Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Nêu khái niệm: TPCG, hạt CG, cấp HCG? Phương pháp điều tiết TPCG đất? ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (89.12 KB, 5 trang )

Nêu khái niệm: TPCG, hạt
CG, cấp HCG? Phương
pháp điều tiết TPCG đất?

Kết quả của quá trình hình thành đất đã tạo ra
được các hạt đơn đất có kích thước và hình
dạng khác nhau. Những hạt đơn đất đó được
gọi là "phần tử cơ giới đất" hay còn gọi là hạt cơ
giới đất. Như vậy các phần tử cơ giới đất có thể
có nguồn gốc vô cơ, hữu cơ hay vô cơ- hữu cơ.
Nhưng trong đất phần lớn các hạt đất có nguồn
gốc vô cơ trừ các loại đất được gọi là đất hữu
cơ (có từ 16 % cacbon hữu cơ trở lên).

Thành phần cơ giới đất
Khái niệm về cấp hạt cơ giới và thành phần
cơ giới đất
Kết quả của quá trình hình thành đất đã tạo ra
được các hạt đơn đất có kích thước và hình
dạng khác nhau. Những hạt đơn đất đó được
gọi là "phần tử cơ giới đất" hay còn gọi là hạt cơ
giới đất. Như vậy các phần tử cơ giới đất có thể
có nguồn gốc vô cơ, hữu cơ hay vô cơ- hữu cơ.
Nhưng trong đất phần lớn các hạt đất có nguồn
gốc vô cơ trừ các loại đất được gọi là đất hữu
cơ (có từ 16 % cacbon hữu cơ trở lên).
Những phần tử cơ giới nằm trong một phạm vi
kích thước nhất định thì có đặc tính và thành
phần hoá học khác với những hạt trong phạm vi
kích thước khác. Người ta gọi những hạt có
phạm vi cùng kích thước đó là cấp hạt cơ giới.


Ta có 3 cấp hạt cơ giới cơ bản, đó là: cấp hạt
cát, cấp hạt bụi còn gọi là Limon và cấp hạt sét.
Hàm lượng các cấp hạt đựơc biểu thị bằng tỷ lệ
phần trăm khối lượng. Tỷ lệ tương đối giữa các
cấp hạt cơ giới gọi là thành phần cơ giới đất hay
còn gọi là thành phần cấp hạt. Dựa trên tỷ lệ
của các cấp hạt đó tên đất được gọi là đất
cát,đất thịt hoặc đất sét Nhiều khi người ta
cũng gọi là đất nhẹ, đất trung bình hoặc đất
nặng.
Cũng cần lưu ý rằng, các phần tử cơ giới của
đất là những hạt độc lập riêng rẽ. Trong trường
hợp các hạt cơ giới liên kết lại với nhau thì đó là
một đối tượng nghiên cứu khác được gọi là kết
cấu đất hay cấu trúc đất (structure). Vì vậy trong
quá trình xác định các cấp hạt để nghiên cứu
thành phần cơ giới đất cần tách triệt để các hạt
đơn đất ra bằng việc kết hợp các phương pháp
phù hợp như tán, lắc, khuấy, đun sôi, các hoá
chất phân tán.
Phân chia cấp hạt cơ giới
Tiêu chuẩn phân chia cấp hạt cơ giới của các
nước trên thế giới có khác nhau nhưng vẫn có
một "mốc" chung. Tại mốc này sự thay đổi về
kích thước các hạt đất sẽ dẫn tới sự thay đổi đột
ngột về tính chất đặc biệt là tính chất vật lý của
đất. Ví dụ, tính mao dẫn xuất hiện ở mốc 1,0-
2,0 mm hay mốc 0,1- 0,2 mm là mốc bắt đầu có
tính dính, tính dẻo và đất khó thấm nước. Ta có
thể so sánh sự khác nhau trong việc phân chia

cấp hạt của các nước trên thế giới qua bảng

** Cát vật lý là những hạt lớn hơn 0,01 mm. Khi
những hạt có kích thước như thế sẽ thể hiện rõ
nét những tính chất vật lý của các hạt cát như
lắng rẽ, tính dễ thoát nước, tính mao dẫn rất bé,
không có tính trương (giãn nở) và tính co, tính
dính, tính dẻo Sét vật lý là những hạt có kích
thước < 0,01 mm. Những hạt này thể hiện rõ
tính vật lý của hạt sét như tính dẻo, tính trương,
tính co, tính thấm nước kém, tính mao dẫn lớn,
lúc ướt thì dẻo quánh, lúc khô thì rắn chắc
Cũng nên lưu ý rằng sự phân chia như trên
được thực hiện trong quá trình phân tích cấp
hạt, còn trong thực tiễn áp dụng vào phân loại
đất theo thành phần cơ giới thì người ta chỉ xét
theo 3 cấp hạt chủ yếu là cát, bụi và sét. Các
cấp hạt chi tiết chỉ được ứng dụng khi nghiên
cứu đất ở các cấp phân vị thấp nhất như cấp
chủng của Liên Xô (cũ), cấp series của Mỹ, cấp
phases của FAO- UNESCO.
Cho đến nay ở Việt Nam vẫn áp dụng bảng
phân chia cấp hạt của Liên Xô (cũ) và một số
trường hợp dùng bảng của Liên Hiệp Quốc
(LHQ) hay của Bộ Nông nghiệp Mỹ. Tuy nhiên
bảng của FAO- UNESCO (1970) được áp dụng
phổ biến vì hai lý do: thứ nhất, trong thực tế
phân tích cấp hạt người ta được phép đơn giản
hoá số cấp hạt còn lại 3 cấp cơ bản; thứ hai,
phương pháp phân loại đất theo FAO- UNESCO

đang ngày càng được áp dụng rộng rãi. So với
bảng của LHQ năm 1927, bảng của FAO-
UNESCO có một ít thay đổi, từ 7 cấp tăng lên
11 cấp chủ yếu ở các cấp lớn hơn 2 mm.
Thành phần và đặc tính của các cấp hạt cơ
giới
Các tài liệu nghiên cứu cho thấy thành phần hoá
học của các cấp hạt khác nhau rất khác nhau,
đặc biệt là tỷ lệ 3 nguyên tố silic, nhôm và sắt.
Ðiều này rất phù hợp với thành phần khoáng vật
trong đất. Ta có thể thấy rõ qua số liệu của N.A.
Kachinxki (1970) ở bảng 8.2
Nhìn chung cấp hạt càng mịn, tỷ lệ các nguyên
tố (trừ silic) trong đó có cả nguyên tố dinh
dưỡng càng cao. Tuy nhiên các nguyên tố dinh
dưỡng N và P thì không phải lúc nào cũng tuân
theo quy luật này vì bản thân các hạt sét không
chứa các nguyên tố đó. Do vậy ở những loại đất
sét ta không bón phân năng suất cây trồng rất
thấp.
Ta càng thấy sự khác nhau rõ nét của các cấp
hạt đất qua một số tính chất vật lý của chúng
được V.V. Okhotin và V. G. Trasuc trình bày
trong bảng 8.3.
Ta dễ dàng nhận thấy các cấp hạt từ to đến nhỏ
như sau:
• Ðộ ẩm phân tử cực đại tăng dần lên
• Khả năng thấm nước giảm dần
• Cột nước trong mao dẫn tăng cao dần
• Từ 0,25 mm thì bắt đầu có tính trương (giãn

nở) và tăng nhanh
• Tính co biểu hiện rất chậm và chỉ xuất hiện ở
những cấp hạt bé nhất
• Từ 0,25 mm xuất hiện tính dẻo và tăng dần
Sức chống nén và sức dính chỉ xuất hiện ở các
cấp hạt mịn hơn 0,01 mm và tăng nhanh.
Bảng 8.3 lần nữa chứng minh về mốc xuất hiện
các tính chất vật lý một cách đột ngột là mốc 1,0
mm và mốc 0,01 mm và cũng ở những mốc như
vậy các tính chất hoá lý của đất có sự thay đổi
nhất định.

×