Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

ĐỀ THI PHÁP VĂN HỌC CỔ ĐIỂN VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.08 KB, 15 trang )

ĐỀ THI PHÁP VĂN HỌC CỔ ĐIỂN VIỆT NAM
Kiểm tra cuối khoa: Truyện Kiều, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến, Tú
Xương
1. Thiên nhiên trong Chinh phụ ngâm
2. Thời gian nghệ thuật trong Chinh phụ ngâm
3. Con người bi kịch trong Cung oán ngâm
4. Không gian - Thời gian nghệ thuật trong Cung oán ngâm
5. Không gian - Thời gian nghệ thuật trong Văn chiêu hồn của Nguyễn Du
6. Những dòng sông và con đường trong Truyện Kiều
7. Quá khứ và tương lai trong tâm trạng của Thúy Kiều
8. Không gian luân lạc, tha hương trong Truyện Kiều của Nguyễn Du
9. So sánh thơ Đường luật của Nguyễn Khuyến và Tú Xương
10.So sánh hát nói của Nguyễn Công Trứ và Nguyễn Khuyến
1. Thiên nhiên trong Chinh phụ ngâm :
- Thiên nhiên đất nước chiến tranh: đất nước, vũ trụ
- Thiên nhiên trong buổi chia tay:
- Nơi chiến địa: đối lập con người – thiên nhiên
- Thiên nhiên tâm cảnh: mòn mỏi chờ đợi
- Thiên nhiên đa tình
- Nguyên tắc Bình đạm của hội hoạ được sử dụng triệt để:
Cảnh trong thơ Hồ Xuân Hương là tranh khắc gỗ màu dân tộc (Đông Hồ)
Cảnh trong thơ Bà Huyện Thanh Quan là thuỷ mặc (không màu, chỉ có đậm nhạt của
mực nho): Qua đèo Ngang, Thăng Long thành hoài cổ, Chiều hôm nhớ nhà…
Cảnh trong Chinh phụ ngâm là tranh sơn thuỷ: màu sắc nhạt nhoà, theo nguyên tắc
bình đạm: Không màu hoặc màu xanh, trắng, nâu:
Trông bến Nam bài che mặt nước
Cỏ biếc um dâu mướt màu xanh
Nhà thôn mấy xóm chông chênh
Mỗt đàn cò đậu trước ghềnh chiều hôm
Trông đường bắc đôi chòm quán khách
Rườm rà xanh cây ngất núi non


Lúa thành thoi thóp bên cồn
Nghe thôi địch vọng véo von bên lầu
Non đông thấy lá hầu chất đống
Trĩ xập xoè mai cũng bẻ bai(
1
)
Khói mù nghi ngút ngàn khơi
Con chim bạt gió lạc loài kêu thương
Lũng tây thấy nước dường uốn khúc
Nhạn liệng không sóng giục thuyền câu
Ngàn thông chen chúc khóm lau
Cách ghềnh thấp thoáng người đâu đi về.
- Thay đổi góc nhìn liên tục: Toàn cảnh-cận cảnh-đặc tả. Ứng dụng thủ pháp thơ Đường,
mặc dù những bài thơ Đường điển hình tuân thủ nguyên tắc “tam duy nhất”: một cảnh, một
thời điểm, một góc nhìn
2
:
Hẹn cùng ta Lũng Tây Nham ấy
Sớm đã trông nào thấy hơi tăm
Ngập ngừng lá rụng cành trâm (đặc tả)
Buổi hôm nghe dậy tiếng cầm xôn xao (toàn cảnh)
Hẹn nơi nao Hán Dương cầu nọ
Chiều lại tìm nào có tiêu hao
Ngập ngừng gió thổi chéo bào (cận cảnh)
Bài hôm tuôn dẫy nước trào mênh mông (toàn cảnh)
Thấy được sự cô độc, vắng lặng, và tâm trạng buồn bã của người chinh phụ.
- Liên tưởng độc đáo:
Sương như búa bổ mòn gốc liễu
Tuyết dường cưa xẻ héo cành ngô
Giọt sương phủ bụi (bụi cây) chim gù

1
Bẻ bai: múa: Tự vũ mãn giang mai
2
Đăng cao – Đỗ Phủ
Phong cấp thiên cao viên khiếu ai/ Chử thanh sa bạch điểu phi hồi/ Vô biên lạc mộc tiêu tiêu hạ/ Bất tận trường
giang cổn cổn lai/ Vạn lý bi thu thường tác khách/ Bách niên đa bệnh độc đăng đài/ Gian nan khổ hận phồn sương
mấn/ Liệu đảo tân đình trọc tửu bôi.
Sâu tường kêu vẳng chuôn chùa nện khơi.
- Tương giao giữa các quá trình: thơ tượng trưng (Baudelaire: “Những mùi hương, những
màu sắc, những âm thanh thâm nhập vào nhau
3
”. Thủ pháp của Đường thi:Hàn đăng chiếu
vũ thanh):
Vài tiếng dế nguyệt soi trước ốc
Một hàng tiêu thốc ngoài hiên
Cảnh vật nhuốm màu sắc tâm trạng:
Tiếng nhạc ngựa lần theo tiếng trống
Giáp mặt rồi phút bỗng chia tay
Hà Lương chia rẽ đường này
Bên đường trông bóng cờ bay ngùi ngùi
- Tiếng địch trổi, nghe chừng đồng vọng
Hàng cờ bay trông bóng phất phơ
Dấu chàng theo lớp mây đưa
Thiếp nhìn rặng núi ngẩn ngơ nỗi nhà.
- Bóng kỳ xí giã ngoài quan ải
Tiếng khải ca trở lại thần kinh.
Thậm chí cảnh vật biến đổi phi thực tế : thế giới đều sum vầy, lứa đôi, một thiên nhiên
đa tình, đối lập với hoàn cảnh lẻ loi của người chinh phụ:
- Đối chiếu: Cực tả cảnh thê lương của chiến trường: trăng không phải để đẹp mà để chỉ
vắng vẻ, ánh trăng chiếu không phải để thi vị hoá cảnh vật mà thể hiện thê lương- trăng soi

vào gương mặt tử thi bất động:
Non Kỳ quạnh quẽ trăng treo
Bến Phì gió thổi đìu hiu mấy gò
Hồn tử sĩ gió ù ù thổi
Mặt chinh phu trăng dõi dõi soi
Chinh phu tử sĩ mấy người
Nào ai mạc mặt nào ai gọi hồn.
2. Thời gian trong Chinh phụ ngâm:
3
Huyền diệu: Này lắng nghe em khúc nhạc thơm/ Say người như rượu tối tân hôn/ Như hương thấm tận qua xương
tuỷ/ Am điệu thần tiên thấm tận hồn/ Hãy tự buôn cho khúc nhạc hường/ dẫn vào thế giới của Du dương/ Ngừng
hơi thở lại xem trong ấy/ Hiển hiện hoa và phảng phát hương…
Nguyệt cầm: Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh/ Trăng thương trăng nhớ hỡi trăng ngần/ Đàn buồn đàn lặng ôi
đàn chậm/ Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân (…) Thu lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời/ Đàn ghê như nước lạnh trời ơi/
Long lanh tiếng sỏi vang vang hận/ Trăng nhớ Tầm Dương nhạc nhớ người…
Thời gian không phải chỉ là thời gian khách quan, mà được dùng như một phương thức nghệ
thuật để miêu tả tâm trạng.
- Thời gian lặp lại: nhàm chán, quanh quẩn, thể hiện tâm trạng mòn mỏi chờ đợi:
Hẹn cùng ta Lũng Tây Nham ấy
Sớm đã trông nào thấy hơi tăm
Ngập ngừng lá rụng cành trâm (đặc tả)
Buổi hôm nghe dậy tiếng cầm xôn xao (toàn cảnh)
Hẹn nơi nao Hán Dương cầu nọ
Chiều lại tìm nào có tiêu hao
Ngập ngừng gió thổi chéo bào (cận cảnh)
Bãi hôm tuôn dẫy nước trào mênh mông (toàn cảnh)
- Chiều, Đêm, mùa thu, mùa đông... Thời điểm của tâm trạng cô độc, buồn khổ. Mùa của biên
tái (mùa thu), của sự lạnh lẽo (mùa đông):
- Trời hôm tựa bóng ngẩn ngơ
Trăng khuya nương gối bơ phờ tóc mai

- Mặt trăng tỏ thường soi bên gối
Bừng mắt trông sương gội cành khô
Lạnh lùng thay bấy nhiêu thu
Gió may hiu hắt bên đầu tường vôi.
- Trải mấy thu tin đi tin lại
Tới xuân này tin hãy vắng không
Thấy nhàn những tưởng thư phong
Nghe hơi sương sắm áo bông sẵn sàng
- Thời gian đứt gẫy: Đối lập Xưa và nay, Quá khứ và Hiện tại: Quá khứ thì đẹp đẽ, quá khứ
của hạnh phúc sum vầy còn hiện tại bẽ bàng, sầu khổ:
- Thuở lâm hành oanh chưa bén liễu (…)
- Xưa sao hình ảnh chẳng rời
Bây giờ nỡ để cánh vời sâm thương
- Thời gian cá nhân: Ám ảnh về thời gian: thời gian tuyến tính, một đi không trở lại, thời
gian trôi qua mau:
Bóng dương:
Thư thường tới người không thấy tới,
Bức rèm thưa lần dãi bóng dương.
Bóng dương mấy buổi xuyên ngang,
Người sao mười hẹn chín thường đơn sai.
Năm lại năm trôi qua:
Một năm một nhạt mùi son phấn,
Trượng phu còn thơ thẩn miền khơi.
Ngày tháng trôi đi vùn vụt:
Thoi đưa ngày tháng ruổi mau
Người đời thấm thoắt qua màu xuân xanh
- Thời gian tuần hoàn: cảm thức thời gian cũ, gắn với tâm trạng cũ, ước mơ cũ:
Bóng kỳ xí giã ngoài quan ải
Tiếng khải ca về lại thần kinh
Đỉnh non bia đá đề danh

Triều thiên vào trứơc cung đình dâng công.
3. Con người bi kịch trong Cung oán ngâm
a) Song trùng: tác giả và giai nhân
Giai nhân tuyệt sắc và người tài tử tuyệt tài
b) Quá khứ: hạnh phúc ngắn ngủi:
- Con người nhục thể (danh lợi, ái dục, hưởng thụ)
- Hoàng đế cũng được nhìn với tư cách con người tính dục:
Khoảnh làm chi bấy chuá xuân
Chơi cho hoa rữa nhị dần lại thôi
Hoàng đế được nhìn từ con người tính dục, đây là nét mới lạ, lần đầu tiên trong lịch sử văn học
nước ta.
c) Bi kịch của hiện tại sầu khổ:
Con người: nàng cung nữ như một hồn ma già nua cô độc :
- Trong cung quế âm thầm chiếc bóng
Đêm năm canh trông ngóng lần lần
- Đêm năm canh lần nương vách quế
Cái buồn này ai để giết nhau
Giết nhau chẳng cái lưu cầu
Giết nhau bằng cái u sầu độc chưa
⇒ Con người đã chết.
d) Bi kịch phản kháng:
- Ân hận nghĩ thà có một cuộc sống nhàn hạ, thanh đạm, quê mùa còn hơn :
Miếng cao lương phong lưu nhưng lợm
Mùi hoắc lê thanh đạm mà ngon
Cùng nhau một giấc hoành môn
Lau nhau ríu rít cò con cũng tình.
Mình có biết phận mình ra thế
Giải kết (cởi thắt) điều oe óe làm chi
Thà rằng cục kịch nhà quê
Dẫu lòng nũng nịu nguyệt kia hoa này

- Oán hờn, căm phẫn :
Tay tạo hoá cớ sao mà độc
Buộc người vào kim ốc mà chơi
Chống tay ngồi ngẫm sự đời
Muốn kêu một tiếng cho dài kẻo căm
- Nổi loạn để giải thoát cho mình :
Dang tay muốn dứt tơ hồng,
Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra.
- Nhưng quay lại lối thoát ảo tưởng : Hy vọng mơ hồ, dẫn đến hành động thảm hại, tuyệt vọng của
một góa phụ, một lão bà:
- Khi trận gió lung lay cành bích,
Nghe rì rào tiếng mách ngoài xa.
Mơ hồ nghĩ tiếng xe ra
Đốt phong hương hả mà hơ áo tàn
- Khi bóng thỏ chênh vênh trước nóc
Nghe vang lừng tiếng giục bên tai
Đè chừng nghĩ tiếng triệu đòi
Nghiêng bình phấn mốc mà dồi má nheo
Kết thúc: Ảo tưởng: vẫn chờ đợi nhà vua nghĩ lại. Kết thúc bi kịch chứ không phải có hậu:
Bóng câu thoáng bên mành mấy nỗi
Nghe hương sầu phấn tủi sao xong
Phòng khi động đến cửu trùng
Giữ sao cho được má hồng như xưa.

×