Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Xây dựng trang nhất báo sinh viên Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.71 MB, 29 trang )

Website:

Email :

Tel : 0918.775.368
đại học quốc gia Hà Nội
Trờng Đại học khoa học xã hội và nhân văn
Khoa Báo chí
---------------
Niên luận
xây dựng trang nhất báo sinh
viên Việt Nam
GVHD :
Sinh viên :
Lp :
Hà Nội:
Xây dựng trang nhất báo Sinh viên Việt Nam
Mục lục
Trang
Lời mở đầu 2
1. Lý do chọn đề tài 2
2. Tình hình nghiên cứu đề tài 3
3. Mục đích ý nghĩa của đề tài 4
4. Phơng pháp, phạm vi nghiên cứu của đề tài 5
5. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu: 5
Chơng I: Lý luận chung về phơng thức tổ chức trang nhất 6
1.1. Dẫn luận vấn đề 6
1.2. Mấy vấn đề về ma-két báo 7
1.2.1. Lịch sử vấn đề và khái niệm ma-két báo 7
1.2.2. Ngôn ngữ hình thức cơ bản của ma két báo chí 9
1.3. Vài nét về báo Sinh viên Việt Nam 16


Chơng II: Nghệ thuật xây dựng tổ chức trang nhất cho báo Sinh
Viên Việt Nam 17
2.1. Nghệ thuật lựa chọn thông tin 17
2.2. Nghệ thuật sáng tạo một hình thức thể hiện độc đáo 19
2.2.1 Bố cục, tổ chức vị trí tin bài 19
2.2.2 Nghệ thuật sắp chữ 22
2.2.3. Nghệ thuật sử dụng màu sắc 24
2.2.4. Nghệ thuật sử dụng kênh thông tin phi văn tự 25
2.3. Nguyên tắc khi thiết kế ma két trang nhất 27
Kết luận 30
Tài liệu tham khảo 32
2
Xây dựng trang nhất báo Sinh viên Việt Nam
Lời mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử báo chí Việt Nam đợc đánh dấu bởi sự xuất hiện của tờ Gia
Định báo (1865). Mặc dù ra đời muộn so với báo chí thế giới nhng chỉ với
hơn 1 thế kỷ hình thành và phát triển báo chí Việt Nam đã đạt đợc những
thành tựu to lớn góp phần vào công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Với
chức năng định hớng, quản lý và thông tin giải trí, báo chí Việt Nam đã trở
thành phơng tiện cung cấp thông tin không thể thiếu trong đời sồng hằng
ngày.
Trong kỷ nguyên thông tin ngày nay, con ngời sống mà không thể
không có thông tin. Các phong tiện truyền thông đại chúng với trang thiết
bị hiện đại đã thâm nhập vào mọi lĩnh vực của đời sống. Để đảm bảo nhu
cầu thông tin của công chúng, báo chí và các phơng tiện thông tin đại
chúng phải đợc tăng cờng hơn nữa cả về chất luợng và số lợng. Báo chí thế
giới và báo chí Việt Nam đều đang tự chuyển mình, có những bớc tiến đáng
kể.
Mặc dù còn nhiều ý kiến trái ngợc nhau nhng báo chí vẫn đợc coi là

1 loại hàng hoá đặc biệt, hoạt động của báo chí vừa mang mục đích chính
trị lại vừa mang mục đích kinh tế. Một khi đã coi báo chí là hàng hoá thì ắt
hẳn nó phải chịu tác động của yếu tố cạnh tranh. Thời đại bùng nổ thông tin
hiện nay cũng đã làm xuất hiện và phát triển các yếu tố cạnh tranh trong
thông tin. Ngời tiếp nhận thông tin thực sự lúng túng trớc hàng núi thông tin
hằng ngày, làm sao để tờ báo của mình thu hút đông đảo ngời đọc là yếu tố
sống còn của các cơ quan báo chí.
Tính hiệu quả của báo chí chính là mức độ tác động ảnh hởng của
nó tới bạn đọc, là tổng hoà những kết quả cur yếu tố hình thức và nội dung.
Nội dung hay nóng hổi hấp dẫn mang tính thời sự là yếu tố quan trọng nhng
cha phải là duy nhất, hình thức của tờ báo chính là yếu tố nhãn quan khiến
3
Xây dựng trang nhất báo Sinh viên Việt Nam
độc giả quyết định bỏ tiền ra mua tờ báo. Trang nhất của tờ báo vì vậy cũng
có vai trò vô cùng quan trọng, nó ví nh mặt tiền của một công trình kiến
trúc. Tất cả những gì đẹp nhất, hay nhất, riêng biệt nhất đều đợc tập trung ở
đây. Nghiên cứu và tìm hiểu trang nhất của tờ báo không chỉ là yêu cầu của
những nhà lý luận báo chí mà nó còn có ý nghĩa thiết thực đối với sự tồn tại
lâu dài của cơ quan báo chí.
Tờ Sinh viên Việt Nam hiện nay đã thực sự tạo cho mình một phong
cách trình bày trang nhất riêng biệt. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra đối với trang
nhất của Sinh viên Việt Nam hiện nay là làm thế nào để có một hình thức
thể hiện tiến kịp sự phát triển của thời đại, phù hợp với nội dung, nâng cao
nội dung của tờ báo? Đây chính là cơ sở để tôi lựa chọn đề tài: Phơng
thức tổ chức trang nhất trên báo Sinh viên Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Mặc dù lịch sử báo chí Việt Nam đã trải qua hơn 130 năm phát triển,
thực tiễn báo chí đã có nhiêù thành tựu đáng kể nhng lý luận báo chí hầu
nh phát triển còn chậm. Cho đến nay, mới có khoảng 60 công trình lý luận
báo chí học. Gần đây có một số tài liệu, công trình nghiên cứu đợc công bố

nh giáo trình, bài giảng nghiệp vụ, sách lý luận của Khoa báo chí Đại học
Khoa học xã hội và Nhân văn, của Phân viện Báo chí và Tuyên truyền.
Gần đây đã có những nghiên cứu khoa học của sinh viên nghiên cứu
về ma két báo: 1. Miêu tả Ma két của báo in bằng văn tự tợng hình-
Nông Thị Loan; 2- Ma két báo chí tiếng việt hiện thời những vấn đề cần
thảo luận- Lu Thiên Hơng, K39 Báo chí, Trờng ĐHKHXH và
NV.3-Ngôn ngữ ma két trên báo Lao động 2000- 2003- Hoàng Lệ
Quyên- K45 Báo chí, Trờng ĐHKHXH và NV. Đăc biệt cuốn sách Tổ
chức nội dung và trình bày báo in của tác giả Hà Huy Phợng- Phân viện
4
Xây dựng trang nhất báo Sinh viên Việt Nam
báo chí và tuyên truyền đã cung cấp những kiến thức ban đầu khá đầy đủ về
trình bày báo in.
Tuy nhiên thực tế cho thấy những kiến thức về ma két nhìn chung
vẫn còn ít so với nhu cầu nâng cao chất lợng ma két hiện nay của báo chí
Việt Nam.
Hiện nay, không ít những ngời làm công tác trình bày makét ở các
báo hiện nay làm việc chủ yếu dựa vào kinh nghiệm cá nhân, vào sự truyền
nghề của những ngời đi trớc, vào sự tự mày mò mà thiếu hẳn đi kiến thức
khoa học làm chỗ dựa cho công việc. Sự nghèo nàn lạc hậu về trang thiết bị
kỹ thuật, hời hợt về kiến thức khoa học đã hạn chế rất nhiều hiệu quả của
công tác trình bày makét báo, ảnh hởng không nhỏ tới sự phát triển chung
của báo chí.
3. Mục đích, ý nghiã của niên luận
a. Mục đích
Niên luận lần đầu khảo sát thực tiễn vấn đề cách trình báy trang nhất
của tờ Sinh viên Việt Nam với mục đích tìm ra kinh nghiệm trong cách
trình bày trang nhất của tờ báo. Qua từng phần niên luận sẽ đề cập đến các
lĩnh vực nội dung và hình thức của trang nhất, mối quan hệ giữa nội dung
và hình thức trình bày.

Bằng quá trình khảo sát thực tế niên luận mạnh dạn rút ra những
nhận xét, đánh giá về thực trạng tình hình trình bày trang nhất của báo Sinh
viên Viêt nam hiện thời. Qua đó cũng nêu lên những đề đạt, kiến nghị nhằm
nâng cao chất lợng hình thức của tờ báo
b. ý nghĩa thc tiễn của niên luận
Việc đi sâu vào tìm hiểu makét trang nhất của báo Sinh viên Việt
Nam hiện thời có ý nghĩa thực tiễn trong công việc nhằm nâng cao hơn nữa
5
Xây dựng trang nhất báo Sinh viên Việt Nam
chất lợng hình thức tranh nhất và tờ báo nói chung, đồng thời cũng nâng
cao hiệu quả báo chí của cơ quan báo chí.
4. Phạm vi nghiên cứu, giới hạn đề tài
Mặc dù đề tài của niên luận là nghiên cứu khảo sát thực trạng của
phuơng thức tổ chức trang nhất của báo SVVN nhng do điều kiện thời gian
có hạn nên niên luận chỉ tập trung khảo sát những số báo phát hành trong
năm 2005 và 2006.
Niên luận chỉ tập trung nghiên cứu toàn bộ các yếu tố cấu thành nên
trang nhất, chỉ khảo sát tuân báo, không khảo sát phụ lục, phụ san, hay các
ấn phẩm khác.
5. Cơ sở lý luận và phơng pháp nghiên cứu:
- Niên luận đợc nghiên cứu trên cơ sở kết hợp lý luận triết học Mác-
Lênin, quan điểm báo chí chủ nghĩa Mác-Lênin và t tởng Hồ chí Minh cùng
đờng lối báo chỉ của Đảng trong giai đoạn hiện nay.
- Phơng pháp nghiên cứu, thu thập xử lý thông tin, tài liệu, phân tích
so sánh qua đó làm nổi bật trọng tâm nghiên cứu. Trong niên luận có sự kết
hợp của lý luận và thực tiễn; sự tiếp xúc làm việc với hoạ sĩ trình bày của
báo SVVN, trực tiếp trao đổi ý kiến với một số giảng viên makét.
6
Xây dựng trang nhất báo Sinh viên Việt Nam
Chơng I: Lý luận chung về phơng thức tổ chức trang nhất

1.1. Dẫn luận vấn đề
Nội dung và hình thức là hai yếu tố của cặp phạm trù cơ bản. Mỗi sự
vật hiện tợng đang tồn tại và phát triển phải có nội dung và hình thức. Trong
đó nội dung là sự tổng hợp tất cả những mặt yếu tố, quy luật tạo nên sự vật,
hình thức là phơng thức tồn tại của sự vật, là hình thức các mối quan hệ t-
ơng đối bền vững giữa các yếu tố của nó. Không một không chứa nội dung
và không một nội dung nào không tồn tại dới một hình thức.
Trong tác phẩm báo chí, nội dung tác phẩm sâu sắc mới là điều kiện
tạo nên chất lợng báo chí hấp dẫn ngời đọc và hình thức là điều kiện để
hoàn thiện tác phẩm báo chí đó. Hình thức báo chí là khâu cuối cùng trong
hoạt động sáng tạo bao chí, nâng cao chất lợng báo chí lên mức tối đa. Đảm
bảo yêu cầu về kỹ thuật, mỹ thuật nối liền tác gỉa và công chúng.
Nội dung có tính chất quyết định hình thức, nội dung thay đổi sẽ kéo
theo hình thức thay đổi. Trong báo chí cũng vậy, nội dung tin bài có vai trò
quyết định ma-két của tờ báo đó về cách bố cục sắp xếp ( mỗi ngày một
luợng tin bài khác nhau nên đòi hỏi những cách sắp xếp linh hoạt khác nhau
trên mặt báo) cả tinh thần tính cách của tờ báo.
Đối với báo chí cũng nh các lĩnh vực khác, nội dung luôn luôn phải
là yếu tố quyết định. Ngời đọc mua báo để đọc, để tìm những thông tin tiếp
nhận thông tin chứ không phải mua để xem, không phải vì tờ báo đẹp hay
sặc sỡ. Nhng hình thức có tính độc lập tơng đối, có tác động trở lại nội
dung. Một tờ báo in đẹp rõ ràng sáng sủa sẽ lôi cuốn ngời đọc tạo cho có ấn
tợng tốt và sự tin tởng vào nội dung bài báo.
1.2. Mấy vấn đề về makét báo
1.2.1 Lch sử vấn đề và khái niệm ma-két báo
7
Xây dựng trang nhất báo Sinh viên Việt Nam
Mặc dầu gần đây có những cách gọi thời thợng từ tiếng Anh nh
Design, Layout hay nh cách gọi rất Việt Nam nh trình bày báo nhng chúng
vẫn không đủ sức làm mờ thuật ngữ nghề nghiệp makét (maquette) vốn đã

quá quen thuộc trong làng báo chí xuất bản Việt Nam từ những năm
cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 đến nay. Thậm chí, thuật ngữ phiên âm này
không chỉ sinh thành và tồn tại hữu ích với lịch sử báo in trải qua các công
nghệ in truyền thống mà ngay cả giờ đây khi các cơ quan báo chí đã sử
dụng công nghệ in la-ze ( in vi tính) cho sản phẩm báo chí thì ma-két vẫn đ-
ợc dùng phổ biến và quen thuộc.
Xung quanh thuật ngữ ma-két cho đến nay cha có cách hiểu hoàn
toàn thống nhất. Điều này có nguyên nhân khách quan của nó. Đó là, nó
không chỉ là thuật ngữ riêng cho ngành xuất bản- báo chí mà, nh đã biết
nhiều ngành nghề chuyên môn kỹ thuật, mỹ thuật, nghệ thuật cũng dùng từ
này. Cố nhiên những ngành đó gọi tên thông dụng của thuật ngữ này dờng
nh phù hợp với từng ngành, chẳng hạn: bản vẽ, bản thiết kế ( đối với kiến
trúc, cơ khí chế tạo máy..) mô hình mẫu ( trong điêu khắc)... Tuy nhiên, ở
một vài lĩnh vực khác nh nghệ thuật đồ hoạ ứng dụng thì thuậ ngữ phiên âm
ma-két lại dùng khá phổ biến: ma-két ca-ta-lô, ma-két bao bì, ma-két áp
phích quảng cáo. Do vậy, nếu tra từ điển chúng ta sẽ gặp những định nghĩa
không giống nhau về nội hàm khái niệm. Từ điển tiếng Việt định nghĩa:
ma-két là: 1. Mẫu vẽ hoặc mô hình của vật sẽ chế tạo.2. Mẫu dự kiến về
hình thức trình bày một bản in. Còn theo bản Pháp Việt từ điển thì: ma-
két là 1.Mẫu mô hình đồ chạm. 2. Mẫu vẽ trang sức.3. Tợng nhỏ của hoạ
sĩ dùng làm kiểu. 4. Mẫu trang sức đồ án mô hình.
Để có thể hiểu khái niệm này trong phạm vi lĩnh vực xuất bản- báo
chí, có thể hiểu ma-két là bản mẫu chỉ dẫn cho một ấn phẩm dự kiến về ph-
ơng diện hình thức của nó ( bố cục, chất liệu, màu sắc, kích cỡ).
Ma-két có vai trò rất quan trọng đối với bất kỳ ấn phẩm nào, trong đó
có báo chí. Ma két có lịch sử gắn chặt với lịch sử phát triển của báo in. Quá
8
Xây dựng trang nhất báo Sinh viên Việt Nam
trình phát triển của kỹ thuật in, từ bản gỗ ( Xylogrphine), in thạch bản
( Lythographic), in cao su ( Flexographie), cho đến in bản đúc, in ảnh

( Phototypie) và sau này là in ti-pô và in op-xét ( Offset), đều cần đến ma-
két và đã nâng nó lên theo đà phát triển của công nghệ in. Đặc biệt, với sự
ra đời của máy điện toán, kỹ thuật chế bản điện tử cực kỳ đa dạng về hình
thức, kiểu dáng chữ, độ nét và độ phân giải màu sao... đã đa ma-két lên một
trình độ mới cả về mũ thuật và kỹ thuật.
Bất kỳ một số báo nào ( dù là nhật báo, tuần báo..) trớc khi đa ra in
đều phải đợc làm ma-két. Công việc này gằn với từng số báo, với từng cơ
quan báo chí cùng với chiều dài lịch sử của tờ báo đó. Mặt khác, ma-két và
việc làm ma-két có vai trò quan trọng đáng kể đối với một sản phẩm báo
chí. Chúng không chỉ đơn thuần là các thao tác nghiệp vụ mà rất cần sự soi
sáng bằng cơ sở khoa học, ít ra là các bình diện: báo chí học, đồ hoạ, công
nghệ in, tâm lí thị hiếu thẩm mỹ công chúng báo chí. Về phơng diện lý luận
chúng ta vẫn cha đủ cơ sở để đánh giá ma-két báo chí Việt Nam, để so sánh
hoặc tạo giải pháp cho các tiêu chí, những yêu cầu đáp ứng thị hiếu thẩm
mỹ công chúng báo chí nhằm đạt hiệu quả cao trong cung cấp thông tin cho
họ. Về phơng diện thực hành, mỗi cơ quan báo chí có đội ngũ làm báo chí
riêng vốn là những ngời có tri thức đồ hoạ là chủ yếu nên nhìn vào ma-két
của mỗi tờ báo không chỉ nhận ra cái gu đơng nhiên của tờ báo mà còn
có thể thấy ngay đợc thế mạnh và bất cập của nó về ma-két. Những bất cập
này dù muốn hay không đều làm giảm đáng kể hiệu quả cấp thông tin cho
độc giả. Và chính vì chúng ta cha có những công trình bài viết nghiên cứu
về ma-két Việt Nam cho độc giả Việt Nam nên những bất cập nh thế không
dễ gì khắc phục đợc.
Để có cái nhìn khá toàn diện về ma-két báo Việt Nam, thì ngoài việc
xác định các yếu tố chi phối nó nh: đặc thù của báo chí nớc ta, đặc thù của
công chúng báo chí nớc ta về phơng diện trình độ văn hoá, thẩm mỹ, đặc
thù của đội ngũ những ngời làm báo ( trong đó có những ngời chuyên
9
Xây dựng trang nhất báo Sinh viên Việt Nam
nghiệp ma-két báo chí) cần phải tính đến bối cảnh lịch sử xã hội của từng

thời kỳ. Điều đó có nghĩa cần phải xem xét báo chí Việt Nam theo cách
nhìn lịch đại ( theo tiến trình lịch sử của nó). Chẳng hạn, ít nhất phải khảo
sát ma-két báo chí trong quá trình định hình tính truyền thống của nó: trong
những năm xuất hiện đến 1925, từ 1925 đến 1945, từ 1945-1975, từ 1975-
1986 và từ 1986 đến nay.Đây là thời kỳ phát triển mạnh mẽ của ma-két báo
chí cùng với sự phát triển vợt bậc của kỹ thuật in op-sét và máy tính điện tử.
Đặc biệt là thời kỳ này ma-két báo chí Việt Nam chịu nhiều ảnh hởng chọn
lọc tính hiện đại của ma-két báo chí một số nớc ( Pháp, Thuỵ Sỹ, Thuỵ
Điển..). Mặt khác, ma-két báo chí Việt Nam cũng cần phải đợc hiểu là theo
cách nhìn kết hợp tính truyền thống và tính hiện đại, cũng nh cách nhìn cần
tìm một lối đi làm thành bản sắc, phong cách cho ma-két báo chí nớc nhà,
để có thể tiếp thu đợc tính hiện đại từ báo chí nớc ngoài nhng không rơi vào
mô phỏng hay sao chép.
1.2.2 Ngôn ngữ hình thức cơ bản của ma-két báo chí
Ngôn ngữ hình thức của ma-két báo chí thực chất là các yếu tố cầu
thành ma-két và việc trình bày ma-két phụ thuộc rất nhiều vào việc sử dụng
chúng. Các yếu tố đó là : khổ báo, măng-sét manquette), chữ, phi-lê(filet),
vi-nhet (vignette), khung, nền, ảnh minh hoạ, màu sắc.
- Khổ báo: bao gồm hai phần: phần lề và phần bát chữ.
Phần lề là phần trắng chạy bốn xung quanh trang báo, bọc lấy phần
bát chữ. Độ rộng hẹp dài ngắn của lề phụ thuộc vào khổ báo nói chung.
Phần bát chữ là phần in chữ có kích thớc ngang và dọc nhất định tuỳ
thuộc vào khổ báo, sau khi đã trừ đi phần lề. Các khổ báo khác nhau sẽ tạo
nên các bát chữ không nh nhau. Mỗi bát chữ đều đợc chia thành những cột
báo và số cột và kích thớc cột cũng phụ thuộc vào kích thớc bát chữ. Ngoài
ra, việc chia độ rộng hẹp của cột báo cũng phải tính đến yếu tố tâm lý và
tốc độ đọc, độ dễ đọc đối với từng độc giả và đối với từng phông chữ chính
văn mà tờ báo đã chọn.
10
Xây dựng trang nhất báo Sinh viên Việt Nam

Nói chung, khổ báo là yếu tố ổn định, có nghĩa là rất ít khi thay đổi
( trừ trờng hợp cần thiết). Đối với những ấn phẩm khác của cùng một tờ báo
cùng một cơ quan báo chí thì khổ báo có thể khác nhau ( ví dụ nh tuần báo,
nhật báo, phụ san, nguyệt san...)
Khoảng cách giữa các cột ổn định la 5mm đối với tất cả các khổ báo
và khoảng trống 5mm đôi khi có thể thêm một phi-lê mảnh để sự phân chia
trở nên rõ ràng hơn.
- Măng-sét( manchette): Là phần in co chữ lớn nhất trong tờ báo,
nằm ngay đầu trang nhất. Thông thờng măng sét thờng bao gồm các
thành tố sau:
- Tên báo: hầu hết mỗi măng-sét chỉ có 1 tên báo bằng một thứ ngữ
nhng cũng có tên báo bằng 2 ngữ, ví dụ: khoa học va phát triển, Quốc tế,
Công nghiệp Việt Nam...
- Cơ quan chủ quản
- Năm ra số báo, số thứ tự, ngày tháng phát hành, chỉ số địa chỉ
Ngoài ra, tuỳ thuộc vào từng tờ măng-sét có thể thêm một vài thông
tin yếu tố khác nh huân huy chơng ( trên báo Nhân dân, Lao động, Công an
nhân dân..).
Vì báo chí Việt Nam không cho phép quảng cáo trên măng-sét ngoại
trừ măng-sét phụ ( tờ Thời báo kinh tế Việt Nam) cho nên nó không phải là
một yếu tố của măng-sét.
Thậm chí ở một số tờ còn ghi cả gía tiền nh: Tuổi trẻ, Thanh niên,
Sinh viên Việt Nam...
Toàn bộ măng sét đợc ngăn cách với chính văn của bát chữ bằng fi-
lê.Việc dùng fi-lê này rất đa dạng phụ thuộc vào măng sét của từng báo, đ-
ợc bố cục thế nào chạy hết khổ ngang của trang hay chỉ 2/3 hay 1/3 lệch
sang trái hay sang phải hay nằm ở giữa, tuỳ vào mằu sắc của trang báo.
11
Xây dựng trang nhất báo Sinh viên Việt Nam
Thông thờng, cỡ chữ tên báo là cỡ chữ lớn nhất trong măng sét, đồng

thời cũng là co chữ lớn nhất trên toàn bộ số báo. Tuy nhiên, trong những tr-
ờng hợp thật đặc biệt, với những sự kiện cực kỳ quan trọng hoặc cần tạo
một sự chú ý của độc giả thì tít chữ có thể đợc đăng với co chữ lớn hơn co
chữ tên báo. Những trờng hợp nh thế nhìn chung với báo chí Việt Nam rất
hiếm.
- Chữ : suốt một thời gian dài báo chí ngắn chặt vơí công nghệ in
tipô, theo đó hàng loạt kiểu chữ cỡ chữ đã quen thuộc với độc giả nh: gô-
tích, cen, bôđôni...Với những cỡ chẵn 8, 10, 12,24... Công nghệ in laze đã
cống hiến hàng ngàn kiểu chữ hết sức đa dạng và phong phú. Chúng có sẵn
ở trong máy điện toán, vấn đề chỉ còn là ở chỗ hiểu chúng thế nào để khai
triển chúng có hiệu quả cho báo chí. Đối với báo chí nói riêng chữ đợc thể
hiên dới 2 dạng : chữ tít và chữ chính văn.
Chữ tít: trớc hết nh đã nói ở trên có rất nhiều loại tít khác nhau( tít
mũ, tit chính, tít phụ. tit dẫn...). Tuy nhiên, chúng thờng đợc đặt ở 3 ví trí,
đó là: đặt ở đầu bài, đặt ở giữa bài, và đặt lọng ở trong ảnh hoặc tranh minh
hoạ. Thông thờng mỗi bài có một tít chính, song cũng có nhiều bài dùng
đến hơn một tít phụ, có khi chỉ là tít phụ dới, đôi khi còn dùng cả tít phụ
trên và tít phụ dới... Mỗi loại tít nh vậy và ở mỗi vị trí nh thế, đợc dùng
riêng rẽ hay kết hợp đòi hỏi việc lựa chọn cho chúng một kiểu chữ, cỡ chữ
riêng để tạo một phong cách cho tờ báo với một hiệu quả thẩm mỹ riêng,
gơi cảm xúc riêng cho độc giả.
Đối với chữ tít vấn đề đảm bảo khoảng cách là rất quan trọng. Nhìn
chung nó cần đảm bảo ba khoảng cách sau:
+ Khoảng cách chữ : khoảng cách giữa các con chữ trong một âm
tiết, từ đơn. Khoảng cách này phải đủ rộng sao cho các chân chữ không
chạm nhau.
12

×