêm vôi. Ở
pH này sự khoáng hóa N kém, P hữu dụng, Ca và Mg thấp, các vi sinh vật gây hại hoạt
động tốt hơn. Các yếu tố này đưa đến khả năng chống chịu những điều kiện bất lợi của
đất kém, cây yếu, dễ bị sâu bệnh tấn công (Võ Thị Gương, 2004).
Bảng 3 Thang đánh giá độ chua hiện tại cho đất trồng màu (Washington
University – tree Fruit research & Extention center, 2001)
pH
H2O
Độ chua của đất
<5.0 Thấp (low)
16.0-7.5 Tối hảo (optimal)
>7.5 Cao (high)
I.4 PHÂN HỮU CƠ VÀ VAI TRÒ TÁC DỤNG CỦA PHÂN HỮU CƠ
I.4.1 Phân hữu cơ
I.4.2 Khái niệm chất hữu cơ và sự khoáng hoá chất hữu cơ
Chất hữu cơ là một thành phần cơ bản kết hợp với các sản phẩm phong phú từ đá
mẹ để tạo thành đất. Chất hữu cơ là một đặc trưng để phân biệt đất với đá mẹ và là
nguồn nguyên liệu để tạo nên độ phì của đất. Số lượng và tính chất của chất hữu cơ
quyết định đến nhiều tính chất hóa lý và sinh học của đất (Nguyễn Thế Đặng, 1999).
Chất hữu cơ là bộ phận của đất có thành phần phức tạp và có thể chia làm hai
phần: Chất hữu cơ chưa bị phân giải và những tàn tích hữu cơ như: thân, rễ, lá thực vật,
xác động vật, xác vi sinh vật. Phần thứ hai là những chất hữu cơ đã phân giải. Trong
phần chất hữu cơ đã phân giải này chia làm hai nhóm:
+ Nhóm những hợp chất hữu cơ ngoài mùn.
+ Nhóm những hợp chất mùn.
Nhóm những hợp chất trong đất ngoài mùn chiếm tỷ lệ thấp trong toàn bộ chất
hữu cơ thường không vượt quá 10-15% (trừ than bùn hoặc đất dưới rừng có tầng thảm
mục dày). Nhóm chất hữu cơ này gồm các chất hữu cơ thông thường có trong động vật,
thực vật và vi sinh vật như: Hydrat, cacbon, Protein, Linhin, Lipit, andehyt,…
Nhóm hợp chất mùn là những hợp chất cao phân tử có cấu tạo phức tạp. Chúng
chiếm tỷ lệ cao trong chất hữu cơ (khoảng 85-90%).
Bảng 4 Thang đánh giá chất hữu cơ trong đất (%CHC), (theo I.V. Chiurin,
1972).
Chất hữu cơ trong đất, % Đánh giá
<1.0% Rất nghèo
1.1 – 3.0% Nghèo
3.1 – 5.0% Trung bình
5.1 – 8.0% Khá
>8.1% Giàu
Khoáng hoá là quá trình phân huỷ các hợp chất hữu cơ liên tục để tạo thành các
hợp chất khoáng đơn giản, sản phẩm cuối cùng là những hợp chất tan và chất khí có sự
tham gia của vi sinh vật (Nguyễn Thế Đặng, 1999). Nó sẽ trả lại cho đất các chất dinh
dưỡng có ít cho cây trồng dưới dạng các chất vô cơ.
Theo Nguyễn Thế Đặng (1999), thì sự khoáng hoá phụ thuộc vào : thành phần
chất hữu cơ, ẩm độ của đất (thích hợp là 70-80%), nhiệt độ (thích hợp là 25-35
o
C), pH
đất (thích hợp 6.5-7.5), và càng thoáng khí khoáng hoá càng nhanh. Quá trình khoáng
hoá xảy ra nhanh khi gặp điều kiện thuận lợi tạo ra nhiều chất dinh dưỡng cho cây
trồng. Tuy nhiên khoáng hoá xảy ra trong điều kiện yếm khí thì sẽ sinh ra nhiều chất
độc có hại cho cây trồng như: CH
4
, CO
2
, H
2
S…(Lê Huy Bá, 2000).
Xác hữu cơ
Mùn hoá khoáng hoá nhanh
Khoáng hóa từ từ
Các hợp chất mùn Các hợp chất khoáng
Hình 1.2 Sự chuyển hóa chất hữu cơ trong đất( Dương Minh Viễn, 2003)
I.4.2.1 Nguồn gốc chất hữu cơ
Nguồn gốc nguyên thủy của chất hữu cơ trong đất là mô thực vật: thân, rễ, lá cây
sau khi chết đi sẽ bị mục nát, hoa màu sau khi thu hoạch thì phần còn lại như: Lá hay rễ
cũng bị phân hủy để cung cấp chất hữu cơ cho đất. Ngoài ra động vật cũng là nguồn
cung cấp chất hữu cơ cho đất. Chất hữu cơ được bổ sung vào đất từ các nguồn sau đây:
Xác sinh vật (còn gọi là tàn tích sinh vật): Đây là nguồn hữu cơ chủ yếu. Sinh vật
đã lấy thức ăn từ đất để tạo nên cơ thể chúng và khi chết đi để lại những tàn tích hữu cơ
cho đất. Trong xác sinh vật có đến 4/5 là từ thực vật. Tính trung bình hàng năm đất
được bổ sung từ thực vật 5-18 tấn thân, rễ và lá trên ha (Nguyễn Thế Đặng, 1999).
Ngoài thực vật thì xác vi sinh vật và động vật đất đã cung cấp chất hữu cơ một phần hết
sức đáng kể, mặc dù khối lượng không lớn nhưng có chất lượng tốt.
Phân hữu cơ đối với đất đang canh tác thì lượng chất hữu cơ do con người bón
vào đất là nguồn hữu cơ đáng kể. Những nơi thâm canh cao người ta có thể bón tới 80
tấn hữu cơ trên ha. Nguồn phân hữu cơ bao gồm: phân chuồng, phân xanh, phân rơm
rác, bùn ao,… tùy thuộc vào loại phân hữu cơ khác nhau mà chất lượng khác nhau (Ngô
Ngọc Hưng, 2004).
Phân hữu cơ là loại phân bón được loài người sử dụng đầu tiên, từ gần 3000 năm
trước đây ở Trung Quốc (Nguyễn Đăng Nghĩa, 2002).
I.4.2.2 Phân hữu cơ
Phân hữu cơ là tên gọi chung cho các loại phân được sản xuất từ các vật liệu hữu
cơ như dư thừa thực vật, phân chuồng, phân xanh, chất thải thực vật, các phế phẩm
nông nghiệp vùi trực tiếp vào đất hay ủ thành phân. Sau khi phân giải có khả năng cung
cấp dinh dưỡng cho cây. Quan trọng hơn nữa là có khả năng tái tạo lớn. Đây là nguồn
phân quý, không những tăng năng suất cây trồng mà còn có khả năng làm tăng hiệu lực
của phân hóa học, cải tạo và nâng cao độ phì nhiêu của đất (Ngô Ngọc Hưng, 2004).
Kinh nghiệm trong quá trình sử dụng, nghiên cứu phân bón cho thấy để đảm bảo
năng suất cao và ổn định, việc cung cấp dinh dưỡng cho cây trồng chỉ dựa vào phân vô
cơ là không đủ, mà phải có phân hữu cơ ít nhất 25% trong tổng số dinh dưỡng (Vũ Hữu
Yêm, 2005).
Michel Vilain (1989) đề nghị phân loại theo mức độ khoáng hóa chất hữu cơ hay
khả năng tạo mùn của chất hữu cơ. Chất hữu cơ có tỷ lệ C/N cao được vùi trực tiếp vào
đất không qua chế biến, chức năng chủ yếu là cải tạo đất thì được gọi là chất hữu cơ cải
tạo đất. Chất hữu cơ thông qua chế biến hay không thông qua chế biến có tỷ lệ C/N thấp
thì gọi là phân hữu cơ (Vũ Hữu Yêm, 2005).
I.4.3 Vai trò của phân hữu cơ
I.4.3.1 Vai trò của phân hữu cơ đối với cây trồng
Từ lâu vấn đề này được biết đến, chất hữu cơ trong đất có ảnh hưởng đến sự phát
triển của cây trồng, nó không thể giải thích thông qua sự thêm dinh dưỡng đơn độc.
Chất hữu cơ chứa các nguyên tố N, P, K, Mg, Ca, S,… và nhiều nguyên tố vi lượng cần
thiết cho cây. Cây có thể hút trực tiếp một lượng chất đạm hữu cơ dưới dạng Amino
Acid như: Alanine, Glyeine, còn thông thường cây hút các chất dinh dưỡng dưới dạng
muối khoáng có được từ sự khoáng hóa chất hữu cơ. Ví dụ: Cây lúa hút 80% chất đạm
từ sự khoáng hóa chất hữu cơ trong đất, ngay cả khi đất được bón phân (Đỗ Thị Thanh
Ren, 1993). Bón kết hợp thích đáng giữa phân hóa học và phân hữu cơ sẽ có tác dụng
tăng năng suất cây trồng.
Phân hữu cơ có chứa đầy đủ các loại chất khoáng cần thiết cho cây trồng nhưng
hàm lượng không nhiều. Mặc dù phân hữu cơ không có tác dụng tức thời như phân hóa
học, nhưng bón với số lượng lớn thì tác dụng của nó không thua kém phân hóa học
( Nguyễn Thanh Hùng, 1984).
I.4.3.2 Vai trò của phân hữu cơ đối với đất
Cải tạo hóa tính đất và bồi dưỡng đất
Phân hữu cơ có tác dụng cải tạo đất toàn diện, đặt biệt nó cải tạo nhiều đặc tính
xấu của đất ngoài việc cải tạo đất nghèo dinh dưỡng, phân hữu cơ còn làm tăng lượng
chất hữu cơ và mùn trong đất mà phân hóa học không có được.
Bón phân hữu cơ đất ít bị rửa trôi thành đất bị bạc màu hoặc trơ cát sỏi. Chất hữu
cơ có tác dụng như keo giữ lại các hạt đất rất nhỏ. Đồng thời, nếu chất mùn trong đất
được tăng lên thì các chất dinh dưỡng do ta bón cho cây như: N, P, K,… cũng ít bị rửa
trôi hay bay hơi đi mất. Ngoài ra, đất có tính đệm nghĩa là khi bón các loại phân hóa học
hoặc vôi vào đất thì tính chất hóa học của đất như: chua, kiềm, mặn…ít tăng đột ngột
nên cây trồng ít bị thiệt hại. Bón phân hữu cơ vào các loại đất thịt nhẹ, đất xám, đất cát
làm cho đất không có cấu trúc rời rạc, nhờ đó hạn chế sự bốc hơi nước của đất và giúp
cây ít bị khô héo nhanh khi bị nắng hạn, nhưng khi gặp mưa dầm thì đất ít bị dính chặt,
dễ hút nước hơn…Ngược lại, đất thịt nặng hoặc đất sét nếu được bón nhiều phân hữu cơ
thì đất trở nên tơi xốp hơn do đó cây trồng sẽ phát triển mạnh để hút nhiều thức ăn cho
năng suất cao (Nguyễn Thanh Hùng, 1984).
Theo Vũ Hữu Yêm (1995) và Nguyễn Ngọc Nông (1999) cho rằng: Phân hữu cơ
khi bón vào đất sau khi phân giải sẽ cung cấp thêm các chất khoáng làm phong phú
thêm thành phần thức ăn cho cây và sau khi mùn hóa làm tăng khả năng trao đổi của
đất. Đặc biệt là các humic aicd trong phân có tác dụng khoáng hóa đạm rất tốt trong đất
(Nguyễn Bảo Vệ, 1996).
Bón phân hữu cơ sẽ cung cấp thêm các khoáng chất cho cây, phân hữu cơ làm
tăng khả năng hòa tan cho chất khoáng khó hòa tan.
Các chất hữu cơ sau khi mùn hóa làm tăng khả năng trao đổi chất của đất. Đặc
tính này quan trọng đối với thành phần cơ giới nhẹ: khả năng trao đổi của mùn gấp 5 lần
khả năng trao đổi của đất sét.
Cây trồng lấy từ đất một lượng dinh dưỡng khá lớn, nhiều chất bị rửa trôi, bay
hơi (N) nên phải trả lại lượng dinh dưỡng cho đất để duy trì độ phì nhiêu của đất. Để
đáp ứng thức ăn cho cây trồng. Bón phân hữu cơ có tác dụng cung cấp cho đất gần đầy
đủ các loại dưỡng chất cần thiết: N, P, K, Ca, Mg… Và nhiều chất vi lượng khác mà
phân hóa học không có đặc điểm này ( Nguyễn Thanh Hùng, 1984).
Theo Ngô Ngọc Hưng và ctv, 2004 phân hữu cơ còn cung cấp CO
2
cho sự quang
tổng hợp chất hữu cơ, cung cấp các chất dinh dưỡng hữu cơ như: Đường và các amino
acid là sản phẩm trung gian trong quá trình phân hủy, có thể được cây trồng sử dụng,
làm giảm khả năng trực di các cation, điều này quan trọng trong các loại đất chứa ít sét,
làm gia tăng khả năng đện các chất dinh dưỡng, chủ yếu là N, P, K và S. Vì vậy, làm
tăng hiệu quả của phân hóa học vào đất…
Hữu cơ còn là nhân tố tích cực tham gia vào chuyển hóa lân trong đất từ dạng
khó tiêu sang dạng dễ tiêu, hữu dụng cho cây trồng (Nguyễn Thị Thủy và ctv, 1997).
Mặt khác, chất hữu cơ còn có tác dụng đệm trong hầu hết các loại đất (Đỗ Thị Thanh
Ren, 1998), hay tạo phức chất hữu cơ – khoáng để khắc phục các yếu tố độc hại trong
đất (Lê Văn Khoa và ctv, 1996). Theo Lê Duy Phước (1968), tăng cường bồi dưỡng đất
bằng phân hữu cơ kết hợp sử dụng vôi, phân hóa học hợp lý để cải tạo thành phần lý –
hóa của đất, cải tạo nhanh chóng đất bạc màu. Bên cạnh đó, chất hữu cơ còn phát huy
tác dụng của các chất điều hòa tăng trưởng sinh ra trong đất (Hoàng Minh Châu, 1998).
Cải tạo lý tính của đất
Các kết quả nghiên cứu cho thấy việc trộn chất hữu cơ vào đất làm tăng độ định
kết cấu đất. Tác dụng ổn định cấu trúc đất phụ thuộc vào bản chất chất hữu cơ, và mức
độ mùn hóa. Mùn tăng khả năng kết dính các hạt đất để tạo thành đoàn lạp và làm giảm
khả năng thấm ướt khiến cho kết cấu được bền trong nước (Đỗ Thị Thanh Ren, 1998).
Chất hữu cơ làm cho nước ngấm vào đất thuận lợi hơn, khả năng giữ nước cao
hơn, việc bốc hơi mặt đất ít đi nhờ vậy mà tiết kiệm nước được tưới.
Phân hữu cơ có tác dụng làm đất thông thoáng tránh sự tạo váng và tránh sự xói
mòn. Cải thiện lý hóa tính và đặc tính sinh học của đất, làm đất tơi xốp, thoáng khí , ổn
định pH, giữ ẩm cho đất, tăng khả năng chống hạn cho cây trồng… Tạo điều kiện thuận
lợi cho sự hoạt động của các vi sinh vật hữu ích trong đất, giúp bộ rễ và cây trồng phát
triển tốt. Góp phần đẩy mạnh quá trình phân giải các hợp chất vô cơ, hữu cơ thành
nguồn dinh dưỡng dễ tiêu N, P, K, vi lượng… để cây trồng hấp thụ, qua đó giảm các tổn
thất do bay hơi, rữa trôi gây ra. Phân hủy các độc tố trong đất, tiêu diệt các loại mầm
bệnh, các loại vi sinh vật gây hại, làm giảm mầm mống sâu bệnh trong đất. Góp phần
làm sạch môi trường, cho nông sản sạch, an toàn trong tiêu dùng, chất lượng cao ( Vũ
Hữu Yêm, 1995).
Ngoài ra, phân hữu cơ còn đóng vai trò quan trọng trong việc phục hồi và nâng
cao độ phì nhiêu đất thoái hóa, khối lượng phân hữu cơ vùi vào đất càng lớn thì độ phì
nhiêu hồi phục càng nhanh (Lê Hồng Tịch, 1997).
Tác dụng đến đặc tính sinh học của đất
Trong quá trình phân giải, phân hữu cơ cung cấp thêm thức ăn cho vi sinh vật, cả
thức ăn khoáng và thức ăn hữu cơ, nên khi vùi phân hữu cơ vào đất tập đoàn vi sinh vật
trong đất phát triển nhanh, cả giun đất cũng phát triển mạnh.
Bón phân chuồng, phân rác vào đất còn làm phong phú thêm tập đoàn vi sinh vật
trong đất.
Một số chất có hoạt tính sinh học (phytohormone) được hình thành lại tác động
đến việc tăng trưởng và trao đổi chất của cây (Đỗ Thị Thanh Ren, 1998).
Thông qua hoạt động của vi sinh vật chất hữu cơ phân hủy biến thành mùn, mùn
có khả năng kiên kết những hạt đất phân tán làm cho đất có cấu trúc tốt, thoáng khí,
tăng độ xốp, đất dễ cày bừa, giữ phân và giữ nước tốt hơn. Khi bón phân hữu cơ một
cách có hệ thống sẽ cải thiện những tính chất lý – hóa cũng như sinh học, chế độ nước,
chế độ nhiệt của đất (Lê Văn Khoa và ctv, 1996).
Bón phân hữu cơ vào đất làm tăng dung tích hấp thụ NH
4
+
. Bón từ 6-15 tấn hữu
cơ khả năng hấp thu NH
4
+
tăng lên 15-24%, dung tích hấp thu tăng.
Bón phân hữu cơ làm tăng hiệu quả của khoáng hóa.
Khối lượng phân hữu cơ vùi vào trong đất càng nhiều thì độ phì nhiêu phục hồi
càng nhanh (Ngô Ngọc Hưng, 2004).
Chức năng vệ sinh, bảo vệ
Tăng cường phân hủy sinh học nông dược dư tồn trong đất thông qua việc kích
thích hoạt động vi sinh vật trong đất.
Hấp phụ các chất làm ô nhiễm đất như tạo phức với kim loại nặng. một số nông
dược (Phạm Tiến Hoàng, 2003).
Tác dụng cung cấp chất dinh dưỡng cho cây trồng
Phân hữu cơ cung cấp chất dinh dưỡng cho cây nhờ chất acid humic (Hoàng
Minh Châu , 1998). Theo Nguyễn Bảo Vệ, 1996 các chất hữu cơ cũng là nguồn dinh
dưỡng cung cấp cho cây do mùn bị phân hủy (Akio Inoko, 1984) và hòa tan các chất vô
cơ trong đất.
Chất hữu cơ không chỉ là nguồn cung cấp chất dinh dưỡng cho cây trồng mà còn
có tính chất bền vững đến tiềm năng, năng suất cao nhất cho phép của đất nhờ con
đường khoáng hóa và cải tạo tinh chất lý – hóa đất (Wolfgangn Flaig, 1984).
Và theo Nguyễn Lân Dũng (1968) nguồn đạm bổ sung cho đất chủ yếu dựa vào
nguồn phân hữu cơ và sự cố định đạm của các vi sinh vật sống trong đất. Ngoài ra, bản
thân phân hữu cơ có chứa các nguyên tố N, P, K, Ca, Mg và nhiều nguyên tố vi lượng
cần thiết cho cây trồng (Trần Thành Lập, 1998 ).
Bảng 4 Hàm lượng NPK có trong các loại phân hữu cơ tự nhiên (tính theo %
chất khô), (Tạ Thu Cúc, 1996).
Loại phân N P
2
O
5
K
2
O
1. Phân chuồng
Phân lợn 0,45 – 0,60 0,41 0,26 – 0,55
Phân trân bò 0,29 – 0, 55 0,17 – 0,35 0,8 – 1,0
Phân gà 1,15 – 1,63 0,54 – 1,4 0,85 – 2,4
2. Phân cá 4 – 10 3 – 9 0,3 – 1,5
3. Khô dầu
Khô dầu lạc 7 – 7,2 1,5 – 1,6 1,3 – 1,4
Khô dầu bông 4 – 6,5 2 – 3 1,5 – 2
4. Phân xanh
Muồng lá tròn 2,7 – 3 0,4 – 0,7 1 – 1,3
Điền thanh 2,6 0,28 1,7
Bèo hoa dâu 4,7 – 5 0,6 – 1 1,5
5. Than bùn
Tây Ninh 0,38 0,03 0,37
Củ Chi 0,09 0,15 0,31
Mộc Hóa 0,16 – 0,91 0,15 0,31
U Minh 0,25 0,07 – 0,1 0,25 – 0,30
I.4.4 Lợi ích của việc bón phân hữu cơ
Qua những phân tích về mặt bất lợi về lý, hóa cũng như sinh học đất do sự suy
giảm độ phì nhiêu của đất. Hướng lâu dài để cải thiện và phục hồi dần cấu trúc đất, tăng
cường độ phì nhiêu về mặt dinh dưỡng và sinh học đất, chống chịu các nguồn sâu bệnh
từ đất là là tăng cường hàm lượng chất hữu cơ trong đất.
Các loại phân hữu cơ như phân chuồng, phân xanh, rơm rạ, tàn dư thực vật…
đóng vai trò quan trọng trong việc phục hồi và nâng cao độ phì nhiêu của đất bị thoái
hóa. Khối lượng phân hữu cơ vùi vào đất càng lớn thì độ phì nhiêu hồi phục càng
nhanh.
Các lợi ích của việc bón phân hữu cơ
Lợi ích thứ nhất: cải thiện và ổn định kết cấu của đất. Đây là điều kiện tiên quyết
làm cho đất tơi xốp, thoáng khí, từ đó:
- Làm cho nước thấm vào đất thuận lợi, hạn chế đóng váng bề mặt, hạn chế chảy
tràn làm rửa trôi chất dinh dưỡng, ổn định nhiết độ đất, tăng cường hoạt động của sinh
vật đất ( Vũ Hữu Yêm, 2005).
Chất hữu cơ có khả năng hấp phụ lượng nước gấp 5 lần khối lượng của nó, do đó
tăng cường khả năng giữ nước của đất để cung cấp cho nhu cầu của cây, gíup vận
chuyển chất dinh dưỡng dễ dàng đến rễ cây trồng, ngoài ra còn giúp điều hoà nhiệt độ
đất. Điều này đặc biệt quan trọng đối với các loại cây trồng cạn như hoa màu, rau cải và
cây ăn trái. Việc thiếu nước tạm thời trong những ngày nóng, tháng khô sẽ làm năng
suất cây trồng giảm đáng kể, nhất là rất quan trọng trên các loại đất cát (Vũ Hũu Yêm,
1995).
- Giúp đất thoát nước tốt, cải thiện tình trạng ngập úng, dư thừa nước. Điều nầy
rất quan trọng đối với các loại cây trồng không chịu úng như rau, màu trồng trên các
loại đất sét nặng. Khả năng thoát nước tốt của đất đặc biệt quan trọng trong hạn chế sự
phát triển của các bệnh có nguồn gốc từ đất mà nguyên nhân là do tình trạng đất quá
khô hay quá ẩm, pH đất thấp và sự phát triển kém của quần thể các vi sinh vật có lợi
trong đất.
- Trên đất sét nặng, do đó việc bón bổ sung chất hữu cơ làm đất tỏi xốp sẽ giúp
rễ cây trồng phát triển tốt, tăng cường sự thu hút chất dinh dưỡng cho cây là yếu tố rất
quan trọng để gia tăng năng suất cây trồng.
Lợi ích thứ hai: cung cấp nguồn chất dinh dưỡng tổng hợp cho đất, làm chất dinh
dưỡng trở nên dễ hữu dụng cho đất, tăng cường giữ phân cho đất:
- Phân hữu cơ cung cấp đầy đủ các dưỡng chất cho cây trồng như đạm, lân, kali,
Ca, Mg, S, các nguyên tố vi lượng, các kích thích tố sinh trưởng, các vitamin cho cây
trồng. Tuy nhiên đây là sự cung cấp toàn diện các chất dinh dưỡng cùng một lúc, bền do
đó có ý nghĩa quan trọng nếu so với việc bón phân hóa học, chỉ cung cấp một số các
nguyên tố dinh dưỡng nhất định.
Đặc biệt là sự cung cấp toàn diện các nguyên tố vi lượng, các vitamine từ phân
hữu cơ có ý nghĩa trong việc gia tăng phẩm chất nông sản, làm trái cây ngọt hơn vì tránh
được hiện tượng bón dư thừa chất đạm, làm giảm lượng đường trong trái; làm trái cây
ngon hơn vì những chất hữu cơ trong quả là kết quả của các qúa trình sinh hoá trong cây
khi có đầy đủ các men điều khiển. Các men nầy thường được tạo thành khi có đầy đủ
các nguyên tố vi lượng. Sự mất cân đối khi bón các nguyên tố vi lượng có thể ảnh
hưởng sự tạo thành các men nầy do đó ảnh hưởng phẩm chất hạt. Bón phân vi lượng
không đúng liều lượng có thể gây sự mất cân đối trong dinh dưỡng cây trồng ( Hoàng
Minh Châu, 1998).
Sự cung cấp dưỡng chất từ từ với một lượng nhỏ sẽ không gây hiện tượng mất
cân đối dưỡng chất như đối với phân hóa học Điều này cũng làm hạn chế nguy cơ bón