Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

RỐI LOẠN CƯƠNG ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.4 KB, 18 trang )

RỐI LOẠN CƯƠNG

TÓM TẮT
Mục tiêu: Rối loạn cương thường gặp ở bệnh nhân nam với tỷ lệ khá
cao. Tại Việt Nam, vì nhiều lí do mà bệnh nhân thường ít tự lưu ý đến hoặc
ít được quan tâm. Bài báo này xin trình bày những thống kê thu thập được
trong năm 2006 ở khoa Niệu A bệnh viện Bình Dân.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Đây là phương pháp nghiên
cứu tiền cứu, mô tả cắt ngang trên 112 bệnh nhân nam trên 40 tuổi, nội trú ở
khoa Niệu A bệnh viện Bình Dân năm 2006.
Kết quả: Tỷ lệ rối loạn cương ở những bệnh nhân này là 33,9%.
Nhóm tuổi thường gặp nhất là 41-50 tuổi. Đa số bệnh nhân đã nghỉ hưu. Khi
có những bệnh nội-ngoại khoa kèm theo như tiểu đường, suy thận thì tỷ lệ
rối loạn cương tăng lên rõ rệt, trong khi những bệnh nhân có liên quan tới
nội tiết thì tỷ lệ rối loạn cương tăng không rõ ràng.
Kết luận: Việc điều trị cho bệnh nhân trước khi đến khám thì rất đa
dạng. Bên cạnh đó, sự hiểu biết chưa đúng về bệnh cũng góp phần khó khăn
cho bệnh nhân khi đến với thầy thuốc chuyên khoa. Những nghiên cứu về
dịch tể học mở rộng tri thức chúng ta về những dân số nguy cơ rối loạn
cương. Từ đó, các kế hoạch chẩn đoán, điều trị cũng như phòng chống căn
bệnh này có thể trở nên chuẩn mực hơn khi dựa trên những nghiên cứu dó.
ABSTRACT
Objective: Erectile dysfunction is usually seen in male patients with
high rate. In Viet Nam, for many reasons, patients are rarely taken care or
take care of themselves. In this paper, we present data collected at the
Department of Urology A, Binh Dan hospital, in 2006.
Patients and Methods: This was a crossectional descriptive
propective study on 112 patients aged more than 40 years old and admitted
for other urological problems, at the Department of Urology A, Binh Dan
hospital, in 2006.
Results: The most mean age was 41-50 years old. The majority were


retired people. Patients with medical-surgical deseases such as diabetes,
renal failure were obviously seen with high rate of erectile dysfunction.
Otherwise, the prevalence of patients with endocinological dysfunction was
not high.
Conclusions: The previous treatments are variable before admitted.
More over, the misunderstanding of disease contributed to patients lack of
specialists consultations. Epidemiologic study has increased understanding
of the population of risk for erectile dysfunction. Strategies for diagnosing,
treating, and preventing this disorder can become more defined base on this
information.
ĐẶT VẤN ĐỀ
Rối loạn cương (RLC) còn được gọi là bất lực, yếu sinh lí, nhược
dương, liệt dương, thiểu năng sinh dục thường gặp ở bệnh nhân nam với tỷ
lệ khá cao
(5)
. Theo những nghiên cứu đã được báo cáo thì tần suất bệnh này
tăng dần theo tuổi đặc biệt là nam giới trên bốn mươi tuổi
(1)
. Tại Việt Nam,
đa số bệnh nhân bị rối loạn cương thường giấu tất cả những người thân, có
khi cả với thầy thuốc về bệnh tật của mình.
Tại khoa Niệu A bệnh viện Bình Dân, thành phố Hồ Chí Minh, số
bệnh nhân nằm viện tại đây rất đông. Những bệnh nhân này đa số mắc các
bệnh niệu và từ trước đến nay chưa có một công trình nghiên cứu nào về tần
suất của rối loạn cương ở những bệnh nhân này. Do đó chúng ta chưa có cái
nhìn tổng quát về suất độ của bệnh, đặc biệt là những bệnh nhân trên 40 tuổi.
Chúng tôi hi vọng nghiên cứu này sẽ giúp chúng ta có cái nhìn khái
quát về rối loạn cương ở những bệnh nhân trên 40 tuổi, nội trú ở khoa Niệu
A bệnh viện Bình Dân. Từ đó chúng ta có thể áp dụng các phương pháp
chẩn đoán và điều trị triển khai một cách qui cũ

(10)
cũng như sẽ có chế độ
chăm sóc đặc biệt của ngành Nam Khoa cho những bệnh nhân này.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đây là số liệu bệnh nhân nội trú ở khoa Niệu A bệnh viện Bình
Dân. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu trên 112 bệnh nhân nhập viện trong
năm 2006.
2. Bệnh nhân được tiến hành các bước như sau:
- Hỏi bệnh sử, các chi tiết thật và không thật của bệnh.
- Điều tra về nghề nghiệp, hoàn cảnh, thói quen
- Thăm khám tổng quát và chuyên khoa, chẩn đoán bệnh.
- Xét nghiệm:
+ Sinh hóa máu: đường huyết, urê, creatinine.
+ Đo ECG.
+ Testosterone.
3. Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang
4. Phương tiện nghiên cứu:
- Phiếu thu thập số liệu: sử dụng bảng câu hỏi đánh giá mức độ rối
loạn cương theo Hội Nghị Quốc Tế Lần Thứ Nhất (Paris, 1999)
- Chương trình phần mềm thống kê SPSS 11.5
KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN
Tỷ lệ rối loạn cương

SỐ
LƯỢNG
TỶ
LỆ %
Không
RLC
74 66.1%


RLC 38 33.9%

TỔNG

112 100
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tổng số bệnh nhân bị RLC là 38/ 74
bệnh nhân chiếm 33,9%. Kết quả này cũng phù hợp vì theo các y văn trong
và ngoài nước thì tỷ lệ bệnh nhân bị RLC trên 40 tuổi đều trên 30%.
Độ tuổi và rối loạn cương

TUỔI

41-
50
51-
60
61-
70
71

TỔN
G
S
ố lượng

2 4 10 22 38
RLC
T
ỷ lệ %

5,1
%
21,1
%
37,0
%
81,5
%
33,9
%
S
ố lượng

37 15 17 5 74
Khô
ng RLC
T
ỷ lệ %
94,9
%
78,9
%
63,0
%
18,5
%
66,1
%
S
ố lượng


39 19 27 27 112
TỔ
NG

T
ỷ lệ %
100
%
100
%
100
%
100
%
100
%
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tuối thường gặp nhất là 41-50. Tuổi
nhỏ nhất là 41 và tuổi lớn nhất là 91. RLC ở độ tuổi 41-50 chỉ là 5,1%
nhưng ở độ tuổi trên 70 thì đã lên đến 81,5%.
Kết quả cho thấy tỷ lệ RLC càng lớn khi tuổi càng cao
(8)
có lẽ khi trên
40 tuổi, người đàn ông bắt đầu nhận thức dược sự già đi của mình, gánh
nặng năm tháng kèm theo những lo toan trong cuộc sống khiến họ dễ bị
RLC hơn
(10)
. Tuổi thường gặp nhất là 41-50 cũng rất phù hợp vì đối tượng
nghiên cứu của chúng tôi là nam giới trên 40 tuổi.
Nghề nghiệp và rối loạn cương (RLC)

RLC Cương TỔNG

S

lượng

Tỷ
lệ %
S

lượng

Tỷ
lệ %
S
ố lượng

Tỷ
lệ %
Bu
ôn bán
1
5,9
%
1
6
94,
1%
1
7

100
%

ng nhân

0
0%

7
100
%
7

100
%
C
NV
0
0%

1
4
100
%
1
4
100
%
NG
HỀ

H
ưu
3
1
58,
5%
2
2
41,
5%
5
3
100
%

ng dân
6
28,
6%
1
5
71,
4%
2
1
100
%
TỔNG
3
8

33.
9%
7
4
66.
1%
1
12
100
%
Trong nghiên cứu của chúng tôi, đa số là người nghỉ hưu không làm
việc (53 người). Số còn lại là Công nhân, Công nhân viên, Buôn bán và
Nông dân. Kết quả như vậy là vì đối tượng nghiên cứu của chúng tôi trên 40
tuổi nên số người nghỉ hưu nhiều là hợp lí.
Tỷ lệ RLC trên những bệnh nhân này cũng rất khác nhau. Người nghỉ
hưu có tỷ lệ cao nhất (58,5%). Ở nhóm nghỉ hưu, bản thân họ đã là những
người lớn tuổi nên tỷ lệ RLC gia tăng theo tuổi là phù hợp.
Tuy nhiên chúng tôi nghĩ kết quả trên chưa phản ánh đúng đúng mức
về nghề nghiệp như những y văn khác là nghề nghiệp trí óc thường đem lại
nhiều stress hơn nên dễ bị RLC
(10)
.
Bệnh niệu mắc phải

RLC
KHÔNG
RLC
T
ỔNG
Bướu

TTL
23
(63,9%)
13
(36,1%)
36
Sạn
NQ

1
(4,3%)
22
(95,7%)
23
Sạn
thận
4
(23,5%)
13
(76,5%)
17
Bướu
BQ
3
(33,3%)
6
(66,7%)
9
TVB 2
(66,7%)

1
(33,3%)
3
Dãn
TMTT
1
(50%)
1 (50%)

2
Bệnh
khác
10
(45,5%)
12
(54,5%)
22
T
ỔNG
44
(39,3%)
68
(60,7%)
112
Trong kết quả nghiên cứu của chúng tôi, bướu TTL và sỏi niệu chiếm
đa số bởi vì đối tượng của chúng tôi là nam giới trên 40 tuổi ở khoa Niệu
của bệnh viện nên tỷ lệ bệnh nhân này chiếm đa số là hợp lí.
Tỷ lệ RLC trên bệnh nhân BTTL cũng chiếm rất cao (63,9%), sạn
thận 23,5%. Các bệnh khác như dãn TM thừng tinh, thoát vị bẹn, bướu BQ
cũng có tỷ lệ RLC đáng kể.

Testosterone và RLC

TESTOSTERONE

TES
T thấp
TES
T bình
thường
TES
T tăng
TỔ
NG
S

lượng
2 17 19 38
RL
C
T
ỷ lệ %

40,0
%
21,8
%
65,5
%
33.9
%

CƯƠ
NG

Kh
S
3 61 10 74

lượng
ông RLC
T
ỷ lệ %

60,0
%
78,2
%
34,5
%
66.1
%
S

lượng
5 78 29 112

TỔNG
T
ỷ lệ %

100.

0%
100,
0%
100,
0%
100,
0%
Theo kết quả nghiên cứu của chúng tôi, trong số 112 BN thì có 4,5% test
thấp, 69,6% test bình thường, 25,9% test tăng. RLC trong nhóm test tăng là 19/
29 (65,5%), RLC trong nhóm test bình thưòng là 17/ 78 (21,8%) và nhóm test
thấp là 2/ 5 (40%).
Trong nhóm test tăng thì đa số họ là những người cao tuổi. Kết quả
này chưa phù hợp vì theo các y văn thì nam giới tuổi càng cao thì nồng độ
test càng giảm.
Mặt khác, khi chúng tôi thực hiện nghiên cứu ở bệnh viện Bình Dân,
máy xét nghiệm ban đầu phân loại test bình thường là 2,25 – 9,72 nanogram/
ml. Sau đó may bị hư và máy xét nghiệm sau thì phân loại test bình thường
là 1,56-8,77 nanogram/ ml. Do đó, có nhiều bệnh nhân xếp vào nhóm test
tăng là chưa hợp lí.
Trong nhóm test giảm có 2/ 5 (40%) bị RLC. Kết quả này có lẽ chưa
phù hợp vì số lượng bệnh nhân quá ít (chỉ có 5 bệnh nhân). Nếu nghiên cứu
trên số lượng bệnh nhân lớn hơn thì kết quả nghiên cứu có thể khác vì chúng
ta biết rằng test có vai trò quan trọng trong hoạt động tình dục của nam giới.
Glucose máu và RLC



Glucos
e bình
thường

Glucos
e tăng
TỔN
G
S
ố lượng

20 18 38
RLC

T
ỷ lệ %
29,4%

40,9%

33,9%

CƯƠN
G
Khôn
S 48 26 74
ố lượng

g RLC
T
ỷ lệ %
70,6%

59,1%


66,1%

S
ố lượng

68 44 112
TỔNG
T
ỷ lệ %
100,0
%
100,0
%
100,0
%
Theo kết quả nghiên cứu của chúng tôi, RLC trong nhóm Glucose
máu bình thường là 20/ 68 (29,4%) trong khi RLC ở nhóm Glucose máu
tăng là 18/ 44 (40,9%).
Kết quả này cũng phù hợp với các y văn trong và ngoài nước là tỷ lệ
RLC ở những người bị tiểu đường cao hơn những người không bị tiểu
đường
(6)
. Tuy nhiên khi thực hiện nghiên cứu này chúng tôi dùng SPSS kiểm
định thì p>5% nên chưa có ý nghĩa thống kê.
Creatinine máu và RLC

CREATININ MÁU

Creatini Creatini

TỔN
G
ne bình
thường
ne tăng
S
ố lư
ợng
14 24 38
RLC

T
ỷ lệ %

28,6% 38,1%
33.9
%
S
ố lư
ợng
35 39 74
CƯƠ
NG

Cươ
ng
T
ỷ lệ %

71,4% 61,9%

66.1
%
S
ố lư
ợng
49 63 112
TỔNG
T
ỷ lệ %

100.0% 100,0%
100,0
%
Theo kết quả nghiên cứu của chúng tôi, RLC trong nhóm Creatinine
bình thường là 14/ 49 (28,6%) và RLC trong nhóm Creatinine tăng là 24/ 63
(38,1%).
Tuy nhiên trong số 63 bệnh nhân tăng Creatinine thì chỉ có 60,3% là
có suy thận thật sự, số bệnh nhân còn lại thì chỉ có tăng Creatinine đơn thuần
mà không có suy thận.
Urê máu, Creatinine máu và RLC

Urê
bình
thường
Urê
tăng
RLC 14 0
Creatinine
bình thường
Không

RLC
33 2
RLC 7 17
Creatinine
tăng
Không
RLC
18 21
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi, RLC trong nhóm Urê máu bình
thường là 21/ 72 (29,2%) và trong nhóm Urê máu tăng là 17/ 40 (42,5%).
Trong nhóm tăng cả Urê và Creatinine thì RLC là 44,7% trong khi nhóm
Urê và Creatinine bình thường thì chỉ có 29,8%.
Qua kết quả này cũng nói lên rằng tỷ lệ bệnh nhân bị RLC ở nhóm
suy thận cao hơn nhóm không suy thận. Tuy nhiên kết quả này cũng chưa có
ý nghĩa thống kê vì p>5%.
Mức độ RLC
RLC
Nhẹ Vừa Nặng

T
ỔNG
Số
lượng
20 12 6 38
T
ỷ lệ
%
52,6%

31,6%


15,8%

100%
Dựa vào Bản Chỉ Số Quốc Tế Chức Năng Cương Dương, kết quả
chúng tôi thu được RLC mức độ nhẹ là 31,6%. mức độ trung bình là 52,6%
và mức độ nặng là 15%.
Kết quả này cũng phù hợp với các y văn trong và ngoài nước. Kết quả
của chúng tôi có sự khác biệt chút ít nhưng sự khác biệt này không có ý
nghĩa thống kê.
Trong kết quả này, tần suất RLC chiếm nhiều nhất là mức độ trung
bình và ít nhất là mức độ nặng và điều này cũng phản ánh đúng tỷ lệ dân số
mà chúng tôi khảo sát.
ECG và RLC
BỆNH

RLC CƯƠNG

Block

8
(66,7%)
4
(33,3%)
Dày
nhĩ hoặc thất

7
(50%)
7 (50%)

Bình
thường
10
(17,9%)
46
(82,1%)
Thiểu
năng vành
6
(31,6%)
13
68,4%)
Thiếu
mu cơ tim
5
(62,5%)
3
(37,5%)
Bệnh
khác
3
(75%)
1 (25%)
Theo Trần Quán Anh
(8)
các bệnh tim mạch có liên quan nhiều đến
nguyên nhân gây RLC. Những cản trở cơ giới từ thành mạch hoặc từ những
thay đổi về áp lực động mạch làm cho lượng máu vào dương vật không đầy
đủ. Bệnh xơ vữa thành mạch là nguyên nhân của khoảng 40% các trường
hợp RLC ở nam giới trên 50 tuổi.

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng có tỷ lệ tương tự như kết quả
của các y văn trong và ngoài nước. Tần suất RLC tăng cao ở những bệnh
nhân bị bệnh có liên quan đến chít tắt mạch máu như nhóm thiếu máu cơ tim
thì có đến 62,5% bị RLC trong khi nhóm ECG bình thường chỉ có 17,9% bị
RLC.
KẾT LUẬN
RLC là một bệnh ngày càng gặp nhiều hơn. Các loại bệnh lí hết sức
đa dạng và đòi hỏi thầy thuốc phải có nhiều kiến thức, kinh nghiệm cùng với
những phương tiện cận lâm sang tiên tiến để chẩn đoán đúng nguyên nhân
và điều trị. Chúng ta cần tạo được niềm tin cho bệnh nhân bằng những xét
nghiệm thích hợp, lập luận chính xác và phương pháp điều trị hiệu quả. Bên
cạnh đó sự phối hợp các chuyên khoa như Nội khoa, Nội tiết, Tâm thần,
Tâm lí, Giáo dục giới tính là hết sức cần thiết trong điều trị.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×