294 ph.ăng-ghen
Bình luận về tập I bộ "t bản" 295
trong 784 trang sách và phàm là ai có mắt để nhìn thì đều thấy
rằng ở đây yêu cầu cách mạng xã hội đợc đặt ra rất rõ ràng. Vấn
đề đợc đặt ra tới đây không phải là thiết lập các hiệp hội công
nhân nằm trong tay t bản nhà nớc nh cố tác giả Lát-xan đã
nói, mà là xoá bỏ t bản nói chung.
Mác trớc sau bao giờ cũng vẫn luôn luôn là nhà cách mạng,
song trong tác phẩm khoa học, ông ít che giấu những quan điểm
đó của mình hơn bất kỳ ai khác. Nhng về vấn đề sau cách mạng
xã hội, sẽ là cái gì thì ông chỉ nói những nét chung nhất. Chúng
ta biết rằng đại công nghiệp "dẫn đến chỗ làm chín muồi những
mâu thuẫn và đối kháng của hình thức t bản chủ nghĩa của quá
trình sản xuất, và do đó đồng thời làm chín muồi cả những nhân
tố để hình thành xã hội mới và những nhân tố làm đảo lộn xã hội
cũ", và tiếp nữa, việc xoá bỏ hình thức t bản chủ nghĩa của sản
xuất "sẽ khôi phục sở hữu cá nhân trên cơ sở những thành tựu
của thời đại t bản chủ nghĩa: tức là trên cơ sở hợp tác của
những công nhân tự do và sự chiếm hữu chung ruộng đất và
những t liệu sản xuất do chính bản thân lao động sản xuất
ra"
194
.
Chúng ta đã chắc hẳn sẽ thỏa mãn với điểm đó và căn cứ vào
tập sách vừa xuất bản mà xét, chúng ta phải đi đến kết luận rằng
tập II và tập III của bộ sách này mà tác giả đã hứa sẽ cho xuất
bản cũng sẽ chỉ đem lại cho chúng ta ít điều về vấn đề lý thú này.
Lúc này chúng ta chắc hẳn bằng lòng với cuốn "Phê phán khoa
kinh tế chính trị", cuốn sách mở ra trớc mắt chúng ta một địa
hạt rất rộng lớn. Tất nhiên ở đây chúng tôi không thể đem
những kết luận tờng tận trong cuốn sách đồ sộ này ra tranh
luận khoa học, thậm chí chúng tôi cũng không thể thuật lại vắn
tắt thực chất của những nguyên lý cơ bản đợc nêu ra trong cuốn
sách. Tất cả những nguyên lý cơ bản đã đợc mọi ngời ít nhiều
biết đến của lý luận xã hội chủ nghĩa rút lại là: trong xã hội hiện
đại ngời công nhân không đợc đền bù lại đầy đủ giá trị sản
phẩm lao động của anh ta. Nguyên lý đó nh một sợi chỉ đỏ xuyên
suốt toàn bộ cuốn sách mà chúng ta đang nghiên cứu, song so với
từ trớc đến nay ở đây nó đợc xác định một cách chính xác hơn
nhiều, đợc nghiên cứu một cách triệt để hơn với tất cả những
kết luận rút ra từ nguyên lý đó, và đợc gắn liền chặt chẽ hơn
với những nguyên lý cơ bản của khoa kinh tế chính trị, hoặc đợc
đem đối lập với những nguyên lý đó một cách trực diện hơn.
Phần này của cuốn sách đó trội hơn rất nhiều so với tất cả những
tác phẩm tơng tự trớc đây mà chúng ta đã biết, ở chỗ nó cố
gắng đạt tới tính khoa học nghiêm ngặt và rõ ràng là tác giả có
thái độ nghiêm túc chẳng những đối với lý luận của mình, mà cả
đối với khoa học nói chung nữa.
Điều đặc biệt đập ngay vào mắt ta trong cuốn sách này là tác
giả xem xét các nguyên lý của khoa học kinh tế chính trị không
phải nh những chân lý vĩnh cửu giống nh xa nay ngời ta
vẫn thờng làm, mà nh kết quả của sự phát triển lịch sử nhất
định. Trong lúc ngay cả khoa học tự nhiên cũng ngày càng trở
thành khoa học lịch sử - chỉ cần nhắc lại lý luận thiên văn học
của La-pla-xơ, toàn bộ địa chất học và tác phẩm của Đác-uyn là
đủ, - thì môn kinh tế chính trị cho đến nay vẫn là một khoa học
trừu tợng và đại cơng nh toán học. Dù những luận đoán khác
trong cuốn sách này có gặp phải số phận nh thế nào đi nữa, thì
chúng tôi vẫn cho rằng công lao bất diệt của Mác là ông đã chấm
dứt cái quan niệm hạn chế đó. Với sự ra đời của tác phẩm này,
ngời ta sẽ không còn có thể không có sự phân biệt nào về mặt
kinh tế chẳng hạn giữa lao động của nô lệ, lao động của nông nô
với lao động làm thuê tự do; ngời ta sẽ không còn có thể bệ thẳng
những quy luật có hiệu lực đối với nền đại công nghiệp hiện đại -
có đặc trng là cạnh tranh tự do - vào những quan hệ của thời cổ
đại hoặc vào những phờng hội thời trung cổ hoặc nếu những
quy luật hiện đại đó không thích hợp với những quan hệ trớc
kia, ngời ta cũng sẽ không còn có thể chỉ cứ việc giản đơn tuyên
bố những quan hệ đó là dị đoan. Trong tất cả các dân tộc, ngời
Đức là những ngời có quan niệm lịch sử nhiều hơn cả, và có
Generated by Foxit PDF Creator â Foxit Software
For evaluation only.
296 ph.ăng-ghen
297
lẽ hầu nh chỉ có một mình họ là có quan niệm lịch sử, vì thế
cũng chính ngời Đức phát hiện ra những quan hệ lịch sử cả
trong lĩnh vực kinh tế chính trị học thì cũng là điều hợp lẽ tự
nhiên.
Do Ph.Ăng-ghen viết khoảng ngày 3 và
ngày 8 tháng Mời một 1867
Đã đăng trên tờ "D
ỹ
sseldorfer Zeitung" số
316, ngày 17 tháng Mời một 1867
In theo bản đăng trên báo
Nguyên văn là tiếng Đức
C.mác
Những hội viên của hội phê-ni-ăng
Bị giam giữ ở man-se-xtơ
Và Hội liên hiệp công nhân quốc tế
195
Phiên họp bất thờng của Tổng hội đồng Hội liên hiệp công
nhân quốc tế họp vào tối thứ t tại trụ sở của hội đồng, 16 I-xtơ
Ca-xơn Xtrít, Oe-xtơ, đang thông qua bức th sau đây:
"Th của Tổng hội đồng Hội liên hiệp công nhân quốc tế.
Kính gửi ngài bộ trởng Gây-toóc-nơ Hác-đi kính mến.
Trong bức th này, những đại biểu của các tổ chức công nhân
các nớc châu Âu ký tên dới đây tuyên bố:
Rằng việc hành quyết những tù nhân Ai-rơ-len bị kết án tử
hình tại Man-se-xtơ làm tổn hại rất nhiều cho ảnh hởng về tinh
thần của nớc Anh trên lục địa châu Âu. Việc hành quyết bốn tù
nhân dựa trên lời khai giả dối và sự kết án sai lầm, - việc ân xá
Mê-ghi-rơ chính thức xác nhận điều này, - mang tính chất
không phải là một hành vi t pháp mà là một sự trả thù chính
trị. Song cho dù, bản án của toà bồi thẩm Man-se-xtơ và lời khai
làm bằng cứ cho bản án này không bị chính bản thân Chính phủ
Anh chỉ trích thì hiện nay Chính phủ Anh cũng vẫn phải lựa
chọn giữa thực tiễn đẫm máu của châu Âu cũ và lòng nhân đạo
độ lợng của nớc cộng hoà trẻ tuổi ở bên kia đại dơng
196
.
Chúng tôi yêu cầu giảm nhẹ bản án. Việc giảm nhẹ bản án
Generated by Foxit PDF Creator â Foxit Software
For evaluation only.
298 c.mác
299
chẳng những là một hành vi công bằng mà còn là một hành vi
sáng suốt về chính trị nữa.
Theo uỷ nhiệm của Tổng Hội đồng Hội liên hiệp công nhân
Quốc tế:
Giôn Oét-xtơn, chủ tịch
R.Sô, bí th phụ trách liên lạc với Mỹ
Ơ-gien Đuy-pông, bí th phụ trách liên lạc với Pháp
Các Mác, bí th phụ trách liên lạc với Đức
Héc-man I-ung, bí th phụ trách liên lạc với Thụy Sĩ
Ph.La-phác-gơ, bí th phụ trách liên lạc với Tây Ban Nha
Gia-bi-xki, bí th phụ trách liên lạc với Ba Lan
Đéc-kin-đe-ren, bí th phụ trách liên lạc với Hà Lan
Be-xông, bí th phụ trách liên lạc với Bỉ
G-ếch-ca-ri-út, tổng bí th"
20 tháng Mời một 1867
Do C.Mác viết
Đã đăng trên báo "Le Courrier franỗais" số
163, ngày 24 tháng Mời một 1867
In theo bản sao bản thảo
do vợ Mác là Gien-ni Mác
chép lại
Nguyên văn là tiếng Anh
c.mác
những kẻ ăn cắp văn
197
Báo "Social Demokrat"
ngày 29 tháng Mời một.
Hội nghị toàn thể đoàn viên -
tổng liên đoàn công nhân
Đức
C.Mác. "T bản. Phê phán
khoa kinh tế chính trị".
1867. Chơng: "Ngày lao
động"
Cuộc thảo luận về ngày lao động
Phôn Hốp-stét-ten (chủ báo
"Social Demokrat") nói:
1) "Trong thời đại chúng ta, sức lao động
là hàng hóa Giá mua" (đáng lẽ phải nói:
giá trị) "của một vật phẩm nào đó" (đáng
lẽ phải nói hàng hóa)" là do thời gian lao
động cần thiết để sản xuất ra nó quyết
định. Ngời công nhân phải làm việc trong
một số giờ nhất định để tái sản xuất cái giá
trị mà anh ta đã nhận đợc nhờ bán sức
lao động của mình; đó là phần tất yếu của
ngày lao động nhng hoàn toàn không phải
là bản thân ngày lao động. Để xác định
ngày lao động cần" (vì sao?) "thêm vào đó
1) "Chúng tôi cho rằng sức lao
động đang bị đa ra mua bán theo
giá trị của nó. Giá trị này cũng
nh giá trị của mọi hàng hóa
khác, đợc xác định bởi thời gian
làm việc cần thiết để sản xuất ra
nó. Nh vậy nếu cần 6 giờ để sản
xuất ra các t liệu sinh sống cần
thiết cho ngời công nhân bình
quân một ngày, thì bình quân
ngời công nhân phải làm việc 6
giờ một ngày để hàng ngày sinh
Generated by Foxit PDF Creator â Foxit Software
For evaluation only.
300 c.mác
Những kẻ ăn cắp văn 301
phần không xác định; tuy phần này không
xác định nhng dù sao cũng có những giới
hạn tất yếu của nó".
ra sức lao động của mình, hoặc để
tái sản xuất giá trị mà họ đã nhận
đợc khi đem bán nó đi. Nh vậy
phần cần thiết trong ngày làm
việc của ngời công nhân là 6 giờ
và vì thế trong những điều kiện
nhất định khác, đó là đại lợng
dữ kiện. Nhng điều này cũng
cha xác định đợc đại lợng của
chính ngày làm việc
Thật ra, một phần ngày làm việc
của ngời công nhân đợc xác
định bởi thời gian làm việc cần
thiết để tái sản xuất thờng xuyên
chính ngày làm việc, nhng đại
lợng chung của nó biến đổi cùng
với độ dài, hoặc thời gian lao động
thặng d Nh vậy, ngày làm
việc không phải đại lợng tĩnh
mà là một đại lợng động; mặt
khác, dù sao nó cũng chỉ biến đổi
trong những giới hạn nhất định"
(tr.198, 199) [242, 243].
198
2) "Một" (giới hạn), "cụ thể là giới hạn tối
đa dựa trên khả năng thể chất" (làm sao
giới hạn lại có thể dựa vào khả năng
đợc!) "mà nói chung con ngời có thể
làm việc lâu bao nhiêu, vì muốn duy trì sự
sinh tồn của mình, anh ta cũng cần phải
ngủ, nghỉ ngơi, mặc quần áo và chăm lo vệ
sinh. Giới hạn tối thiểu đợc quyết định
bởi các yêu cầu phụ thuộc vào tình trạng
văn hoá nhất định của mỗi thời đại. Độ
dài của ngày lao động và của lao động thặng
2) "Song các giới hạn tối thiểu của
nó (ngày làm việc) không thể xác
định đợc. Thật ra nếu chúng ta
giả thiết rằng lao động thặng d
= 0, thì chúng ta có giới hạn tối
thiểu, tức là phần ngày mà ngời
công nhân cần phải làm việc để
duy trì sự sinh tồn của bản thân
mình. Nhng trong phơng pháp
sản xuất t bản chủ nghĩa lao
động cần thiết bao giờ cũng chỉ
d cũng khác nhau, tuỳ theo tình trạng
văn hoá đó và pháp luật hiện hành. Tơng
ứng với những cái đó chúng ta có ngày lao
động 8, 12, 16 và thậm chí 18 giờ".
gồm có phần ngày làm việc của
ngời công nhân, tức là ngày làm
việc không bao giờ có thể giảm
xuống đến mức tối thiểu này.
Song ngày làm việc còn có giới
hạn tối đa. Nó không thể kéo dài
quá giới hạn nhất định. Giới hạn
tối đa đợc xác định bởi hai điểm.
Thứ nhất, giới hạn thể chất của
sức lao động. Trong một ngày
đêm với thời gian tự nhiên bằng
24 giờ, con ngời chỉ có thể tiêu
phí một số lợng sức sống nhất
định và mức tiêu hao thể năng
này xác định mức thời gian làm
việc mà có thể ngời đó cho phép.
Một con ngựa chỉ có thể làm việc
8 giờ một ngày từ ngày này sang
ngày khác. Trong một phần ngày
đêm sức lực cần phải đợc nghỉ
ngơi, ngủ, trong một phần khác
của ngày đêm con ngời phải
thoả mãn những nhu cầu thân
thể khác nh ăn uống, vệ sinh,
mặc quần áo v.v Ngoài các giới
hạn thuần tuý thể chất này, ngày
làm việc còn gặp phải những giới
hạn tinh thần: ngời công nhân
cần phải có thời gian để thỏa mãn
các nhu cầu tinh thần và xã hội
mà khối lợng và số lợng đợc
xác định bởi tình trạng văn hoá
chung Song giống nh những
giới hạn khác (tức là các giới hạn
Generated by Foxit PDF Creator â Foxit Software
For evaluation only.
302 c.mác
Những kẻ ăn cắp văn 303
thể chất tối đa và tinh thần) các
giới hạn này cũng có tính đàn hồi
và đa lại những khả năng hết sức
to lớn. Ví dụ chúng ta thấy ngày
làm việc 8, 10, 12, 14, 16, 18 giờ"
(tr.199) [243 244].
Vì ăn cắp văn, ngài Phôn Hốp-stét-ten đã biến một đoạn
do ông ta vay mợn thành vô nghĩa. Ví dụ, theo ngài Phôn
Hốp-stét-ten giới hạn tối đa của ngày lao động là do những giới
hạn thuần tuý thể chất quyết định, còn giới hạn tối thiểu của nó
thì do những giới hạn tinh thần quyết định, mà ông ta lại nói
nh thế sau khi đã lặp lại nh một con vẹt điều tôi nói, rằng
phần tất yếu của ngày lao động, tức giới hạn tuyệt đối của ngày
lao động là do thời gian lao động cần thiết để duy trì sức lao
động quyết định.
3) "Kinh nghiệm của nớc Anh cho thấy
rằng trong một ngày lao động ngắn hơn
ngời ta cũng đạt đợc cùng một lao động
thặng d nh thế, vì trong tình hình đó
lao động trở nên khẩn trơng hơn nhiều".
3) Về việc đẩy mạnh lao động và
đạt đợc mức "lao động thặng d"
nh cũ hoặc còn lớn hơn nhờ luật
pháp cỡng bách rút ngắn ngày
làm việc ở Anh, xem các trang
401-409 [420-430].
4) "Nh vậy, các nhà t bản cố đặt cho
mình mục tiêu kéo dài ngày lao động càng
dài càng tốt". (Thật là vô nghĩa! Có đặt
mục tiêu!) "Nhng ngời công nhân chỉ có
một hàng hóa duy nhất là sức lao động
của mình và nếu vợt quá một điểm nhất
định trong sức lao động" (vợt quá một điểm
trong sức lao động nghĩa là gì?)" thì ngời
công nhân phải nói: tôi đã bị sử dụng(!),
tôi đã bị giết" (Hay thật! sau khi bị giết
anh ta vẫn cứ phải nói thế!) "Vì vậy" (vì
anh ta nói nh thế!) độ dài của lao động
4) "Nhà t bản thực hiện quyền
mua của mình khi họ cố kéo dài
hết mức ngày làm việc và, nếu có
thể, tạo một ngày thành hai ngày
làm việc. Mặt khác, bản chất đặc
biệt của mặt hàng đợc đem bán
sẽ ớc định giới hạn tiêu dùng của
ngời mua, và ngời công nhân
thực hiện quyền bán của mình khi
họ cố rút ngắn ngày làm việc đến
một mức bình thờng nhất định
Tôi muốn (ngời công nhân nói)
phải đợc xác định vì lợi ích của ngời
công nhân để cho hàng hóa này, tức là sức
lao động, đợc duy trì và đợc sử dụng
càng lâu dài càng tốt. Làm nh vậy ngời
công nhân chỉ đòi thực hiện quyền lợi tất
nhiên của mình" (anh ta vừa mới phàn
nàn là đã bị sử dụng, vậy mà lúc này lại
đòi hỏi đợc ngời ta sử dụng, coi đó là
một quyền lợi tất nhiên!)
bảo vệ tài sản duy nhất của mình
là sức lao động Sử dụng sức lao
động của tôi và biển thủ nó - là
những vấn đề hoàn toàn khác
biệt Anh trả tiền công sức lao
động một ngày của tôi, nhng đòi
hỏi làm ba ngày. Điều đó mâu
thuẫn với bản hợp đồng của chúng
ta và luật trao đổi hàng hóa. Vì
thế, tôi đòi hỏi ngày làm việc phải
có thời hạn bình thờng v.v "
(tr.202,201) [246, 245].
5) "ở nớc Anh luật pháp đã ấn định đại
lợng này" (ngày lao động) "là 10 giờ (!),
và ở đó có những viên thanh tra công
nghiệp báo cáo cho bộ biết tình hình thi
hành luật pháp này. ở nhiều nớc cũng có
những luật hạn chế lao động của trẻ em: ở
áo, Thụy Sĩ, Mỹ và ở Bỉ (!) các đạo luật
tơng tự đang đợc thảo ra. ở Phổ cũng có
những luật tơng tự, nh ở đây chúng chỉ
tồn tại trên giấy và không bao giờ đợc
tuân thủ. ở Mỹ khi kết thúc cuộc chiến
tranh đa đến sự giải phóng nô lệ, ngời
ta đã đa ra yêu sách đòi ngày lao động
tám giờ." Đại hội của Hội liên hiệp công
nhân Quốc tế" năm 1866 cũng đề nghị
ngày lao động tám giờ".
5) "Luật công nghiệp năm 1850
hiện đang đợc thi hành (không
phải ở Anh, mà ở một số ngành
công nghiệp do Mác liệt kê ra
thuộc Vơng quốc liên hiệp) đã ấn
định ngày làm việc trung bình
hàng tuần là 10 giờ Có những
nhân viên kiểm soát đặc biệt
chuyên theo dõi việc thi hành luật
pháp, những viên thanh tra công
nghiệp trực thuộc Bộ nội vụ, cứ
nửa năm nghị viện sẽ đăng các
báo cáo của họ (tr.207) [251].
ở một số bang Bắc Mỹ đang
thực hiện rút ngắn ngày làm việc
cho trẻ em (tr.244) [281], rút ngắn
ngày làm việc ở toàn bộ nớc
Pháp (tr.251) [286] cho trẻ em ở
một số tổng của Thụy Sĩ (tr.251)
[286], ở áo (tr.252) [286], ở Bỉ
không có một luật pháp nào nh
vậy (trang vừa dẫn). ở Liên
bang
Generated by Foxit PDF Creator â Foxit Software
For evaluation only.
304 c.mác
305
Bắc Mỹ mọi phong trào độc lập
của công nhân đều bị tê liệt trong
khi chế độ nô lệ đang tàn phá
phần đất này của nớc cộng hòa
Nhng chế độ nô lệ bị diệt vong đã
lập tức khai sinh cuộc sống mới
tơi trẻ. Thành quả đầu tiên của
cuộc Nội chiến và việc kêu gọi thực
hiện ngày làm việc tám giờ Đồng
thời đại hội của Hội công nhân
Quốc tế cũng đã quyết định:
"Chúng tôi đề nghị luật pháp hạn
chế ngày làm việc trong 8 giờ"
(tr.279 - 280) [309, 310].
Giống nh ông Phôn Hốp-stét-ten, diễn giả tiếp lời ông ta là
ông Gây-bơ ở Hăm-buốc, cũng xuyên tạc lịch sử luật công xởng
ở Anh do Mác trình bày. Cả hai ngời cùng cố tình nh nhau lờ
đi không nhắc đến ngọn nguồn sự thông thái của họ.
Do C.Mác viết ngày 6 tháng Chạp 1867
Đã đăng trong phụ trơng báo "Die
Zukunft" số 291, ngày 12 tháng Chạp 1867
In theo bản đăng trên báo
Nguyên văn là tiếng Đức
Ph.Ăng-ghen
Bình luận về tập I
Bộ "t bản" của c.mác
viết cho báo "beobachter"
199
các mác. t bản. phê phán
khoa kinh tế chính trị. tập i.
hăm-buốc, mai-xnơ, 1867
1*
Dù có thái độ nh thế nào đi nữa đối với khuynh hớng của
cuốn sách này, chúng ta vẫn thấy mình có đủ căn cứ để nói rằng
cuốn sách đó thuộc số những tác phẩm làm vẻ vang cho tinh
thần Đức. Điều đáng chú ý là tác giả tuy là một ngời Phổ nhng
là một ngời Phổ vùng Ranh mà những ngời Phổ vùng Ranh
cách đây không lâu vẫn còn thích gọi mình là "những ngời Phổ
bất đắc dĩ", hơn nữa trong mời năm vừa qua tác giả lại bị trục
xuất, phải sống xa nớc Phổ. Bản thân nớc Phổ từ lâu đã không
còn là một nớc có bất kỳ một sáng kiến khoa học nào, đặc biệt
là một sáng kiến nh vậy trong lĩnh vực lịch sử, chính trị hoặc
xã hội không thể có đợc ở nớc này. Về nớc Phổ, đúng ra, có
thể nói rằng nớc Phổ là đại biểu của tinh thần Nga chứ không
phải của tinh thần Phổ.
_____________________________________________________________________________________________
1* Karl Marx. Das Kapital. Kritik der politischen Oekonomie. Erster Band. Hamburg.
Meissner, 1867.
Generated by Foxit PDF Creator â Foxit Software
For evaluation only.
306 ph.ăng-ghen
Bình luận về tập I bộ "t bản" 307
Còn về bản thân cuốn sách thì ta cần phân biệt rõ ràng hai
yếu tố rất khác nhau của nó: thứ nhất sự trình bày một cách
tuyệt vời chính diện vấn đề và thứ hai, khuynh hớng của các
kết luận mà tác giả rút ra từ sự trình bày đó. Phần lớn điều thứ
nhất trực tiếp làm phong phú thêm cho khoa học. ở đây tác giả
dùng một phơng pháp hoàn toàn mới, duy vật chủ nghĩa, lịch sử
tự nhiên để xem xét các quan hệ kinh tế. Chẳng hạn, việc trình
bày vấn đề tiền cũng nh việc nghiên cứu cặn kẽ - với sự am
hiểu uyên thâm - vấn đề những hình thức khác nhau kế tiếp
nhau của sản xuất công nghiệp - ở đây là hiệp tác, phân công lao
động và cùng với phân công lao động là công trờng thủ công
hiểu theo nghĩa hẹp và cuối cùng là máy móc, đại công nghiệp và
các mối liên hệ và quan hệ xã hội tơng ứng với nó - hình thức
này đã phát triển một cách tự nhiên từ hình thức kia lên nh thế
nào.
Còn về khuynh hớng của tác giả thì chúng ta có thể phân
biệt đợc hai hớng trong khuynh hớng này. Trong chừng mực
tác giả cố gắng chứng minh rằng xã hội hiện nay xét về phơng
diện kinh tế, chứa đựng một hình thái xã hội khác cao hơn, trong
lĩnh vực các quan hệ xã hội ông cố gắng chỉ xác lập thành quy
luật chính quá trình cải biến dần dần mà Đác-uyn đã xác lập
trong lĩnh vực lịch sử tự nhiên. Sự biến đổi dần dần nh thế thực
ra từ xa đến nay vẫn diễn ra trong các quan hệ xã hội, từ thời
thợng cổ qua suốt thời kỳ trung cổ cho đến tận ngày nay, và
theo chỗ chúng ta biết trong khoa học cha bao giờ có ai khẳng
định nghiêm túc rằng A-đam Xmít và Ri-các-đô đã nói lên kết
luận cuối cùng về sự phát triển tơng lai của xã hội hiện đại.
Trái lại, học thuyết của phái tự do về tiến bộ cũng bao hàm cả
tiến bộ về mặt xã hội và chỉ có những ngời gọi là xã hội chủ
nghĩa thích nghịch biện ngông cuồng mới miêu tả sự việc tựa hồ
nh chỉ có họ mới hoàn toàn chi phối đợc tiến bộ xã hội. Cần
phải thừa nhận rằng công lao của Mác so với những ngời xã hội
chủ nghĩa bình thờng là ông đã chỉ ra rằng ngay cả ở nơi mà sự
phát triển cực kỳ phiến diện của những điều kiện hiện nay đi
liền với những hậu quả trực tiếp khủng khiếp cũng có tiến bộ.
Ta có thể thấy điều đó ở khắp mọi chỗ miêu tả những sự tơng
phản - do toàn bộ chế độ công xởng đẻ ra, - giữa sự giàu có với
sự nghèo khổ v.v Chính nhờ quan niệm có tính chất phê phán
đó đối với vấn đề, tác giả đã đa ra đợc - chắc chắn là trái với ý
muốn của ông, - những luận cứ đanh thép nhất chống lại mọi
chủ nghĩa xã hội quan phơng [Sozialismus von Fach].
Còn đối với những khuynh hớng, những kết luận chủ quan
của tác giả, đối với cái cách tác giả hình dung và trình bày kết
quả cuối cùng của quá trình phát triển xã hội hiện nay thì lại
hoàn toàn khác. Chúng chẳng giống tý nào với cái mà chúng ta
gọi là phần chính diện của cuốn sách. Nếu có chỗ nào đó cho
phép nói về điểm này, thì có lẽ có thể chỉ rõ rằng những ý tởng
chủ quan đó của tác giả bị ngay sự trình bày khách quan của
chính ông bác bỏ.
Nếu toàn bộ chủ nghĩa xã hội của Lát-xan là thóa mạ các nhà
t bản và phỉnh nịnh bọn địa chủ quý tộc Phổ hủ lậu thì ở đây
chúng ta thấy điều hoàn toàn ngợc lại. Ông Mác chỉ ra một cách
rõ ràng tính tất yếu lịch sử của phơng thức sản xuất t bản chủ
nghĩa - ông gọi giai đoạn xã hội hiện nay là nh vậy, - và ông
cũng chỉ ra một cách rõ ràng nh thế sự vô dụng của tầng lớp địa
chủ quý tộc chiếm hữu ruộng đất chỉ tiêu dùng mà thôi. Nếu Lát-xan
mang đầy ảo tởng về sứ mệnh của Bi-xmác là xây dựng vơng
quốc nghìn năm xã hội chủ nghĩa thì ông Mác vạch mặt khá rõ
ràng ngời học trò bất thành của ông. Ông không những tuyên
bố một cách rõ ràng rằng ông chẳng có gì chung với toàn bộ cái
"chủ nghĩa xã hội của chính phủ Vơng quốc Phổ" mà ông còn
nói ở trang 762 và các trang tiếp theo rằng các chế độ hiện nay
đang thống trị ở Pháp và ở Phổ chẳng bao lâu nữa sẽ dẫn tới sự
thống trị của cái dùi cui Nga đối với châu Âu nếu không kịp thời
chấm dứt chế độ đó.
Để kết luận chúng tôi xin nói rằng ở đây chúng tôi chỉ có thể
lu ý đến những luận điểm chính của tập sách đồ sộ này; nếu
Generated by Foxit PDF Creator â Foxit Software
For evaluation only.
308 ph.ăng-ghen
309
phân tích một cách chi tiết còn có thể nêu lên nhiều điều nữa
mà ở đây chúng tôi buộc phải bỏ qua. Nhng để thực hiện mục
đích đó, đã có những tạp chí khá chuyên môn rồi; những tạp chí
này chắc chắn sẽ bàn một cách cặn kẽ về tác phẩm vô cùng kiệt
xuất này.
Do Ph.Ăng-ghen viết ngày 12-13 tháng
Chạp 1867
Đã đăng trên báo "Der Beobachter" số 303,
ngày 27 tháng Chạp 1867
In theo bản thảo
Nguyên văn là tiếng Đức
Ph.Ăng-ghen
Bình luận về tập I
Bộ "t bản" của c.mác viết cho báo
"gewerbeblatt aus wĩrttemberg"
200
các mác. t bản.
phê phán khoa kinh tế chính trị. tập i.
hăm-buốc, mai-xnơ, 1867
1*
Nếu chúng ta lu ý đến cuốn sách này thì hoàn toàn không
phải vì khuynh hớng xã hội chủ nghĩa đặc thù mà tác giả công
khai nói rõ ngay trong lời tựa.
Chúng ta lu ý đến nó vì cuốn sách này, không kể là khuynh
hớng của nó nh thế nào, chứa đựng những nghiên cứu khoa
học và tài liệu thực tế, đáng đợc hết sức chú ý. ở đây chúng ta
sẽ không nghiên cứu phơng diện khoa học của cuốn sách vì điều
đó không phải là nhiệm vụ chúng ta đề ra cho bài này, mà chỉ
nghiên cứu phơng diện thực tế của nó thôi.
Chúng tôi không nghĩ rằng có một tác phẩm nào khác bằng
tiếng Đức hoặc tiếng nớc ngoài phân tích đợc một cách rõ ràng
và đầy đủ những đặc trng cơ bản của lịch sử công nghiệp cận
đại từ thời trung cổ cho đến ngày nay nh cuốn sách này đã làm
_____________________________________________________________________________________________
1* Karl Marx. Das Kapital. Kritik der politischen Oekonomie. Erster Band. Hamburg.
Meissner, 1867.
Generated by Foxit PDF Creator â Foxit Software
For evaluation only.
310 ph.ăng-ghen
Bình luận về tập I bộ "t bản" 311
đợc trong ba chơng từ tr.302-495, hiệp tác, công trờng thủ
công và đại công nghiệp. ở đây, mỗi phơng diện riêng biệt của
tiến bộ công nghiệp đều đợc dành cho một vị trí chính trị thích
đáng tùy theo công lao của nó và dù cho xu hớng đặc thù có bộc
lộ ở đâu đó chăng nữa, thì ngời ta vẫn phải công nhận rằng
không có chỗ nào tác giả đem khuôn thực tế cho khớp với lý luận
của mình, mà trái lại tác giả cố gắng trình bày lý luận của mình
nh là kết quả của thực tế. Những thực tế đó bao giờ tác giả
cũng lấy từ những nguồn đáng tin cậy nhất và về thời kỳ hiện
đại thì tác giả lấy từ những nguồn chính gốc và hiện nay ở Đức
ngời ta cha biết: từ các báo cáo của nghị viện Anh. Những nhà
kinh doanh Đức nào xem xét hoạt động công nghiệp của mình
chẳng những dới góc độ lờ lãi, mà nh là một mắt xích quan
trọng trong toàn bộ sự phát triển to lớn của công nghiệp hiện
nay, của tất cả các nớc và do đó cũng quan tâm đến cả những
cái không trực tiếp liên quan đến ngành của họ, sẽ tìm thấy ở
đây một nguồn phong phú và bổ ích và sẽ cảm ơn chúng tôi về
việc chúng tôi đã làm cho họ lu ý đến cái nguồn đó. Đã lâu rồi
cái thời đại mà mỗi ngành kinh tế tồn tại tự nó, biệt lập và bình
yên, giờ đây tất cả các ngành kinh tế đều phụ thuộc lẫn nhau,
phụ thuộc vào tiến bộ trong những nớc xa nhất cũng nh tiến
bộ trong nớc ở ngay sát cạnh, và cũng phụ thuộc vào tình hình
thị trờng thế giới luôn biến động. Và nếu những hiệp ớc mới
của Liên minh thuế quan
201
nhanh chóng dẫn tới chỗ giảm thuế
quan bảo hộ trớc kia nh ta có thể mong đợi thì tất cả các chủ
nhà máy của chúng ta sẽ cần phải tìm hiểu về đại thể lịch sử
công nghiệp hiện đại để biết trớc phải xử sự ra sao khi có
những biến đổi nh vậy. Trình độ học vấn cao hơn từ trớc đến
nay đã luôn luôn cứu ngời Đức chúng ta, mặc dù chúng ta bị
phân tán về chính trị; trong trờng hợp này trình độ học vấn cao
hơn sẽ là vũ khí tốt nhất mà chúng ta có thể dùng để chống lại
những ngời Anh duy vật thô lỗ.
Điều trên đây dẫn chúng ta tới một vấn đề khác. Khi có luật
mới của Liên minh thuế quan thì chắc chắn chẳng bao lâu sẽ đến
lúc mà trong các quốc gia thành viên của liên minh, chính các
chủ nhà máy đòi hỏi phải quy định nh nhau thời gian lao động
trong các nhà máy. Rõ ràng sẽ là bất công nếu chỉ riêng trong
một mình nớc Đức, thời gian lao động, đặc biệt là thời gian lao
động của trẻ em và phụ nữ, hoàn toàn phụ thuộc vào ý muốn của
chủ nhà máy trong khi ở nớc khác nó bị hạn chế đáng kể. Vị tất
có thể không cần có hiệp nghị về các quy chế chung trong vấn đề
này, đặc biệt là nếu thuế quan bảo hộ thật sự đợc giảm bớt.
Nhng về phơng diện này, ở nớc Đức chúng ta hoàn toàn cha
có đủ kinh nghiệm, hoặc thậm chí có thể nói rằng chúng ta hoàn
toàn chẳng có tý kinh nghiệm gì và buộc phải chỉ hạn chế ở
những bài học có thể rút ra đợc từ luật pháp của các nớc
khác, đặc biệt là của nớc Anh và từ những hậu quả của pháp
luật đó. Và ở đây tác giả đã giúp đỡ rất nhiều cho nền công
nghiệp Đức qua việc ông trình bày một cách hết sức cặn kẽ lịch
sử luật công xởng của nớc Anh và những kết quả của nó trên cơ
sở những văn kiện chính thức (xem tr.207-281, 399-496 [353-440,
587-716] và nhiều đoạn sau đó). ở nớc Đức, ngời ta hầu nh
hoàn toàn không biết toàn bộ phơng diện đó của lịch sử công
nghiệp Anh và độc giả sẽ ngạc nhiên khi biết rằng sau khi pháp
lệnh của nghị viện năm nay đặt ít nhất là 1ẵ triệu công nhân
dới sự kiểm soát của chính phủ, giờ đây chẳng những hầu nh
toàn bộ lao động công nghiệp mà cả đại bộ phận lao động trong
công nghiệp gia đình cũng nh một phần lao động nông nghiệp ở
Anh phải chịu sự giám sát của các quan chức và thời gian lao
động bị hạn chế trực tiếp hay gián tiếp. Chúng tôi kêu gọi các
chủ nhà máy ở nớc ta đừng sợ khuynh hớng của cuốn sách và
hãy nghiên cứu một cách nghiêm túc, đặc biệt là phần đó của
cuốn sách; không nghi ngờ gì hết, sớm hay muộn chính vấn đề đó
sẽ đợc đặt ra cả trớc các ngài nữa!
Do Ph.Ăng-ghen viết ngày 12-13 tháng
Chạp 1867
Đã đăng trên báo "Gewerbeblatt aus
W
ỹ
rttemberg" số 306, ngày 27 tháng Chạp
1867
In theo bản thảo
Nguyên văn là tiếng Đức
Generated by Foxit PDF Creator â Foxit Software
For evaluation only.
312 ph.ăng-ghen
Bình luận về tập I bộ "t bản" 313
Ph.Ăng-ghen
Bình luận về tập I Bộ "t bản"
của c.mác viết cho báo
"neue badische landeszeitung"
202
các mác. t bản.
phê phán khoa kinh tế chính trị. tập i.
hăm-buốc, mai-xnơ, 1867
1*
Chúng tôi xin nhờng cho những ngời khác nghiên cứu phơng
diện lý luận và khoa học thuần tuý của tác phẩm này và phê phán
quan điểm mới của tác giả về nguồn gốc của t bản. Song chúng
tôi không thể không lu ý đến điều này: tác giả đồng thời cũng
giới thiệu với chúng ta một khối lợng khổng lồ tài liệu lịch sử
và thống kê hết sức có giá trị, hầu nh hoàn toàn đợc lấy từ
những báo cáo chính thức của các uỷ ban đệ trình Nghị viện
Anh. Tác giả nhấn mạnh một cách không phải không có căn cứ
tầm quan trọng của những uỷ ban điều tra nh vậy đối với việc
nghiên cứu tình hình xã hội bên trong của bất cứ nớc nào. Những
uỷ ban nh vậy, - tất nhiên là nếu trong đó có những ngời xứng
đáng, - là phơng tiện tốt nhất để nhân dân biết về chính mình
và ông Mác vị tất không có lý khi ông nói rằng những cuộc điều
_____________________________________________________________________________________________
1* Karl Marx. Das Kapital. Kritik der politischen Oekonomie. Erster Band. Hamburg.
Meissner, 1867.
tra nh vậy nếu đợc tiến hành ở Đức sẽ đem lại những kết quả
khiến chúng ta cũng phải khiếp đảm. Thì trớc khi có những báo
cáo của các uỷ ban đó, có ngời Anh nào biết đợc những giai cấp
nghèo khổ nhất ở nớc họ sống ra sao đâu! Đơng nhiên điều dễ
hiểu là nếu không có những cuộc điều tra nh vậy thì bất cứ
pháp lệnh nào về xã hội, nh ở Ba-va-ri ngời ta quen gọi cái đó
là nh thế, cũng đều chỉ đợc ban hành một cách rất thiếu hiểu
biết và thờng là hoàn toàn mò mẫm. Những cái gọi là "thống
kê" và "điều tra" do các cơ quan của Chính phủ Đức tiến hành,
xét về mặt giá trị của chúng, hoàn toàn chẳng giống tí nào với
những số liệu của các uỷ ban đó. Chúng ta biết quá rõ cái lối rập
khuôn quan liêu: ngời ta gửi các biểu mẫu đi các nơi, rồi chúng
đợc điền vào thế nào cũng mặc và gửi về, thế là đợc; những
thông tin để điền vào các biểu mẫu đó, thì ngời ra rất thờng
hay lấy ở chính những ngời mà việc che dấu sự thật lại có lợi
cho họ. Những cuộc điều tra của các ủy ban ở nớc Anh, ví dụ,
những cuộc điều tra về điều kiện lao động trong các ngành công
nghiệp riêng biệt thì ngợc lại, ở đây ngời ta chẳng những nghe
ý kiến của các chủ xởng và các đốc công mà còn nghe cả ý kiến
của công nhân, cho đến cả ý kiến của các thiếu nữ ít tuổi, và
ngời ta chẳng những hỏi ý kiến những ngời kể trên mà còn hỏi
ý kiến cả những thầy thuốc, những thẩm phán hoà giải, những
nhà tu hành, những thầy giáo và nói chung tất cả những ngời
có thể cung cấp những thông tin nào đó về một vấn đề nhất định.
Đã vậy, mỗi câu hỏi và mỗi câu trả lời đều đợc ghi tốc ký, đợc
in đúng từng chữ và đợc đính kèm vào toàn bộ tài liệu đợc
dùng làm căn cứ cho báo cáo của uỷ ban trong đó có nêu các kết
luận và các kiến nghị của uỷ ban. Nh vậy, bản báo cáo và các
tài liệu kèm theo báo cáo đồng thời cũng cho ta thấy một cách
hết sức cặn kẽ các thành viên của uỷ ban có hoàn thành nhiệm
vụ của mình hay không và hoàn thành nh thế nào; ngoài ra nó
còn làm cho một số thành viên uỷ ban khó có thái độ thiên lệch
đối với việc này. Ta có thể tìm thấy trong cuốn sách kể trên
Generated by Foxit PDF Creator â Foxit Software
For evaluation only.
314 ph.ăng-ghen
Bình luận về tập I bộ "t bản" 315
những chi tiết về điều đó cũng nh vô số ví dụ. ở đây, chúng tôi
chỉ muốn nhấn mạnh một điểm thôi, cụ thể là ở Anh đi đôi với việc
mở rộng tự do thơng mại và công nghiệp là việc mở rộng sự hạn
chế do pháp luật ấn định đối với ngày lao động của trẻ em và phụ
nữ và do đó hầu hết các ngành công nghiệp đều đợc đặt dới sự
giám sát của chính phủ. Ông Mác trình bày với chúng ta sự phát
triển đó một cách cặn kẽ về mặt lịch sử khi ông chỉ ra rằng thoạt
đầu vào năm 1833 ngày lao động tại các xí nghiệp kéo sợi và dệt
vải đã bị hạn chế ở 12 giờ bằng cách đó; rằng sau cuộc đấu tranh
lâu dài giữa các chủ nhà máy và công nhân, cuối cùng, ngày lao
động đã đợc quy định là 10ẵ giờ và 6ẵ giờ đối với trẻ em; rằng từ
năm 1850 trở đi hết ngành công nghiệp này đến ngành công
nghiệp khác bị đặt dới sự chi phối của đạo luật công xởng đó:
thoạt đầu là các nhà máy in hoa vải (từ năm 1845), rồi từ năm
1860 là các xởng nhuộm, các xởng tẩy sợi, từ năm 1861 là các
nhà máy dệt đăng-ten và các nhà máy dệt bít tất, từ năm 1863 là
ngành đồ gốm, các nhà máy sản xuất giấy dán tờng nhà v.v. và
cuối cùng từ năm 1867 là hầu hết các ngành công nghiệp quan
trọng đôi chút còn lại. Ta có thể đánh giá tầm quan trọng của đạo
luật sau cùng này, tức đạo luật năm 1867, qua sự việc là nó đặt
lao động của ít nhất là một triệu rỡi phụ nữ và trẻ em dới sự
bảo vệ và kiểm soát của pháp luật. Chúng tôi đặc biệt nhấn mạnh
điểm đó vì ở nớc Đức chúng ta đáng tiếc là về phơng diện này
nhìn chung tình hình quá tồi tệ và chúng tôi phải cảm ơn tác giả
về việc ông đã nghiên cứu vấn đề này một cách cặn kẽ và ông là
ngời đầu tiên đã làm cho vấn đề này trở nên dễ hiểu đối với công
chúng Đức. Mọi ngời nhân đạo đều sẽ có ý kiến nh thế, dù họ có
thái độ nh thế nào đối với những luận điểm lý luận của ông Mác.
Bài này không thể phân tích những tài liệu quý giá khác về
lịch sử công nghiệp và nông nghiệp nhng theo quan điểm của
chúng tôi bất kỳ ai quan tâm đến môn kinh tế chính trị, công
nghiệp, tình cảnh của công nhân, lịch sử văn hoá và luật lao động,
dù đứng trên quan điểm nào đi nữa cũng đều không thể không đọc
cuốn sách này.
Do Ph.Ăng-ghen viết trong nửa đầu tháng
Giêng 1868
Đã đăng trên báo "Neue Badische
Landeszeitung" số 20, ngày 21 tháng Giêng
1868
In theo bản đăng trên báo
Nguyên văn là tiếng Đức
Generated by Foxit PDF Creator â Foxit Software
For evaluation only.
Bình luận về tập I bộ "t bản" 317
Ph.Ăng-ghen
Bình luận về tập I Bộ "t bản"
của c.mác viết cho báo
"demokratisches wochenblatt "
203
bộ "t bản" của mác
1*
I
Từ khi trên thế giới có các nhà t bản và công nhân, cha hề
thấy xuất hiện một cuốn sách nào có tầm quan trọng đối với
công nhân nh cuốn sách này. Quan hệ giữa t bản và lao động,
tức là cái trục mà toàn bộ chế độ xã hội hiện nay của chúng ta
đang xoay quanh, lần đầu tiên đã đợc nghiên cứu một cách
khoa học trong tác phẩm đó, hơn nữa là với một sự sâu sắc và sắc
bén mà chỉ có một ngời Đức mới làm nổi thôi. Dù những tác
_____________________________________________________________________________________________
1* Das Kapital. Kritik der politischen Oekonomie , von Karl Marx. Erster Band.
Der Produktionsproze des Kapitals. Hamburg. O.Meissner, 1867.
phẩm của Ô-oen, Xanh-xi-mông, Phu-ri-ê có quý báu và sau này
vẫn còn quý báu đến đâu chăng nữa, nhng cũng chỉ có một
ngời Đức là đạt tới đỉnh cao mà từ trên đó, ngời ta có thể nhìn
bao quát đợc một cách rõ ràng và cụ thể toàn bộ lĩnh vực những
quan hệ xã hội hiện đại, cũng giống nh trớc mắt, ngời ngắm
cảnh đứng trên một đỉnh cao nhất, thì những cảnh núi non thấp
hơn đều hiện rõ ra.
Khoa kinh tế chính trị từ trớc đến nay vẫn dạy chúng ta
rằng lao động là nguồn gốc của mọi của cải và là thớc đo tất cả
mọi giá trị, thành thử hai vật phẩm mà việc sản xuất đòi hỏi
phải tổn phí một thời gian lao động nh nhau thì cũng đều có
một giá trị nh nhau, và vì nói chung chỉ những giá trị bằng
nhau mới có thể trao đổi với nhau, cho nên những vật phẩm đó
cũng cần phải đợc trao đổi với nhau. Nhng đồng thời khoa kinh
tế chính trị cũng lại dạy rằng có một loại lao động tích luỹ đặc
biệt mà khoa đó gọi là t bản; rằng nhờ những nguồn phụ chứa
đựng trong nó, t bản đó nâng cao năng suất của lao động sống
lên gấp trăm, gấp nghìn lần và vì thế đòi hỏi phải có một sự đền
bù nào đó mà ngời ta gọi là lợi nhuận. Nh tất cả chúng ta đều
biết, trong thực tế, sự việc đã diễn ra nh sau: những lợi nhuận
của lao động đã tích luỹ, lao động chết, thì ngày càng lớn, những
t bản của các nhà t bản ngày càng khổng lồ, trong khi đó tiền công
của lao động sống thì ngày càng nhỏ, và số công nhân chỉ sống
bằng tiền công ngày càng đông đảo hơn và nghèo khổ hơn. Vậy
giải quyết mâu thuẫn đó nh thế nào? nếu công nhân nhận đợc
toàn bộ giá trị lao động mà họ đã bỏ vào sản phẩm của họ, thì lợi
nhuận cho nhà t bản lấy ở đâu ra? Nhng vì chỉ có những giá trị
bằng nhau mới trao đổi đợc với nhau, cho nên ở đây cũng phải
nh vậy. Mặt khác, làm thế nào mà những giá trị bằng nhau lại
có thể đem trao đổi với nhau, làm thế nào mà ngời công nhân
lại có thể nhận đợc toàn bộ giá trị của sản phẩm của mình nếu
- nh nhiều nhà kinh tế chính trị học đã thừa nhận - một khi
sản phẩm đó đợc đem phân chia giữa họ và nhà t bản? Khoa
kinh tế chính trị trớc kia vẫn chịu bó tay trớc mâu thuẫn đó,
nó
Generated by Foxit PDF Creator â Foxit Software
For evaluation only.
318 ph.ăng-ghen
Bình luận về tập I bộ "t bản" 319
viết hoặc ấp úng đa ra những câu chẳng nói lên điều gì cả.
Ngay cả những nhà phê bình khoa kinh tế chính trị học theo lập
trờng xã hội chủ nghĩa, cho đến nay cũng vẫn không thể làm
đợc điều gì khác hơn là chỉ nêu mâu thuẫn đó lên thôi; cha có
một ngời nào giải quyết đợc mâu thuẫn đó, cho mãi đến khi,
cuối cùng, Mác lần theo quá trình hình thành của lợi nhuận ấy
lên tận nguồn gốc của nó và do đó làm cho toàn bộ vấn đề hoàn
toàn sáng tỏ.
Khi nghiên cứu t bản, Mác xuất phát từ sự thật giản đơn ai
cũng biết là các nhà t bản làm cho t bản của họ tăng thêm giá
trị thông qua việc trao đổi: họ đem tiền của họ ra mua hàng hóa
rồi sau đó đem bán lại hàng hóa ấy lấy một số tiền nhiều hơn số
đã tốn kém cho họ. Ví dụ, một nhà t bản mua bông với 1000
ta-le, đem bán lại số bông ấy lấy 1100 ta-le, và nh vậy là "kiếm
đợc" 100 ta-le. Chính số tiền 100 ta-le dôi ra đó so với số vốn
lúc ban đầu là cái mà Mác gọi là giá trị thặng d. Giá trị thặng
d đó do đâu mà ra? Theo giả thiết của các nhà kinh tế học, chỉ
những giá trị bằng nhau mới trao đổi đợc với nhau, và xét theo
quan điểm lý luận trừu tợng điều ấy là đúng. Do đó, việc mua
bông và việc bán lại số bông ấy không thể đem lại giá trị thặng
d, cũng giống nh việc đem đổi một đồng ta-le bằng bạc lấy 30
đồng din-béc grô-sen, rồi lại đổi số tiền lẻ đó lấy đồng ta-le bằng
bạc - sự trao đổi nh thế không làm cho ngời ta giàu lên mà
cũng không làm cho ngời ta nghèo đi. Giá trị thặng d cũng
không thể xuất hiện do chỗ ngời bán đã bán hàng hóa cao hơn
giá trị của nó, hay ngời mua đã mua hàng hóa thấp hơn giá trị
của nó, vì mỗi ngời trong bọn họ đều lần lợt khi thì làm ngời
mua, khi làm ngời bán, và do đó cái mà trong một trờng hợp
họ bị mất đi thì trong trờng hợp khác họ lại đợc lại. Giá trị
thặng d cũng không thể xuất hiện do chỗ những ngời mua và
ngời bán lừa bịp lẫn nhau, bởi vì điều đó sẽ không sản sinh ra
giá trị mới hay giá trị thặng d nào cả, mà chỉ phân phối lại
số t bản hiện có giữa các nhà t bản một cách khác đi thôi.
Mặc dầu nhà t bản mua hàng hóa theo giá trị của chúng và
bán lại hàng hóa theo giá trị của chúng, nhng hắn ta vẫn
rút ra đợc nhiều giá trị hơn là số mà hắn đã bỏ ra. Vậy thì điều
đó diễn ra nh thế nào?
Trong những quan hệ xã hội hiện nay, nhà t bản tìm thấy
trên thị trờng hàng hóa một thứ hàng hóa có cái đặc tính là:
việc tiêu dùng nó là một nguồn sinh ra giá trị mới, là sự sáng tạo
ra một giá trị mới, và hàng hóa đó chính là sức lao động.
Giá trị của sức lao động là gì? Giá trị của mỗi hàng hóa đợc
đo bằng số lao động cần thiết để sản xuất ra hàng hóa đó. Sức
lao động tồn tại dới hình thức một ngời công nhân đang sống,
ngời công nhân đó cần đến một số lợng t liệu sinh hoạt nhất
định để sinh sống cũng nh để nuôi sống gia đình mình, gia đình
này đảm bảo cho sức lao động tiếp tục tồn tại ngay cả sau khi
ngời công nhân chết. Vậy số thời gian lao động cần thiết để sản
xuất ra những t liệu sinh hoạt đó đại biểu cho giá trị của sức
lao động. Nhà t bản trả công cho công nhân hàng tuần, và nh
thế là mua cái quyền sử dụng lao động của ngời công nhân trong
một tuần. Cho tới đây, nói chung các ngài kinh tế học sẽ phải
đồng ý với chúng tôi trong vấn đề về giá trị của sức lao động.
Và bây giờ nhà t bản bắt công nhân của hắn ta làm việc.
Trong một thời gian nhất định, ngời công nhân sẽ cung cấp
đợc một số lợng lao động đại biểu trong tiền công hàng tuần
của anh ta. Giả thử rằng tiền công hàng tuần của một công nhân
đại biểu cho ba ngày lao động, nh vậy, ngời công nhân nào bắt
đầu làm việc ngày thứ hai, thì hết chiều ngày thứ t là đã hoàn
lại đủ cho nhà t bản toàn bộ giá trị của số tiền công đã trả.
Nhng sau đó, anh ta có ngừng làm việc không? Tuyệt nhiên
không. Nhà t bản đã mua lao động của anh ta trong một tuần,
thì anh ta cũng phải làm việc trong cả ba ngày cuối tuần nữa. Số
lao động thặng d đó của công nhân, lao động ngoài thời gian
cần thiết để bù lại số tiền công của anh ta, là nguồn gốc của giá
trị thặng d, của lợi nhuận, của việc t bản cứ ngày càng không
ngừng lớn thêm mãi.
Khi chúng tôi nói rằng trong ba ngày ngời công nhân làm
Generated by Foxit PDF Creator â Foxit Software
For evaluation only.
320 ph.ăng-ghen
Bình luận về tập I bộ "t bản" 321
ra đợc số tiền công mà anh ta đã nhận đợc, còn ba ngày kia
anh ta làm cho nhà t bản, thì xin chớ chê trách chúng tôi rằng
đó là một giả thiết tùy tiện. Anh ta cần đến đúng ba ngày để
hoàn lại tiền công, hay cần đến hai hoặc bốn ngày, thì ở đây điều
đó hoàn toàn không quan trọng và nó thay đổi tuỳ theo trờng
hợp; nhng điều chủ yếu chính là ở chỗ ngoài cái phần lao động
mà hắn trả công ra, nhà t bản còn bóp nặn đợc cái phần lao
động mà hắn không trả công và điều đó quyết không phải là một
giả thiết tuỳ tiện, bởi vì ngày nào mà nhà t bản chỉ còn thờng
xuyên nhận đợc của công nhân số lao động ngang với số mà hắn
trả cho công nhân trong tiền công, thì ngày đó hắn tất sẽ đóng
ngay cửa xởng của hắn lại, vì trong trờng hợp đó toàn bộ lợi
nhuận của hắn đều sẽ tan thành mây khói.
Đến đây chúng ta đã giải quyết đợc tất cả những mâu thuẫn
kể trên. Bây giờ nguồn gốc của giá trị thặng d (trong đó lợi
nhuận của nhà t bản chiếm một phần lớn) đã hoàn toàn rõ ràng
và dễ hiểu. Giá trị của sức lao động đợc trả tiền, nhng giá trị
đó thấp hơn rất nhiều so với giá trị mà nhà t bản có thể bòn rút
đợc ở sức lao động, và số chênh lệch đó tức lao động không đợc
trả công, chính đã cấu thành cái phần của nhà t bản hay nói
cho đúng hơn, cấu thành cái phần mà giai cấp các nhà t bản đã
thu đợc. Bởi vì ngay cả số lợi nhuận mà trong thí dụ trên đây
ngời lái buôn bông đã rút ra đợc từ số bông của hắn nếu giá
bông không tăng - nhất định phải gồm lao động không đợc trả
công. Ngời lái buôn đã bán hàng hóa của mình cho một chủ
xởng sản xuất vải, chủ xởng này, ngoài số tiền 100 đồng ta-le
kia, lại còn có thể rút ra đợc cho mình một số lợi nhuận nữa từ
sản phẩm của hắn, và do đó hắn sẽ chia với ngời lái buôn cái
phần lao động không trả công đã chiếm đợc. Chính phần lao
động không đợc trả công đó là cái nói chung nuôi sống tất cả
các thành viên không lao động trong xã hội. Với số lao động
không đợc trả công đó ngời ta đóng các khoản thuế của nhà
nớc và của địa phơng trong chừng mực những thuế đó đánh vào
giai cấp các nhà t bản, nộp địa tô cho bọn địa chủ, v.v Toàn bộ
chế độ xã hội hiện tồn dựa trên lao động không đợc trả công
đó.
Mặt khác, sẽ thật là phi lý nếu giả định rằng lao động không
đợc trả công chỉ xuất hiện trong những điều kiện hiện nay,
trong đó sản xuất là công việc của một bên là các nhà t bản và
bên kia là công nhân làm thuê. Trái lại. Giai cấp bị áp bức ở mọi
thời đại đều phải cung cấp lao động không công. Trong suốt cái
thời kỳ dài đằng đẵng mà chế độ nô lệ là hình thức tổ chức lao
động chiếm u thế, những ngời nô lệ bị buộc phải lao động nhiều
hơn rất nhiều so với cái mà ngời ta bù lại cho họ dới hình thức
t liệu sinh hoạt. Dới sự thống trị của chế độ nông nô, và mãi
cho đến khi chế độ lao dịch của nông dân đợc xóa bỏ, thì tình
hình cũng nh vậy; thậm chí ở đó sự khác nhau giữa thời gian
mà ngời nông dân làm việc để duy trì sự sống của mình và thời
gian mà ngời đó làm ra lao động thặng d cho lãnh chúa còn
bộc lộ ra một cách rõ rệt, vì lao động cho địa chủ đợc tiến hành
tách biệt hẳn với lao động cho bản thân mình. Bây giờ hình thức
đã thay đổi, nhng thực chất vẫn nh cũ, và nơi nào mà "một bộ
phận xã hội chiếm độc quyền về những t liệu sản xuất thì nơi
đó ngời lao động, tự do hay không tự do, đều buộc phải thêm
vào thời gian lao động cần thiết để nuôi sống bản thân mình một
số thời gian lao động dôi ra dùng để sản xuất t liệu sinh hoạt
cho ngời chiếm hữu t liệu sản xuất" (Mác, tr.202) [347].
II
Trong bài trớc, chúng ta đã thấy mỗi công nhân làm thuê cho
nhà t bản đều làm hai thứ lao động. Trong một phần thời gian
lao động của mình, anh ta hoàn lại số tiền công mà nhà t bản
đã trả cho anh ta, và Mác gọi cái phần lao động đó là lao động
cần thiết. Nhng sau đó, anh ta còn phải tiếp tục làm việc và
trong thời gian này anh ta sản xuất ra giá trị thặng d cho nhà
t bản, trong đó lợi nhuận chiếm một phần quan trọng. Phần lao
động này gọi là lao động thặng d.
Generated by Foxit PDF Creator â Foxit Software
For evaluation only.
322 ph.ăng-ghen
Bình luận về tập I bộ "t bản" 323
Chúng ta giả định rằng công nhân làm việc ba ngày trong
tuần lễ để hoàn lại số tiền công của mình và ba ngày để sản xuất
ra giá trị thặng d cho nhà t bản. Nói một cách khác, nh thế
nghĩa là trong một ngày lao động mời hai giờ anh ta làm việc
sáu giờ để tạo ra tiền công và sáu giờ để tạo ra giá trị thặng d.
Trong một tuần lễ ngời ta chỉ có thể rút ra đợc sáu ngày, và
nếu có thêm vào đó cả ngày chủ nhật nữa thì cũng chỉ có bảy
ngày thôi, nhng trong mỗi một ngày, ngời ta có thể rút đợc
sáu, tám, mời, mời hai, mời lăm giờ lao động và thậm chí còn
nhiều hơn thế nữa. Ngời công nhân đã bán cả một ngày lao
động cho nhà t bản để lấy tiền công hàng ngày của mình. Vậy
thế nào là một ngày lao động? Là tám giờ hay mời tám giờ?
Nhà t bản quan tâm đến việc làm cho ngày lao động càng dài
càng tốt. Ngày lao động càng dài thì nó càng tạo ra đợc nhiều
giá trị thặng d. Công nhân đã cảm thấy một cách đúng đắn
rằng mỗi giờ lao động mà anh ta làm ngoài số để hoàn lại tiền
công, đều bị cớp đi ở anh ta một cách không chính đáng; qua
kinh nghiệm của bản thân, anh ta cảm thấy lao động trong một
thời gian quá dài nghĩa là gì. Nhà t bản đấu tranh vì lợi nhuận
của hắn, công nhân đấu tranh vì sức khoẻ của mình, vì vài giờ
nghỉ ngơi hàng ngày của mình, có thể chẳng những lao động, ngủ
và ăn ra, mà còn có thể tự biểu hiện nh là một con ngời cả về
những mặt khác nữa. Nhân tiện cũng xin nhận xét qua rằng
hoàn toàn không phải là tuỳ ở thiện ý của riêng từng nhà t bản
mà họ muốn hay không muốn tham gia cuộc đấu tranh đó, vì sự
cạnh tranh bắt buộc ngay cả ngời bác ái nhất trong bọn họ cũng
phải liên kết với những đồng nghiệp của mình và áp dụng thời
gian lao động cũng dài nh những ngời kia.
Cuộc đấu tranh để quy định ngày lao động diễn ra ngay từ khi
những ngời công nhân tự do lần đầu tiên bớc lên vũ đài lịch sử
cho đến tận ngày nay. Trong những ngành công nghiệp khác nhau,
có những ngày lao động dài ngắn khác nhau, do tập quán quy
định nhng trong thực tế, chúng vẫn ít khi đợc tôn trọng. Chỉ ở
nơi nào pháp luật quy định ngày lao động và theo dõi việc chấp
hành điều quy định ấy, thì ở đó ngời ta mới có thể nói rằng có
ngày lao động đợc hạn chế nghiêm ngặt. Nhng cho đến nay,
điều đó hầu nh chỉ diễn ra ở các khu công nghiệp nớc Anh mà
thôi. ở đó, đã xác lập ngày lao động mời giờ (10 giờ rỡi trong
năm ngày và 7 giờ rỡi cho ngày thứ bảy) đối với tất cả phụ nữ
và trẻ em từ 13 đến 18 tuổi, và vì không có họ thì đàn ông không
thể làm việc đợc, nên cả đàn ông cũng đợc hởng ngày lao
động mời giờ. Đạo luật đó, công nhân công xởng Anh đã giành
đợc qua bao nhiêu năm kiên trì, bằng một cuộc đấu tranh khốc
liệt nhất, ngoan cờng nhất chống bọn chủ xởng, bằng cách dựa
vào quyền tự do báo chí, quyền lập hội và hội họp, cũng nh bằng
việc lợi dụng một cách khéo léo những sự chia rẽ trong bản thân
giai cấp thống trị. Đạo luật đó đã trở thành kẻ bảo vệ cho công
nhân Anh. Nó đã dần dần đợc áp dụng cho tất cả các ngành công
nghiệp lớn, và năm ngoái đây đã đợc áp dụng hầu nh trong
toàn bộ nền công nghiệp hay ít ra cũng đợc áp dụng trong tất cả
những ngành có thuê phụ nữ và trẻ em làm việc. Về lịch sử của
việc quy định ngày lao động bằng pháp luật đó ở Anh, thì cuốn
sách này có những tài liệu hết sức cặn kẽ. Quốc hội Bắc Đức
trong khoá họp sắp tới đây cũng sẽ thảo luận một quy chế công
nghiệp, và đồng thời cũng thảo luận cả việc chế định lao động
công xởng. Chúng ta mong rằng sẽ không có một vị đại biểu nào
do công nhân Đức bầu ra, tới tham gia thảo luận đạo luật đó mà
lại không nghiên cứu kỹ trớc quyển sách của Mác. ở đây ngời
ta sẽ có thể thu nhận đợc rất nhiều điều. Sự chia rẽ trong các
giai cấp thống trị ở Đức thuận lợi cho công nhân hơn là những sự
chia rẽ đã xảy ra trớc đây ở Anh, bởi vì quyền đầu phiếu phổ
thông buộc các giai cấp thống trị phải ve vãn công nhân. Trong
những điều kiện đó, bốn hay năm đại biểu của giai cấp vô sản
cũng đã là một lực lợng rồi, nếu nh họ biết lợi dụng địa vị của
mình, nếu nh trớc hết họ biết đây là vấn đề gì, biết cái mà bọn
t sản không biết. Và nhằm mục đích đó, quyển sách của Mác
cung cấp cho họ tất cả mọi tài liệu dới dạng hoàn chỉnh.
Chúng ta sẽ không nói đến cả một loạt những nghiên cứu tuyệt
vời khác, chủ yếu là có ý nghĩa về mặt lý luận, và chúng tôi sẽ
Generated by Foxit PDF Creator â Foxit Software
For evaluation only.
324 ph.ăng-ghen
Bình luận về tập I bộ "t bản" 325
bàn ngay đến chơng cuối, nói về tích luỹ t bản. Trong chơng
này, trớc hết ta thấy chứng minh rằng phơng thức sản xuất t
bản chủ nghĩa, tức là phơng thức sản xuất đòi hỏi phải có sự
tồn tại một bên là các nhà t bản và bên khác là các công nhân
làm thuê, - phơng thức sản xuất đó không những thờng xuyên
tái sản xuất ra t bản cho nhà t bản, mà đồng thời cũng luôn
luôn sản xuất ra sự nghèo khổ của công nhân; do đó đảm bảo duy
trì tình trạng là ở một bên bao giờ cũng có những nhà t bản là
những kẻ chiếm hữu tất cả các t liệu sinh hoạt, tất cả các
nguyên liệu và tất cả các công cụ lao động, và bên khác là quần
chúng công nhân đông đảo là những ngời bắt buộc phải bán sức
lao động của mình cho những nhà t bản ấy để đổi lấy một số t
liệu sinh hoạt nhất định, trong trờng hợp khá nhất cũng chỉ đủ
để duy trì năng lực lao động của họ và để nuôi lớn một thế hệ
ngời vô sản mới có khả năng lao động. Nhng t bản không
phải chỉ tự tái sản xuất ra thôi đâu, nó không ngừng tăng thêm
và lớn lên - đồng thời thế lực của nó đối với giai cấp công nhân
không có của cũng tăng thêm. Và giống nh bản thân t bản
đợc tái sản xuất ra với những quy mô ngày càng lớn, phơng
thức sản xuất t bản chủ nghĩa hiện đại cũng tái sản sinh ra giai
cấp những ngời công nhân không có của với một quy mô ngày
càng lớn hơn và với một số lợng ngày càng đông hơn. "Sự tích
luỹ của t bản tái sản xuất ra mối quan hệ t bản chủ nghĩa với
quy mô mở rộng: một bên là nhiều nhà t bản hơn hay những
nhà t bản lớn hơn, và ở bên kia là nhiều công nhân làm thuê
hơn Nh vậy tích luỹ t bản là làm tăng thêm giai cấp vô sản"
(tr.600) [865]. Nhng do sự phát triển của nền sản xuất cơ khí,
do nông nghiệp đợc cải tiến, v.v., ngời ta cần một số công nhân
ngày càng ít hơn để sản xuất ra cùng một số lợng sản phẩm nh
cũ, và sự cải tiến đó, có nghĩa là sự hình thành nên số công nhân
thừa ra, lại diễn ra nhanh hơn cả bản thân sự tăng lên của t
bản. Vậy số công nhân ngày càng tăng lên đó sẽ ra sao? Họ
hình thành một đội quân hậu bị công nghiệp; trong những thời
kỳ kinh doanh kém hay trung bình, đội quân này bị trả công
thấp hơn giá trị của lao động của họ và không có việc làm thờng
xuyên, hay rơi vào sự bảo trợ của hoạt động từ thiện công cộng;
nhng trong những lúc kinh doanh đặc biệt phát đạt đội quân đó
lại là không thể thiếu đợc đối với giai cấp các nhà t bản, nh
ta thấy rõ điều đó qua thí dụ nớc Anh. Trong mọi hoàn cảnh,
đội quân này đợc dùng để đè bẹp sức phản kháng của những
công nhân có việc làm thờng xuyên và để kìm giữ tiền công của
họ mức thấp. "Của cải xã hội càng nhiều , thì nhân khẩu thừa
tơng đối hay đội quân hậu bị công nghiệp càng đông Nhng
đội quân hậu bị đó càng đông so với đội quân lao động tại ngũ
(thờng xuyên có việc làm) thì số nhân khẩu thừa cố định hoặc
những tầng lớp công nhân mà sự nghèo khổ của họ tỷ lệ nghịch
1*
với sự giày vò của lao động của họ lại càng thêm đông đảo. Sau
hết, những tầng lớp cùng khổ trong giai cấp công nhân càng
đông và đội quân hậu bị công nghiệp càng lớn, thì sự bần cùng
chính thức càng lớn. Đó là quy luật tuyệt đối, phổ biến của tích
luỹ t bản chủ nghĩa" (tr.631) [907].
Đó là một vài quy luật trong số những quy luật chủ yếu của
chế độ xã hội t bản chủ nghĩa hiện đại, đợc chứng minh một
cách hết sức khoa học, và các nhà kinh tế học quan phơng thậm
chí cũng tránh không dám mu toan bác bỏ chúng. Nhng nh
thế thì chúng ta đã nói hết cha? Cha đâu. Mác nhấn mạnh
những mặt xấu của nền sản xuất t bản chủ nghĩa một cách gay
gắt nh thế nào thì ông cũng chứng minh một cách rõ ràng nh
thế rằng hình thái xã hội đó là cần thiết để phát triển lực lợng
sản xuất của xã hội tới một trình độ cao đến mức làm cho tất cả
mọi thành viên trong xã hội đều có thể phát triển nh nhau một
cách xứng đáng với con ngời. Tất cả các hình thái xã hội trớc
đây đều quá nghèo nàn để có thể làm đợc điều đó. Chỉ có nền sản
_____________________________________________________________________________________________
1* Trong bản dịch tiếng Pháp tập I bộ "T bản" đã đợc chính Mác duyệt lại, Mác
đã sửa lại luận điểm này. Xem C.Mác và Ph.Ăng-ghen, Toàn tập, tiếng Việt, Nhà
xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993, t.23, tr.907.
Generated by Foxit PDF Creator â Foxit Software
For evaluation only.
326 ph.ăng-ghen
xuất t bản chủ nghĩa là tạo ra đợc những của cải và những lực
lợng sản xuất cần thiết để làm việc đó; nhng đồng thời với số
công nhân bị áp bức đông đảo nó cũng tạo ra cái giai cấp xã hội
ngày càng đứng trớc sự cần thiết phải nắm lấy những của cải
và những lực lợng sản xuất ấy vào tay mình để sử dụng chúng
cho toàn thể xã hội, chứ không phải cho riêng một giai cấp độc
quyền nh hiện nay.
Do Ph.Ăng-ghen viết vào giữa ngày 2 và 13
tháng Ba 1868
Đã đăng trên tờ "Demokratisches Wochenblatt",
các số 12 và 13, ngày 21 và 28 tháng Ba
1868
In theo bản đăng trên báo
Nguyên văn là tiếng Đức
Ph.Ăng-ghen
Tóm tắt tập i
Bộ "t bản" của c.mác
204
c. mác. t bản. tập i
quyển thứ nhất.
quá trình sản xuất của t bản
Do Ph.Ăng-ghen viết năm 1868
Công bố lần đầu tiên bằng tiếng Nga trong
"Văn khố của C.Mác và Ph.Ăng-ghen",
quyển IV, 1929
In theo bản thảo
Nguyên văn là tiếng Đức
Generated by Foxit PDF Creator â Foxit Software
For evaluation only.
329
Chơng thứ nhất
Hàng hóa và tiền tệ
205
i. bản thân hàng hóa
Của cải của các xã hội mà trong đó nền sản xuất t bản chủ
nghĩa thống trị đều do hàng hóa cấu thành. Hàng hóa là vật có
giá trị sử dụng; giá trị này tồn tại trong tất cả các hình thái xã
hội, còn trong xã hội t bản chủ nghĩa thì giá trị sử dụng đồng
thời là cái chứa đựng vật chất của giá trị trao đổi.
Giá trị trao đổi phải có tertium comparationis
1*
để đo nó: đó là
lao động, thực thể xã hội chung của giá trị trao đổi, cụ thể là thời
gian lao động xã hội cần thiết đã đợc vật hoá trong nó.
Giống nh hàng hóa là cái có hai mặt: giá trị sử dụng và giá
trị trao đổi, lao động chứa đựng trong hàng hóa cũng có hai mặt:
một mặt là hoạt động sản xuất nhất định, nh lao động của
ngời thợ dệt, lao động của ngời thợ may v.v., lao động có ích,
và mặt khác là sự tiêu hao thuần tuý sức lao động của con ngời,
là lao động trừu tợng đợc kết tinh. Cái thứ nhất sản xuất ra
giá trị sử dụng, cái thứ hai sản xuất ra giá trị trao đổi và chỉ có
cái thứ hai này mới có thể so sánh đợc về mặt số lợng (những
sự khác nhau giữa lao động lành nghề và lao động không lành
nghề, giữa lao động phức tạp và lao động giản đơn chứng thực
điều đó).
Nh vậy thực thể của giá trị trao đổi là lao động trừu tợng,
_____________________________________________________________________________________________
1* Nghĩa đen: vật thứ ba để so sánh; ở đây có nghĩa là thớc đo.
Generated by Foxit PDF Creator â Foxit Software
For evaluation only.
330 ph.ăng-ghen
Tóm tắt tập I bộ "t bản" của C.Mác. chơng I 331
lợng giá trị trao đổi là độ dài của thời gian lao động trừu tợng.
Chúng ta hãy xem xét thêm hình thức của giá trị trao đổi.
1) x hàng hóa a = y hàng hóa b; giá trị của hàng hóa này biểu
hiện ở giá trị sử dụng của hàng hóa khác là giá trị tơng đối của
hàng hóa đó. Biểu hiện sự ngang giá của hai hàng hóa là hình
thức giản đơn của giá trị tơng đối. Trong đẳng thức kể trên y
hàng hóa b là vật ngang giá. Trong vật ngang giá đó, x hàng
hóa a có đợc hình thái giá trị của mình khác với hình thái tự
nhiên của nó, trong khi y hàng hóa b đồng thời có đợc thuộc
tính có khả năng trao đổi trực tiếp ngay cả trong hình thức tự
nhiên của nó. Do những điều kiện lịch sử nhất định, giá trị trao
đổi của hàng hóa biểu hiện ở giá trị sử dụng của hàng hóa. Vì
thế hàng hóa không thể biểu hiện giá trị trao đổi ở giá trị sử
dụng của chính bản thân nó, nó chỉ có thể biểu hiện đợc giá trị
trao đổi của nó ở giá trị sử dụng của một hàng hóa khác. Chỉ khi
ngời ta đem so và đánh giá hai sản phẩm lao động cụ thể là
bằng nhau thì thuộc tính của lao động cụ thể chứa đựng trong
hai sản phẩm với tính cách là lao động trừu tợng của con ngời
mới bộc lộ, nghĩa là hàng hóa không thể lấy lao động cụ thể chứa
đựng trong chính bản thân nó làm hình thức hoá thân giản đơn
của lao động trừu tợng mà nó chỉ có thể lấy lao động cụ thể
chứa đựng trong hàng hóa thuộc loại khác làm hình thức hoá
thân đơn giản của lao động trừu tợng,
Đẳng thức x hàng hóa a = y hàng hóa b tất nhiên giả định
rằng x hàng hóa a cũng có thể biểu hiện trong những hàng hóa
khác; do đó;
2) x hàng hóa a = y hàng hóa b = z hàng hóa c = v hàng hóa
d = u hàng hóa e v.v., v.v., v.v Đó là hình thái tơng đối mở
rộng của giá trị. ở đây x hàng hóa a đợc đem so không phải với
một hàng hóa mà đợc đem so với tất cả mọi hàng hóa với tính
cách là hình thức biểu hiện giản đơn của lao động thể hiện trong
bản thân nó. Nhng bằng cách hoán vị đơn giản, hình thức này
sẽ dẫn tới
3) Hình thái thứ hai đảo ngợc của giá trị tơng đối:
y hàng hóa b = x hàng hóa a
v hàng hóa c = " " "
u hàng hóa d = " " "
t hàng hóa e = " " "
v.v., v.v
ở đây hàng hóa có đợc hình thái tơng đối chung của giá trị,
trong đó tất cả hàng hóa đều tách khỏi giá trị sử dụng của mình
và với t cách là hoá thân của lao động trừu tợng, chúng đợc
đánh giá là bằng x hàng hóa a. Hơn nữa x hàng hóa a là hình
thái chủng loại của vật ngang giá đối với tất cả các hàng hóa
khác, nó là vật ngang giá chung của chúng; lao động đã đợc vật
hoá trong nó trực tiếp biểu hiện nh là sự thực hiện của lao động
trừu tợng, nh là lao động nói chung. Còn bây giờ -
4) Mỗi hàng hóa trong loạt kể trên đều có thể đảm nhận vai
trò vật ngang giá chung, nhng trong cùng một lúc thì bao giờ
cũng chỉ có một trong số đó có thể đảm nhận đợc vai trò đó, vì
nếu tất cả các hàng hóa đều là vật ngang giá chung, thì đến lợt
mình, mỗi hàng hóa đều loại số còn lại ra khỏi số vật ngang giá
chung đó. Hình thái thứ ba không phải do x hàng hóa a, mà do
những hàng hóa khác, tạo ra một cách khách quan. Do đó, một
hàng hóa nhất định phải đảm nhận vai trò đó, - sau này hàng
hóa đó có thể thay đổi - và chỉ do nh vậy, hàng hóa mới hoàn
toàn trở thành hàng hóa. Hàng hóa đặc biệt này, cái hàng hóa
mà hình thái vật ngang giá chung gắn liền với hình thái tự
nhiên của nó là tiền tệ.
Cái khó khi nhận thức về hàng hóa là ở chỗ hàng hóa cũng
nh tất cả các phạm trù của phơng thức sản xuất t bản chủ
nghĩa biểu hiện quan hệ giữa ngời với ngời dới cái vỏ vật thể.
Khi đem so những sản phẩm của mình với nhau với t cách là
hàng hóa, là những ngời sản xuất đem so các dạng lao động khác
nhau của mình với t cách là lao động chung của con ngời, nếu
Generated by Foxit PDF Creator â Foxit Software
For evaluation only.
332 ph.ăng-ghen
Tóm tắt tập I bộ "t bản" của C.Mác. chơng I 333
thiếu sự trung gian của vật thể đó, thì họ không làm đợc việc
đó. Do đó, quan hệ giữa ngời với ngời biểu hiện thành quan hệ
giữa vật với vật.
Đối với xã hội, mà trong đó sản xuất hàng hóa thống trị, thì
đạo Thiên chúa, đặc biệt là đạo tin lành là tôn giáo thích hợp.
II- quá trình trao đổi hàng hóa
Trong trao đổi, hàng hóa mới chứng minh đợc hàng hóa là
hàng hóa. Những ngời chủ của hai hàng hóa phải có ý muốn
trao đổi hàng hóa của mình và, do đó họ phải thừa nhận lẫn
nhau là những ngời sở hữu t nhân. Quan hệ pháp lý này, mà
hình thức của nó là bản hợp đồng, chỉ là quan hệ ý chí trong đó
phản ánh quan hệ kinh tế. Nội dung của quan hệ pháp lý hoặc
quan hệ ý chí đó là do chính quan hệ kinh tế đem lại (tr.45).
Hàng hóa là giá trị sử dụng đối với ngời không phải là chủ
của nó và nó không phải là giá trị sử dụng đối với ngời chủ của
nó. Do đó mới có nhu cầu trao đổi. Nhng mỗi ngời chủ của
hàng hóa đều muốn nhận đợc, thông qua trao đổi, những giá trị
sử dụng đặc biệt cần thiết cho anh ta; bởi vậy trao đổi là một quá
trình có tính chất cá nhân. Mặt khác anh ta muốn bán hàng hóa
của mình với t cách là giá trị, nghĩa là thông qua bất kỳ hàng
hóa nào, không kể là hàng hóa của anh ta có là giá trị sử dụng
đối với ngời chủ của hàng hóa khác hay không, bởi vậy trao đổi
đối với anh ta là một quá trình xã hội chung. Nhng cùng một
quá trình không thể vừa là một quá trình có tính chất cá nhân
lại vừa là một quá trình xã hội chung đối với tất cả những
ngời chủ hàng hóa. Đối với mỗi ngời chủ hàng hóa thì hàng
hóa của anh ta là vật ngang giá chung, còn tất cả các hàng hóa
khác là một số lợng nhất định những vật ngang giá đặc thù của
hàng hóa của anh ta. Nhng vì tất cả những ngời chủ hàng
hóa đều giống nhau ở điểm đó, nên không một hàng hóa nào là vật
ngang giá chung cả, và vì vậy không một hàng hóa nào có hình
thái giá trị tơng đối chung trong đó các hàng hóa có thể đồng
nhất với nhau với t cách là giá trị và có thể so sánh đợc với
nhau với t cách là những lợng giá trị. Nh vậy, hàng hóa đối
diện với nhau hoàn toàn không phải với t cách là hàng hóa, mà
chỉ với t cách là những sản phẩm (tr.47).
Hàng hóa chỉ có thể so với nhau với t cách là những giá trị,
và vì vậy, với t cách là những hàng hóa, khi chúng đợc đem
đối lập với một hàng hóa khác nào đó, với t cách là vật ngang
giá chung. Nhng chỉ có hành vi xã hội mới có thể làm cho một
hàng hóa nhất định trở thành vật ngang giá chung - tiền tệ.
Mâu thuẫn nội tại của hàng hóa với t cách là sự thống nhất
trực tiếp giữa giá trị sử dụng và giá trị trao đổi, với t cách là
sản phẩm của lao động t nhân có ích và với t cách là hoá
thân trực tiếp có tính chất xã hội của lao động trừu tợng của
con ngời - mâu thuẫn đó không chịu nằm im cho tới khi nó
mang hình thức tách đôi hàng hóa ra thành hàng hóa và tiền
(tr.48).
Vì tất cả những hàng hóa khác chỉ là những vật ngang giá
riêng biệt của tiền, còn tiền là vật ngang giá chung của những
hàng hóa khác, nên những hàng hóa đó là những hàng hóa riêng
biệt so với tiền là hàng hóa chung (tr.51). Quá trình trao đổi
không đem lại giá trị cho thứ hàng hóa mà nó đã biến thành tiền,
mà chỉ đem lại cho hàng hóa đó hình thức giá trị của nó (tr.51).
Bái vật giáo là ở chỗ: dờng nh hàng hóa trở thành tiền không
phải vì những hàng hóa khác dùng nó để biểu hiện một cách toàn
diện giá trị của chúng, mà trái lại, dờng nh các hàng hóa này
dùng nó để biểu hiện giá trị của mình bởi vì nó là tiền.
III. tiền tệ, hay lu thông hàng hóa
A. thớc đo giá trị (giả định vàng là tiền)
Tiền với t cách là thớc đo giá trị, là hình thức biểu tất yếu
của thớc đo giá trị nội tại của hàng hóa - thời gian lao động.
Generated by Foxit PDF Creator â Foxit Software
For evaluation only.
334 ph.ăng-ghen
Tóm tắt tập I bộ "t bản" của C.Mác. chơng I 335
Biểu hiện tơng đối giản đơn của giá trị của hàng hóa bằng tiền:
x hàng hóa a = y tiền, là giá cả của hàng hóa (tr.55).
Giá cả của hàng hóa, hình thức tiền tệ của nó đợc biểu hiện
bằng tiền hình dung trong tởng tợng, do đó, tiền là thớc đo
giá trị chỉ là tiền trong trí tởng tợng mà thôi (tr.57).
Nhng một khi giá trị đã biến thành giá cả, thì về mặt kỹ
thuật cần phải phát triển hơn nữa thớc đo giá trị thành tiêu
chuẩn giá cả; tức là phải xác định một lợng vàng nhất định để
đo những lợng vàng khác nhau. Điều đó hoàn toàn khác với
thớc đo giá trị, vì bản thân thớc đo giá trị phụ thuộc vào giá
trị của vàng, nhng đối với tiêu chuẩn giá cả thì giá cả của vàng
thế nào cũng không quan trọng (tr.59).
Khi giá cả đợc biểu hiện bằng những tên gọi để tính toán của
vàng thì tiền đợc dùng làm tiền để tính toán.
Nếu giá cả với t cách là chỉ số của lợng giá trị của hàng
hóa, đồng thời cũng là chỉ số của tỉ số trao đổi giữa hàng hóa đó
và tiền, thì cũng không thể từ đó rút ra điều ngợc lại, là chỉ số
của tỉ số trao đổi giữa hàng hóa và tiền nhất thiết phải là chỉ số
của lợng giá trị của hàng hóa. Nếu hoàn cảnh cho phép hoặc
buộc phải bán hàng hóa cao hơn hoặc thấp hơn giá trị của nó, thì
những giá bán đó không phù hợp với giá trị của hàng hóa, nhng
chúng vẫn đều là giá cả của hàng hóa, bởi vì chúng là: 1) hình
thái giá trị của hàng hóa, là tiền, và 2) là những chỉ số của tỉ số
trao đổi giữa hàng hóa và tiền.
Do đó, khả năng có sự không phù hợp về lợng giữa giá cả
với lợng giá trị đã có ngay trong bản thân hình thức giá cả.
Và điều đó không phải là thiếu sót của hình thức này, - ngợc
lại, chính nét đặc biệt đó lại làm cho hình thức đó thành hình
thức thích hợp của các phơng thức sản xuất mà trong đó quy
tắc chỉ có thể mở đợc đờng đi cho mình xuyên qua sự hỗn độn
với t cách là quy luật của những con số trung bình tác động
một cách mù quáng. Nhng hình thức giá cả cũng có thể che
giấu trong bản thân nó mâu thuẫn về chất, do đó giá cả nói chung
không còn là biểu hiện của giá trị nữa Lơng tâm, danh dự v.v.
cũng có thể có hình thức hàng hóa do giá cả của chúng (tr.61).
Việc đo giá trị bằng tiền, hình thức giá cả, phải có tiền đề là
sự chuyển nhợng; việc quy định giá cả trong tởng tợng phải
có tiền đề là sự quy định giá cả trên thực tế. Từ đó nảy sinh ra
lu thông.
B. phơng tiện lu thông
a) Sự biến đổi hình thái của hàng hóa
Hình thái giản đơn: H-T-H, nội dung vật chất của nó = H-H.
Giá trị trao đổi đợc trả đi, còn giá trị sử dụng thì đợc chiếm
hữu.
)Giai đoạn thứ nhất: H-T, là việc bán, ở đây có hai ngời
tham gia; do đó, có khả năng thất bại, tức là bán thấp hơn giá trị
hoặc thậm chí thấp hơn cả chi phí sản xuất, nếu giá trị xã hội
của hàng hóa thay đổi. "Sự phân công lao động biến sản phẩm
của lao động thành hàng hóa và do đó, làm cho việc biến nó
thành tiền trở thành tất yếu". Đồng thời sự phân công lao động
cũng làm cho sự chuyển hóa đó có thành công hay không trở
thành một việc ngẫu nhiên (tr.67). Nhng, ở đây cần xem xét hiện
tợng đó dới dạng thuần tuý của nó, H-T phải có tiền đề là
ngời sở hữu T (nếu anh ta không phải là ngời sản xuất vàng)
trớc đó đã trao đổi H khác để nhận đợc T của mình; bởi vậy đối
với ngời mua sự giao dịch không chỉ là hành vi ngợc lại, tức là
T-H, mà còn phải có tiền đề là anh ta cần phải bán trớc v.v.,
thành thử trớc mắt chúng ta là một chuỗi vô tận những ngời
mua và những ngời bán.
) Chính điều nh thế cũng xảy ra trong giai đoạn thứ hai,
T-H, tức là khi mua, việc mua này đồng thời là việc bán đối với
ngời tham gia khác.
Generated by Foxit PDF Creator â Foxit Software
For evaluation only.
336 ph.ăng-ghen
Tóm tắt tập I bộ "t bản" của C.Mác. chơng I 337
) Do đó, toàn bộ quá trình là một vòng tuần hoàn mua và
bán. Lu thông hàng hóa. Lu thông hàng hóa hoàn toàn khác
việc trao đổi sản phẩm trực tiếp: một mặt, những giới hạn cá
nhân và địa phơng của việc trao đổi sản phẩm trực tiếp bị phá
vỡ và việc trao đổi chất của lao động của con ngời đợc xúc tiến;
mặt khác, ở đây đã biểu lộ rõ ràng toàn bộ quá trình là do những
quan hệ xã hội quy định, những quan hệ này mang tính chất
những mối quan hệ do tự nhiên sinh ra và không phụ thuộc vào
những ngời đang hoạt động (tr.72). Trao đổi giản đơn thì chỉ
một hành vi trao đổi thôi là chấm dứt, trong hành vi trao đổi này
mỗi ngời đều đổi giá trị không sử dụng lấy giá trị sử dụng,
nhng lu thông thì tiếp diễn vô tận (tr.73).
ở đây, có một giáo điều sai lầm về mặt kinh tế học cho rằng:
dờng nh lu thông hàng hóa nhất định sẽ tạo ra sự cân bằng
giữa mua và bán, vì mỗi hành vi mua đồng thời cũng là hành vi
bán và vice versa
1*
; điều đó có nghĩa là dờng nh mỗi ngời bán
đều kéo theo ngời mua của mình đến thị trờng. 1) Mua và bán,
một mặt, là cùng một hành vi của hai ngời đối lập nhau ở hai
cực, mặt khác, nó là hai hành vi đối lập nhau ở hai cực của cùng
một ngời. Bởi vậy, sự đồng nhất giữa mua và bán giả định rằng
hàng hóa là vô dụng khi nó không bán đợc, cũng nh giả định
rằng trờng hợp đó có thể xảy ra. 2) H-T, ớc tính là một quá
trình bộ phận, đồng thời cũng là một quá trình độc lập và nó bao
hàm việc ngời bán khi đã nhận đợc T, thì có thể chọn thời
điểm để biến những T đó thành H. Anh ta có thể chờ đợi. Sự
thống nhất bên trong của các quá trình độc lập H-T và T-H, -
chính do tính độc lập của những quá trình đó - vận động trong
những sự đối lập bên ngoài và khi sự tách biệt của các quá trình
phụ thuộc nhau đó đạt tới một giới hạn nhất định, thì sự thống
nhất đợc thực hiện thông qua một cuộc khủng hoảng. Do đó, ở
đây đã có khả năng xảy ra khủng hoảng.
Với t cách là nhân vật trung gian trong quá trình lu thông
hàng hóa, tiền là phơng tiện lu thông.
_____________________________________________________________________________________________
1* ngợc lại.
b) Lu thông tiền tệ
Tiền tệ làm trung gian cho mỗi hàng hóa riêng biệt tham gia
quá trình lu thông và rời khỏi quá trình đó; bản thân tiền tệ
luôn luôn ở lại trong lu thông. Bởi vậy mặc dù lu thông tiền tệ
chỉ là biểu hiện của lu thông hàng hóa, nhng lu thông hàng
hóa lại biểu hiện nh là kết quả của lu thông tiền. Bởi vì tiền tệ
luôn luôn ở lại trong lĩnh vực lu thông, nên vấn đề là ở chỗ có
bao nhiêu tiền trong lĩnh vực đó.
Khối lợng tiền lu thông đợc xác định bằng tổng số giá cả
hàng hóa (khi giá trị của tiền không thay đổi), nhng, tổng số
giá cả hàng hóa lại đợc quy định bởi khối lợng hàng hóa nằm
trong lu thông. Nếu giả định rằng khối lợng hàng hóa đó là
một khối lợng nhất định, thì khối lợng tiền lu thông sẽ thay
đổi tơng ứng với những sự lên xuống của giá cả của hàng hóa.
Nhng vì cũng cùng một đơn vị tiền tệ trong một khoảng thời
gian nhất định luôn luôn làm trung gian cho một loạt những vụ
giao dịch, vụ nọ nối tiếp vụ kia, nên đối với một khoảng thời gian
Tổng số giá cả hàng hóa
nhất định thì
Số vòng quay của đơn vị tiền tệ
= Khối lợng tiền hoạt
động với t cách là phơng tiện lu thông (tr.80).
Bởi vậy, tiền giấy có thể loại đợc tiền vàng nếu ném chúng
vào lu thông đã bão hoà.
Vì lu thông của tiền tệ chỉ thể hiện quá trình lu thông hàng
hóa, cho nên tiền lu thông nhanh thì thể hiện của hàng hóa và
tiền chuyển hóan hình thức nhanh, còn lu thông tiền tệ ngng
đọng thì thể hiện sự tách rời mua ra khỏi bán, là sự đình trệ
trong việc trao đổi vật của xã hội. Tất nhiên qua bản thân lu
thông thì không thể nhận thấy do đâu mà có sự đình trệ ấy. Lu
thông chỉ biểu lộ bản thân sự có mặt của hiện tợng đó. Ngời
Phi-li-xtanh giải thích điều đó là do không đủ số lợng phơng
tiện lu thông (tr.81).
Generated by Foxit PDF Creator â Foxit Software
For evaluation only.
338 ph.ăng-ghen
Tóm tắt tập I bộ "t bản" của C.Mác. chơng I 339
Do vậy: 1) Khi giá cả hàng hóa không thay đổi thì khối lợng
tiền lu thông tăng, nếu khối lợng hàng hóa lu thông tăng
hoặc nếu lu thông tiền tệ bị chậm lại, và vice versa khối lợng
tiền lu thông giảm.
2) Khi giá cả hàng hóa tăng một cách phổ biến thì khối lợng
tiền lu thông không thay đổi, nếu khối lợng hàng hóa giảm,
hoặc tốc độ lu thông tăng với tỷ lệ cũng nh thế.
3) Khi giá cả hàng hóa giảm xuống một cách phổ biến thì diễn
ra điều ngợc lại với điểm 2.
Nói chung, hình thành mức trung bình tơng đối ổn định mà
hầu nh chỉ có những cuộc khủng hoảng mới làm sai lệch đi
đáng kể.
c) Tiền đúc - ký hiệu của giá trị
Tiêu chuẩn giá cả là do nhà nớc quy định cũng nh tên gọi
một mẫu vàng nhất định - tức tiền đúc và việc chế tạo ra nó
cũng do nhà nớc quy định. Trên thị trờng thế giới bộ áo dân
tộc tơng ứng đợc cởi ra (ở đây chúng ta không đề cập tới thuế
tiền đúc), thành thử, tiền đúc và vàng thoi chỉ khác nhau về
hình thức. Nhng tiền đúc bị mòn dần trong lu thông, vàng với
t cách là phơng tiện lu thông đã khác với vàng với t cách là
tiêu chuẩn giá cả, tiền đúc ngày càng trở thành cái tợng trng
cho hàm lợng pháp định của nó.
Điều đó cũng đã ẩn giấu khả năng thay thế tiền kim loại bằng
những ký hiệu hoặc bằng những vật tợng trng. Do đó xuất
hiện: 1) tiền nhỏ bằng những ký hiệu bằng bạc và bằng đồng; để
cản trở chúng củng cố thành tiền đối lập với tiền vàng thực,
chúng bị giới hạn số lợng làm phơng tiện thanh toán pháp định.
Hàm lợng kim loại trong những ký hiệu đó do pháp luật quy
định một cách hoàn toàn vũ đoán, và do đó, chức năng tiền tệ của
nó trở thành độc lập với giá trị của nó. Từ đó khả năng chuyển sang
sử dụng những ký hiệu không có một giá trị gì, - 2) Chuyển sang
sử dụng tiền giấy tức là sử dụng tiền giấy của Nhà nớc đợc
lu hành bắt buộc (ở đây chúng ta cha xem xét đến tiền tín
dụng). Trong chừng mực những tiền giấy do thực sự lu thông
thay cho tiền vàng, thì chúng phải phục tùng những quy luật của
lu thông vàng. Chỉ có cái tỷ lệ tiền giấy thay thế vàng mới chịu
sự chi phối của quy luật đặc biệt sau đây: việc phát hành tiền
giấy phải đợc giới hạn bằng số lợng vàng lu thông thật sự do
tiền giấy làm đại diện. Thật ra, mức bão hoà trong lĩnh vực lu
thông thờng dao động, nhng ở mọi nơi qua kinh nghiệm ngời
ta đều xác định đợc mức tối thiểu mà lu thông không bao giờ
tụt xuống dới nó. Mức tối thiểu đó có thể phát hành đợc. Nếu
phát hành nhiều hơn mức đó thì khi mức bão hoà tụt xuống đến
mức tối thiểu, một phần tiền giấy sẽ trở thành thừa ngay lập tức.
Trong trờng hợp nh vậy tổng số tiền giấy trong phạm vi của thế
giới hàng hóa chỉ đại biểu cho số lợng vàng do những quy luật
nội tại của thế giới hàng hóa quyết định, do đó, tiền giấy chỉ đại
diện cho số lợng vàng có thể lấy tiền giấy để đại diện.
Bởi vậy, nếu khối lợng tiền giấy vợt gấp đôi khối lợng
vàng có thể hấp thu đợc, thì mỗi đơn vị tiền giấy sẽ mất giá đi
một nửa giá trị danh nghĩa của nó. Y nh là vàng đã có sự thay
đổi giá trị của nó trong chức năng thớc đo giá cả của nó (tr.89).
c. tiền
a) Việc tích trữ tiền
Ngay từ những mầm mống đầu tiên của sự phát triển của nó,
lu thông hàng hóa đã đẻ ra sự cần thiết và lòng khát khao giữ
lấy kết quả của H-T, tức là T; từ một khâu trung gian giản đơn
trong sự trao đổi vật chất, sự thay đổi hình thức đó trở thành
một mục đích tự nó. Tiền bị đọng đứng lại ở dạng tiền tích trữ,
ngời bán hàng hóa trở thành ngời tích trữ tiền (tr.91).
Hình thức đó chiếm u thế chính trong những giai đoạn đầu
của lu thông hàng hóa. Châu á. Cùng với sự phát triển hơn nữa
Generated by Foxit PDF Creator â Foxit Software
For evaluation only.
340 ph.ăng-ghen
Tóm tắt tập I bộ "t bản" của C.Mác. chơng I 341
của lu thông hàng hóa, mỗi ngời sản xuất hàng hóa đều phải
nắm lấy cái nexus rerum
1*
, cái bảo đảm đợc xã hội thừa nhận -
đó là T. Thế là việc cất trữ tiền xuất hiện ở khắp nơi. Sự phát
triển của lu thông hàng hóa làm tăng quyền lực của đồng tiền,
tức là của cái hình thức xã hội tuyệt đối luôn luôn có thể sẵn
sàng sử dụng đợc của cải (tr.92). Lòng mong muốn tích trữ tiền,
xét theo bản chất của nó, là không có giới hạn. Xét về mặt chất
lợng hay về mặt hình thức của nó thì tiền không có giới hạn,
tức là nó là đại biểu chung của của cải vật chất, bởi vì nó có thể
trực tiếp chuyển thành bất kỳ hàng hóa nào. Xét về mặt số lợng
thì mỗi số tiền thực tế lại có giới hạn, và bởi vậy nó là phơng
tiện mua có hiệu lực có hạn. Mâu thuẫn đó không ngừng buộc
ngời tích trữ tiền phải làm đi làm lại cái công việc dã tràng
trong việc tích luỹ.
Cùng với cái đó, tích luỹ vàng và bạc in plate
2*
tạo nên thị
trờng mới cho các kim loại đó, đồng thời tạo nên nguồn gốc tiềm
tàng của tiền.
Việc tích trữ tiền có tác dụng là kênh tiêu nớc và dẫn nớc
cho tiền đang lu thông trong tình hình mức bão hoà của lĩnh
vực lu thông thờng xuyên dao động (tr.95).
b) Phơng tiện thanh toán
Cùng với sự phát triển của lu thông hàng hóa, đã nảy sinh
những quan hệ mới: việc chuyển nhợng hàng hóa có thể tách rời
với việc thực hiện giá cả của hàng hóa về mặt thời gian. Những
hàng hóa khác nhau đòi hỏi phải có những thời gian khác nhau
để sản xuất ra chúng, chúng đợc chế tạo ra trong những thời
gian khác nhau trong năm, một vài loại hàng hóa lại phải
chuyển đến các thị trờng xa xôi v.v Bởi vậy A có thể là ngời
bán trớc khi B, ngời mua, có khả năng thanh toán. Thực tiễn sẽ
điều tiết những điều kiện thanh toán nh sau: A trở thành chủ
_____________________________________________________________________________________________
1*- thần kinh của các vật.
2*- dới dạng vật phẩm bằng vàng và bạc.
nợ, B trở thành con nợ, còn tiền thì trở thành phơng tiện thanh
toán. Bởi vậy, quan hệ giữa chủ nợ và con nợ trở thành càng có
tính chất đối kháng hơn (quan hệ giữa chủ nợ và con nợ có thể
xuất hiện không phụ thuộc vào lu thông hàng hóa, ví dụ nh
trong thế giới cổ đại và trong thời trung cổ) (tr.97).
Trong mối quan hệ đó tiền làm chức năng: 1) là thớc đo giá
trị khi xác định giá cả của hàng hóa bán ra, 2) là phơng tiện
mua trên ý niệm. Khi tích trữ tiền, T bị rút khỏi lu thông, còn ở
đây với t cách là phơng tiện thanh toán T đi vào lu thông,
nhng chỉ sau khi H đã ra khỏi lu thông. Ngời mua là con nợ
phải bán để có khả năng trả, nếu không tài sản của anh ta sẽ
phải bán đấu giá. Nh vậy, bây giờ do tất yếu xã hội bắt nguồn
từ những quan hệ của bản thân quá trình lu thông, T đã trở
thành mục đích tự nó của việc bán (tr.97-98).
Sự không trùng khớp về mặt thời gian giữa mua và bán đẻ ra
chức năng của tiền là phơng tiện thanh toán, đồng thời dẫn đến
sự tiết kiệm phơng tiện lu thông, dẫn tới sự tập trung việc
thanh toán vào một nơi nhất định. Virements
1*
ở Li-ông trong
thời kỳ trung cổ - một loại clearing house,
2*
ở đó ngời ta chỉ
thanh toán với nhau khoản chênh lệch của những món nợ đó với
nhau (tr.98).
Trong chừng mực các khoản thanh toán trang trải hết cho
nhau thì tiền làm chức năng tiền kế toán hoặc thớc đo giá trị chỉ
trên ý niệm mà thôi. Còn chừng nào phải thực hiện những khoản
thanh toán thật sự, thì tiền không biểu hiện chỉ có hình thức nhất
thời và trung gian của sự trao đổi vật chất, mà biểu hiện là hiện
thân cá biệt của lao động xã hội, là sự tồn tại độc lập của giá trị
trao đổi, là hàng hóa tuyệt đối. Mâu thuẫn trực tiếp đó bộc lộ một
cách đặc biệt mạnh mẽ trong thời gian những cuộc khủng hoảng
sản xuất và khủng hoảng thơng nghiệp, thời gian mà ngời ta gọi
là khủng hoảng tiền tệ. Cuộc khủng hoảng này chỉ có thể xảy ra ở
_____________________________________________________________________________________________
1*- Sở thanh toán bằng chuyển khoản.
2*- sở thanh toán.
Generated by Foxit PDF Creator â Foxit Software
For evaluation only.
342 ph.ăng-ghen
Tóm tắt tập I bộ "t bản" của C.Mác. chơng I 343
nơi nào mà một chuỗi những khoản thanh toán nối tiếp nhau và
hệ thống trang trải lẫn nhau nhân tạo đã phát triển đầy đủ. Khi
có những rối loạn phổ biến trong vận trình của cơ chế đó, dù là
những rối loạn đó phát sinh từ đâu, thì tiền đột nhiên và trực tiếp
trút bỏ hình thức là tiền kế toán thuần tuý trên ý niệm, biến
thành tiền kim loại và bây giờ thì tiền đã không thể thay thế đợc
bằng một hàng hóa thông thờng nữa (tr.99).
Tiền tín dụng nảy sinh từ chức năng của tiền là phơng tiện
thanh toán; bản thân những văn tự nợ cũng lu thông khi chúng
chuyển nợ từ ngời này sang ngời khác. Với sự phát triển của
tín dụng thì chức năng của tiền là phơng tiện thanh toán cũng
đợc mở rộng; với t cách là phơng tiện thanh toán, tiền có
đợc những hình thức tồn tại riêng của nó, chính là dới những
hình thức tồn tại này tiền tìm đợc vị trí cho mình trong lĩnh
vực giao dịch buôn bán lớn, trong khi đó thì tiền đúc bị đẩy chủ
yếu là vào lĩnh vực buôn bán nhỏ (tr.101).
Trong điều kiện nhất định, khi sản xuất hàng hóa đã phát
triển và đã đạt đợc quy mô đủ rộng, chức năng của tiền làm
phơng tiện thanh toán vợt ra ngoài giới hạn của lĩnh vực lu
thông hàng hóa. Tiền trở thành hàng hóa chung của các khế ớc.
Tô, thuế v.v. đợc chuyển từ chỗ nộp bằng hiện vật sang thanh toán
bằng tiền. Tham khảo nớc Pháp dới thời Lu-i XIV (Boa-ghin-
be và Vô-băng). ở châu á, Thổ Nhĩ Kỳ, Nhật v.v., thì trái lại
(tr.102).
Sự phát triển của tiền thành phơng tiện thanh toán đẻ ra sự
cần thiết phải tích luỹ tiền trớc các kỳ hạn thanh toán. Việc
tích trữ tiền với t cách là hình thức làm giàu độc lập biến mất
theo đà phát triển hơn nữa của xã hội, lại xuất hiện với t cách
là quỹ dự trữ các phơng tiện thanh toán (tr.103).
c) Tiền thế giới
Trong thanh toán quốc tế, tiền trút bỏ những hình thức địa
phơng của tiền đúc, tiền lẻ, ký hiệu giá trị, và tiền có mặt với
t cách là tiền thế giới chỉ dới hình thức các thỏi kim loại mà
thôi. Chỉ có trên thị trờng thế giới tiền mới làm đầy đủ chức
năng một thứ hàng hóa, mà hình thái tự nhiên của nó đồng thời
là hình thái xã hội trực tiếp của sự hoá thân của lao động con
ngời in abstracto
1*
. Phơng thức tồn tại của tiền trở thành thích
hợp với khái niệm của nó (tr.104; chi tiết trình bày ở tr.105).
_____________________________________________________________________________________________
1*- Dới dạng trừu tợng.
Generated by Foxit PDF Creator â Foxit Software
For evaluation only.