Website: Email : Tel : 0918.775.368
MỤC LỤC
LỜI GIỚI THIỆU
Trong cuộc sống xã hội hiện đại, nét truyền thống văn hoá, tinh hoa, đậm đà
bản sắc dân tộc kết hợp với hiện đại luôn là ý tưởng cho nhiều lĩnh vực kinh doanh.
Những ý tưởng ấy tạo ra nhiều sản phẩm tiêu dùng khác nhau, trong đó phải kể tới
ngành thủ công mỹ nghệ với các sản phẩm: mây tre đan, gốm sứ, thêu ren, đồ gỗ…
Từ trong rừng sâu, những sợi mây, sợi song được xử lí qua nhiều công đoạn làm
thành các sản phẩm thủ công khác nhau, tạo nên nét đẹp đặc trưng của Việt Nam.
Cuộc sống của người Việt đã gắn liền với đồ mây tre đan từ rất lâu, nó có vai trò
quan trọng. Các vật dụng cần thiết như rổ, rá, chiếc gối, chiếc vali mây… đến vật
dụng lớn hơn để làm nhà, bàn ghế, tủ đều có sự đóng góp của loại vật liệu này.
Hiện nay ngành mây tre đan của Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều cơ hội,
thách thức khi gia nhập WTO. Muốn tồn tại và phát triển trong “sân chơi” đó đòi hỏi
các doanh nghiệp chúng ta phải có đủ tiềm lực và vị thế trên thương trường.
Mặc dù đã có khá nhiều ý kiến xung quanh vấn đề phát triển ngành mây tre đan
Việt Nam nhưng cho đến nay vẫn còn khá nhiều câu hỏi chưa có lời giải đáp thuyết
phục, như tiềm năng phát triển của ngành mây tre đan là như thế nào, khả năng cạnh
tranh của ngành mây tre đan trong nước lớn đến đâu, những rào cản phát triển của
ngành là gì và ngành mây tre đan Việt Nam nên phát triển như thế nào.
Nhằm góp phần tìm hiểu về ngành mây tre đan trong bối cảnh Việt Nam vừa
chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới, nhóm nghiên cứu chúng tôi đã
thực hiện đề tài nghiên cứu: “Ngành mây tre đan Việt Nam trong bối cảnh đẩy
mạnh hội nhập quốc tế”.
1
Website: Email : Tel : 0918.775.368
NỘI DUNG
VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU VÀ PHẠM VI NGHÊN CỨU
Vấn đề nghiên cứu: Tổng quan về ngành mây tre đan, điều kiện thuận lợi, khó khăn,
cơ hội thách thức, tiềm năng ngành
Phạm vi nghiên cứu: Toàn ngành mây tre đan Việt Nam.
Câu hỏi nghiên cứu:
- Ngành mây tre đan Việt Nam có điều kiện thuận lợi gì để phát triển?
- Ngành mây tre đan Việt Nam hiện đang gặp phải những khó khăn gì hạn chế
sự phát triển?
- Kinh nghiệm phát triển ngành mây tre đan của một số nước trong khu vực và
bài học cho phát triển ngành mây tre đan Việt Nam?
2. PHƯƠNG PHÁP LUẬN NGHIÊN CỨU
2.1. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu này sử dụng phương pháp định tính với hai kỹ thuật bao gồm:
- Phân tích dữ liệu thứ cấp về ngành mây tre đan Việt Nam và ở một số nước
trong khu vực Đông Nam Á.
- Nghiên cứu tình huống về một số cơ sở sản xuất trong ngành mây tre đan Việt
nam.
2.2. Dữ liệu và phương pháp thu thập dữ liệu
Dữ liệu thứ cấp về ngành mây tre đan Việt Nam do nhóm nghiên cứu thu thập
bao gồm dữ liệu về kim ngạch xuất khẩu, số lượng lao động trong ngành, nguồn
nguyên liệu, thị trường đầu ra, chính sách chính phủ, doanh nghiệp… Dữ liệu thứ
cấp về kinh nghiệm phát triển ngành mây tre đan được tập trung vào các nước
Indonesia, Philipine, Trung Quốc. Nhóm nghiên cứu thu thập dữ liệu được công bố
công khai trên các trang thông tin điện tử của các tổ chức: Cục kinh tế bộ quốc
phòng, Bộ công nghiệp, báo công nghiệp, website Hà Nam, báo ảnh Việt Nam, báo
điện tử Thời báo kinh tế Việt Nam... Dữ liệu thứ cấp thu thập được sử dụng để phân
tích về lịch sử phát triển của ngành mây tre đan Việt Nam, thực trạng hiện nay và
2
Website: Email : Tel : 0918.775.368
kinh nghiệm của một số nước trong phát triển ngành sản xuất này.
. Nhóm nghiên cứu đã thực hiện nghiên cứu cụ thể về bốn cơ sở sản xuất trong
ngành mây tre đan Việt Nam, bao gồm:
1. Cơ sở sản xuất mây tre đan hiện đại Nguyễn Viết Hồng_Hà Nội.
Chủ cơ sở sản xuất: Nguyễn Viết Hồng.
2. Công ty mây tre đan Ngọc Động_Duy Tiên_Hà Nam.
Giám đốc: Nguyễn Xuân Mai.
3.Cơ sở sản xuất mây tre đan Du Dương_Thượng Hiền_Thái Bình .
Chủ cơ sở sản xuất: Phạm Văn Du.
4.Cơ sở trồng mây Thượng Hiền_Thái Bình.
Chủ cơ sở: Phạm Bá Vang, Phạm Bá Vinh.
Dữ liệu thu thập được từ các nghiên cứu tình huống trên đây bao gồm đánh giá
của các chủ cơ sở sản xuất về thực trạng ngành mây tre đan của cơ sở sản xuất cũng
như trong toàn ngành mây tre đan hiện nay, đánh giá chủ quan của các chủ cơ sở về
xu hướng phát triển của ngành mây tre đan Việt Nam, đồng thời đưa ra một số kiến
nghị. Dữ liệu này được sử dụng kết hợp với dữ liệu thứ cấp trên đây nhằm làm rõ
hơn các kết luận rút ra từ phân tích dữ liệu thứ cấp.
3. CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Lịch sử phát triển ngành mây tre đan Việt Nam
Nghề thủ công mỹ nghệ Việt Nam có truyền thống hàng trăm ngàn năm, gắn
liền với tên nhiều làng nghề, phố nghề được biểu hiện qua nhiều sản phẩm độc đáo
tinh xảo và hoàn mỹ. Việc xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ cũng được thực hiện
từ rất sớm. Khi đó các sản phẩm chỉ bao gồm: gốm, đồ gỗ, mây tre, tơ lụa... Qua
nhiều thế kỉ các phường thợ làng nghề truyền thống đã trải qua nhiều bước thăng
trầm, một số làng nghề bị suy vong (giấy sắc,dệt quai thao...), nhưng bên cạnh đó
cũng có mốt số làng nghề mới xuất hiện và phát triển. Hiện nay cả nước có 52 nhóm
nghề với 1451 làng nghề trên 100 năm với những sản phẩm từ lâu đã có tiếng tăm
như thổ cẩm (dân tộc Mông - Lào Cai), chạm khắc gỗ (Bắc Ninh), đúc đồng (Quảng
Ngãi)...[11].
Nghề mây tre đan được hình thành vào cuối thế kỉ 19. Trải qua hơn 100 năm
tồn tại và phát triển với bao biến cố thăng trầm nghề mây tre đan đang ngày càng
khởi sắc, đời sống của người dân làng nghề từng bước được cải thiện bằng chính
nghề truyền thống của mình. Mây tre đan là một trong những mặt hàng thủ công mỹ
3
Website: Email : Tel : 0918.775.368
ngh ang c khụi phc v phỏt trin mnh vit Nam, c ng v nh nc
khuyn khớch phỏt trin [3]. Nú l mt trong 3 mt hng t giỏ tr xut khu ln
gm: mõy tre an, cúi, gm s.
C cu cỏc mt hng th cụng m ngh xut khu T1/2006
(T trng tớnh theo kim ngch)
Cơ cấu các mặt hàng thủ công mỹ nghệ xuất khẩu
T1/2006
(Tỷ trọng tính theo kim ngạch)
2.1%
21.1%
0.2%
0.6%
2.4%
40.6%
24.1%
Mõy tre Gm s k thut Loi khỏc
Gm s m ngh v gia dng Thm Sn mi
Hng trang sc
Theo t chc Jica ca Nht Bn thỡ Vit Nam cú khong 2000 lng ngh truyn
thng, trong s ú 80% tp trung min bc, trong ú lng ngh mõy tre cú s lng
ln nht vi 713 lng ngh chim 24,0% ln nht trong s cỏc ngh th cụng ca c
nc [2, 39]. Cú th k n nh: Thng Hin (Thỏi Bỡnh), Ngc ng (H Nam),
Phỳ Vinh, Hin Lng (H Tõy), Xuõn Lai (Bc Ninh).
4
Website: Email : Tel : 0918.775.368
3.2. Những điều kiện phát triển của ngành mây tre đan Việt Nam
3.2.1. Nguồn nguyên liệu
Để tạo ra các sản phẩm mây tre đan độc đáo như thế thì một yếu tố không thể
thiếu đó là nguồn nguyên liệu. Nguyên liệu chủ yếu cung cấp cho các làng nghề là
cây mây và cây giang, phân bố rải rác trên cả nước, song trữ lượng chủ yếu là ở Yên
Bái, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Thái Nguyên... Nguyên liệu và công cụ để sản xuất hàng
mây tre đan rất đơn giản rẻ tiền dễ kiếm vì có rất nhiều ở Việt Nam đó là tre, nứa,
mây, song, guột và giang. Nguyên vật liệu phụ là bột diêm sinh để bảo quản sản
phẩm. Một số cơ sở sản xuất nhỏ thì người dân sử dụng các hóa chất, chất tẩy rửa,
bột diêm sinh để tẩy rửa và bảo quản sản phẩm không có quy trình kĩ thuật sử dụng
nên gây ô nhiễm môi trường và gây độc hại cho người trong nghề. Người dân mới
chỉ quan tâm tới các biện pháp sao cho sản phẩm được tốt nhất chứ chưa quan tâm
tới sức khỏe của chính mình. Công cụ để sản xuất cũng rất đơn giản, rẻ tiền như cưa
để cắt nứa tre, dao để chẻ vót nan. Nguồn nguyên liệu chính được khai thác tại địa
phương và một số vùng trong nước. Tuy nhiên lượng nguyên liệu này vẫn chưa đủ
để cung cấp cho ngành nên các cơ sở đôi khi phải nhập cả nguyên liệu từ nước
ngoài như Lào, Philipin. Hầu hết các cơ sở sản xuất đều sử dụng nguồn nguyên liệu
tự nhiên nhưng việc tổ chức khai thác cung ứng nguyên liệu sản xuất chưa tốt nên
các hộ các cơ sở đều phải mua lại nguyên liệu từ các nguồn cung ứng không rõ
nguồn gốc, giá cao làm tăng chi phí sản xuất, giá thành sản phẩm và chất lượng sản
phẩm không đều nhau. Thực tế cho thấy nhiều sản phẩm khi xuất khẩu sang nước
ngoài đã bị trả lại do không đủ tiêu chuẩn. Hiện nay nguồn nguyên liệu đang rất
khan hiếm. Các doanh nghiệp cơ sở sản xuất phải đi thu gom các nguyên liệu của
tất cả các nơi nhiều khi phải nhập khẩu từ bên Lào. Nguồn nguyên liệu đang cạn
kiệt. Bác Mai cho biết: theo chương trình 135 thì tại Thanh Hóa đã có kế hoạch
trồng rừng, đã được đầu tư nhưng vẫn chưa có kết quả. Nhà cung ứng nguyên liệu
có thể gây áp lực lớn đối với ngành. Khi nguồn nguyên liệu khan hiếm thì các nhà
cung cấp nguyên liệu lại tăng giá nguyên liệu gây khó khăn cho các doanh nghiệp
trong việc nhập nguyên liệu. Chính vì nguyên liệu thu gom từ rất nhiều nơi nên khó
khăn trong việc xác định giá và chất lượng nguyên liệu. Nhiều khi chất lượng không
đảm bảo nhưng vì thiếu nên các doanh nghiệp vẫn phải sử dụng dẫn đến chất lượng
sản phẩm giảm sút theo. Trước đây việc sơ chế nguyên liệu phải sử dụng hoàn toàn
bằng thủ công như dùng dao chẻ mây tre bằng tay nhưng khi khoa học kĩ thuật phát
triển nên đã được thay thế bằng các công cụ hiện đại hơn đó là dùng máy chẻ và
uốn. Đối với việc nhân tạo giống cây con: Do thời gian từ khi bắt đầu gieo giống
đến khi được thu hoạch là khá lâu (khoảng 3 năm )nên đòi hỏi phải trồng gối vụ thì
mới có thể cung cấp nguyên liệu để sản xuất trong cả năm. Việc nhân giống ở các
5
Website: Email : Tel : 0918.775.368
địa phương hiện nay chủ yếu là vẫn làm theo kinh nghiệm chưa được học cũng như
chưa được các cán bộ kĩ thuật hướng dẫn kĩ thuật cụ thể. Các làng nghề cũng đã
biết khoanh vùng lại để nhân giống cây trồng nhưng quy mô chưa được lớn mới chỉ
dừng lại ở các hộ gia đình hoặc một nhóm gia đình tập hợp lại để cung cấp cho
ngành. Như ở xã Thượng Hiền - Kiến Xương - Thái Bình đã có rất nhiều các gia
đình như gia đình anh Vinh, anh Dũng, bác Vang...đã khoanh vùng khoảng 1000m
2
để nhân giống cung cấp cho ngành. Việc sơ chế nguyên liệu thường do các cơ sở và
các hộ tự làm với kĩ thuật thủ công hoặc thiết bị máy móc tự chế, cũ, lạc hậu. Do
vậy chất lượng nguyên liệu thường không đồng đều và chưa chủ động được chất
lượng. Xen kẽ với các sản phẩm được đan bằng mây tre thì người dân cũng dã biết
tận dụng được các nguyên liệu khác như bèo, lá để tạo ra các sản phẩm độc đáo.
3.2.2. Các nhóm sản phẩm
6
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Các sản phẩm của ngành là những vật dụng dùng trong hộ gia đình như cột, bàn
ghế mây tủ bày, vali, và một số vật dụng trang trí khác. Các mặt hàng xuất khẩu nhiều hơn
7
Website: Email : Tel : 0918.775.368
phong phú hơn như rèm cửa mỹ nghệ, các loại đĩa, giỏ bày hoa quả, các hình tượng con
giống dân gian, tranh tre ghép... Các mặt hàng này không chỉ đẹp, bền, mà còn rất độc đáo
do bàn tay của các nghệ nhân và người lao động tạo nên. Theo bác Du thì để sản xuất ra
nững mặt hàng đẹp thì cần phải “tâm đắc với nghề, yêu nghề”. Các sản phẩm vừa kết hợp
truyền thống dân dã lại vừa có nét duyên dáng hiện đại phù hợp với mọi đối tượng người
tiêu dùng. Các sản phẩm rất đa dạng cả về chủng loại và mẫu mã có những lọ độc bình cao
đến 1,8m, giá xuất xưởng xấp xi 500.000đồng [8]. Các sản phẩm hiện nay đang phải cạnh
tranh với các sản phẩm của nước ngoài. Trong khi các sản phẩm của nước ngoài mẫu mã
thiết kế thường xuyên được đổi mới hấp dẫn nhìn chung là sáng tạo thì ta phần lớn đang
sản xuất theo mẫu mã của nước ngoài theo đơn đặt hàng hoặc nhái lại. Cũng không thể phủ
nhận có một phần nhỏ mẫu mã là do các nghệ nhân của chúng ta thiết kế ra trong quá trình
sản xuất sản phẩm. Các doanh nghiệp đang đứng được trong lĩnh vực mây tre đan chủ yếu
là gia công cho tập đoàn nước ngoài theo mẫu mã của họ nên bị ép giá. Đó là chưa kể các
làng nghề chủ yếu hàng được xuất qua quá nhiều các doanh nghiệp trung gian nên lợi
nhuận thu được cũng không được nhiều. Tuy các sản phẩm của Việt Nam chưa sánh được
với các sản phẩm của Trung Quốc và Indonexia nhưng giá của sản phẩm lại vừa phải do
giá nhân công và nguyên liệu rẻ nên có thể cạnh tranh được. Hàng mây tre đan không thể
làm bản quyền do mẫu mã thay đổi thường xuyên vì vậy việc xây dựng thương hiệu cho
sản phẩm cũng là vấn đề rất quan trọng. Nếu chúng ta xây dựng được một thương hiệu lớn
mạnh trên thị trường thế giới thì chắc chắn các sản phẩm của chúng ta cũng được nâng lên
rất nhiều. Giá sản phẩm của chúng ta cũng thấp hơn giá của các sản phẩm nước ngoài do
chúng ta có nguồn nguyên liệu tự nhiên rẻ cộng với giá nhân công rẻ. Các cơ sở sản xuất
nhỏ chủ yếu là sản xuất đến một giai đoạn giai đoạn nhất định rồi chuyển đến nơi khác để
hoàn thiện sản phẩm. Như ở các cơ sở sản xuất tại xã Thượng Hiền thì sản phẩm mới chỉ
tương đối hoàn thiện sau đó được đưa đến các cơ sở lớn như Ngọc Động để hoàn thiện các
giai đoạn cuối cùng trước khi xuất khẩu. Quá trình tạo ra một sản phẩm cũng trải qua rất
nhiều công đoạn từ thu nhập nguyên liệu đến đan các sản phẩm và qua khâu xử lí sản
phẩm như chống ẩm mốc, sơn dầu, tăng độ cưng của sản phẩm. Các cơ sở sản xuất ngành
nghề hầu như chưa quan tâm đến khía cạnh pháp lí kinh doanh. Có rất ít các cơ sở quan
tâm đăng kí nhãn hiệu cho sản phẩm của mình. Điều này làm giảm khá nhiều khả năng
cạnh tranh của các sản phẩm trên thị trường quốc tế. Mà trong tương lai ngay cả thị trường
trong nước khi nước ta hội nhập WTO.
3.2.3. Nguồn nhân lực
Ngành mây tre đan chủ yếu được làm ở các làng nghề truyền thống. Do đó đã
tận dụng được nguồn lao động nhàn rỗi khá lớn từ lao động nông nghiệp ở trong
làng. Từ những người già đến các trẻ em trong làng đều có thể làm được. Thời gian
8
Website: Email : Tel : 0918.775.368
làm việc của người lao động không bó hẹp. Họ có thể làm trong tất cả thời gian
nhàn rỗi. Ngoài thời gian làm ở các cơ sở sản xuất họ có thể nhận hàng về nhà tranh
thủ tối làm để tăng thu nhập cho gia đình đồng thời cũng làm tăng lượng sản phẩm
cho doanh nghiệp. Đây cũng là thế mạnh của ngành trong việc cạnh tranh với thị
trường nước ngoài. Nghề mây tre đan sản xuất theo hộ gia đình cũng khá lớn. Thị
trường mở rộng, sản xuất phát triển thì vấn đề nhân lực là sự sống còn của doanh
nghiệp. Nguồn nhân lực nằm rải rác khắp các làng nghề trên nhiều tỉnh như Hà
Tây,Bắc Ninh,Thái Bình...Quá trình khảo sát thực tế cho thấy chỉ có khoảng 10%
nguồn nhân lực là tập trung còn lại 90% nằm rải rác. Các doanh nghiệp đã vượt qua
khỏi hình thức sản xuất của một làng nghề để tạo ra những vệ tinh cho mình ở
những huyện những tỉnh khác. Nguồn nhân lực thường xuyên có sự biến động lớn
do ra làm ở các khu công nghiệp. Các doanh nghiệp đã có các chính sách đào tạo,
nâng cao tay nghề cho đội ngũ công nhân. Đây là việc mang tầm chiến lược cao từ
việc dạy nghề bán nguyên liệu đến mua sản phẩm. Đối với những người dân làng
nghề thì họ có thể làm mọi nghề tuy không giỏi. Bất cứ công việc nào mang lại thu
nhập cao là họ làm. Họ chưa thực sự tư duy được tầm quan trọng của việc chuyển
nghề. Ngày nay những người dân làng nghề rất muốn truyền lại nghề cho con cháu
nhưng dường như điều này là rất khó bởi thế hệ trẻ ngày nay không muốn theo
ngành này nên việc bảo tồn nghề gặp nhiều khó khăn.
Ngành mây tre đan có nhiều ưu điểm đó là vốn ít (chỉ cần 300.000 - 500.000
đồng là tạm đủ cho một hộ 4 người sản xuất) [8]. Tận dụng được lao động phụ đặc
biệt là trẻ em và người già,thu nhập cao. Nghề truyền thống mang lại những lợi ích
kinh tế rõ rệt không thể phủ nhận. ngoài những lợi ích khác về xã hội mà làng nghề
đem lại cũng không thể tính đếm hết như đẩy lùi các tệ nạn xã hội, trẻ em ngoài
việc học hành còn tham gia giúp gia đình làm thêm việc đan lát. Hiện nay nhà nước
và địa phương đã có những chính sách giúp phát triển ngành nghề tuy nhiên mới chỉ
dừng lại ở việc khuyến khích làm nghề mà chưa có chính sách hỗ trợ về vốn, đất
đai, tìm kiếm thị trường... Nhiều doanh nghiệp muốn mở rộng sản xuất nhưng nhà
nước cũng như địa phương chưa cấp vốn cũng như đất đai. Theo bác Du xã Thượng
Hiền thì cơ sở sản xuất của bác muốn mở rộng quy mô sản xuất nhưng địa phương
chưa tạo điều kiện về đất đai và vốn.
3.2.4. Thị trường tiêu thụ
Hàng mây tre đan thủ công mỹ nghệ truyền thống được tạo ra bởi những bàn
tay tài hoa. Đây là những đặc điểm nhưng cũng là điều kiện không thể thiếu của mặt
hàng này. Trong các làng nghề truyền thống đều có mặt của các nghệ nhân hoặc
những tay thợ lành nghề. Hàng trăm năm đã đi qua nhưng bao giờ cũng có sự kế
tiếp đó. Trước đây các sản phẩm được sản xuất bằng tay và các công cụ đơn giản
9
Website: Email : Tel : 0918.775.368
như dùng dao để chẻ mây tre, rút sợi nhưng giờ đây đã có sự đóng góp của các máy
chẻ mây tre, các máy cơ khí, máy rút sợi. Với sự thay thế này sức lao động được
giảm nhẹ, số lượng sản phẩm được sản xuất ra nhiều hơn, hiệu quả kinh tế lớn hơn.
Thị trường ngày càng được mở rộng. Kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng mây tre lá
của Việt Nam trong 10 ngày đầu tháng 5/2006 đạt 6,2 triệu USD, tăng 19% so với
cùng kỳ tháng 4. Ước tính, trong tháng 5, kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm mây
tre lá của cả nước đạt 17,5 triệu USD, tăng nhẹ so với tháng 4, góp phần đưa tổng
kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng này trong 5 tháng đầu năm đạt 73 triệu USD,
tăng 18,5% so với cùng kỳ năm 2005. 10 ngày đầu tháng 5, Việt Nam đã xuất khẩu
khoảng 40 mẫu mã sản phẩm được làm bằng tre, với kim ngạch xuất khẩu đạt 1,2
triệu USD, tăng 9,1% so với 10 ngày đầu tháng 4. Ước tính, trong tháng 5, kim
ngạch xuất khẩu các mặt hàng tre đan của cả nước đạt 4 triệu USD, tăng nhẹ so với
tháng 4, đưa tổng kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng tre đan của cả nước trong 5
tháng đầu năm đạt 16,1 triệu USD, tăng 19,5% so với cùng kỳ năm 2005. Các sản
phẩm tre xuất khẩu chủ yếu là: Đĩa, Bát, Bình, Khay, Rổ, Sọt….Kim ngạch xuất
khẩu mặt hàng khay tre chiếm tỷ trọng cao nhất, với kim ngạch xuất khẩu đạt 121
nghìn USD, nhưng giảm mạnh so với cùng kỳ tháng 4. Các thị trường xuất khẩu chủ
yếu mặt hàng này là Đức, Bỉ, Anh, Pháp, Thuỵ Điển, Hàn Quốc …Tiếp đến là mặt
hàng bình bằng tre, với kim ngạch xuất khẩu đạt 104 nghìn USD, tăng 11% so với
cùng kỳ tháng trước. Đơn giá xuất khẩu trung bình trong kỳ chỉ đạt 4,42 USD/cái,
giảm 0,06 USD/cái so với tháng trước. Kim ngạch xuất khẩu mặt hàng bát tre trong
kỳ đạt 96 nghìn USD, tăng 21% so với cùng kỳ tháng 4. Các thị trường xuất khẩu
chủ yếu là Mỹ, Italia, Mêhicô, Đài Loan…
Mặt hàng mây đan: Trong 10 ngày đầu tháng 5, kim ngạch xuất khẩu các sản
phẩm mây đan đạt 1,1 triệu USD, giảm nhẹ so với cùng kỳ tháng trước, ước tính
kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm mây đan của Việt Nam trong tháng 5 đạt 4,1
triệu USD, sắp sỉ bằng với kim ngạch xuất khẩu của tháng 4, nhưng vẫn tăng 18,5%
so với cùng kỳ năm 2005.Trong cơ cấu các mặt hàng mây đan xuất khẩu trong 10
ngày đầu tháng 5, thì kim ngạch xuất khẩu mặt hàng bàn, ghế chiếm tỷ trọng cao
nhất với kim ngạch đạt 473 nghìn USD, tăng 15% so với cùng kỳ tháng trước.Trước
đây, sản phẩm bàn ghế mây của Việt Nam chủ yếu được xuất khẩu vào 3 thị trường
chính là Hồng Kông, Mỹ và Tây Ban Nha, trong đó riêng thị trường Hồng Kông đã
chiếm tới trên 80% thị trường, nhưng trong 10 ngày đầu tháng 5, các sản phẩm bàn
ghế mây của Việt Nam đã được đẩy mạnh xuất khẩu một số thị trường EU như:
Đức, Anh, Italia, Pháp, Cộng Hoà Séc, Thuỵ Điển, Bỉ, Hà Lan…Tiếp đến là các mặt
hàng giỏ mây, với kim ngạch xuất khẩu đạt 207 nghìn USD, tăng 38% so với cùng
kỳ tháng 4. Tuy nhiên, các sản phẩm trong 10 ngày đầu tháng 5 chủ yếu là các mặt
10
Website: Email : Tel : 0918.775.368
hàng có phẩm cấp thấp, do đó đơn giá xuất khẩu trung bình trong kỳ giảm mạnh so
với cùng kỳ tháng 4. Kim ngạch xuất khẩu khay mây đạt 59 nghìn USD, tăng nhẹ so
với cùng kỳ tháng 4, đáng chú ý là đơn giá trung bình của mặt hàng khay mây trong
kỳ đạt 1,74 USD/cái, tăng 0,47 USD/cái so với tháng 4. Thị trường xuất khẩu chủ
yếu là Nhật Bản, Đan Mạch, Bỉ, Tây Ban Nha…
Trước đây trong cơ chế bao cấp do thị trường không lớn nên nghề mây tre đan
hoạt động theo kiểu tự sản tự tiêu chủ yếu lấy công làm lãi. Hàng hóa có chất lượng
thấp mẫu mã đơn giản đa phần tiêu thụ ở các xã quanh vùng chỉ xuất khẩu được số
lượng rất ít sang Liên Xô (trước đây) và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu.
Nhiều người dân của làng nghề không sống được bằng nghề này phải bỏ ra các
thành phố lớn tìm kế mưu sinh, làng nghề có nguy cơ bị mai một. Bước sang thời kì
đổi mới cùng với sự thay đổi của đất nước các làng nghề truyền thống cũng có bước
chuyển mình mạnh mẽ. Các làng nghề cũng nhận được nhiều hợp đồng xuất khẩu
các mặt hàng như: rổ rá, lãng hoa, bàn ghế...cung cấp cho các thị trường như Nhật
Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc với số lượng lớn mang lại giá trị lợi nhuận
cao cho các doanh nghiệp Nghề mây tre đan đã thực sự hồi sinh và phát triển nhờ
xuất khẩu được đi nhiều nước. Hiện đang tìm kiếm thị trường ở Tây Âu và các nước
Đông Nam Á.[18 ]
Sản phẩm mây, tre Việt Nam đã có mặt ở 94 nước trên thế giới [11]. Theo số
liệu thu thập được từ Tổng cục thống kê và hiệp hội làng nghề Việt Nam thì tổng
kim ngạch xuất khẩu của ngành mây tre đan Việt Nam trong những năm gần đây
tăng lên một cách đáng kể.Cụ thể:
Năm 2000 78,6 triệu USD
Năm 2001 93.8 triệu USD
Năm 2002 107.9 triệu USD
Năm 2003 115 triệu USD
Năm 2005 180.2 triệu USD
Năm 2006 195 triệu USD
11
Website: Email : Tel : 0918.775.368
Hình 1. Kim ngạch xuất khẩu ngành mây tre đan Việt Nam
giai đoạn 2000-2006.
Nguồn: Tổng cục Thống kê và Hiệp hội làng nghề Việt Nam
(dẫn lại từ trang thông tin điện tử của Báo điện tử thời báo
kinh tế Việt Nam.)
Với thị trường nước ngoài các sản phẩm mây tre đan được xuất khẩu thông qua
các công ty xuất khẩu thủ công mỹ nghệ: Ngọc Động, Havimex.. Mới đây đã nhen
nhóm sang thị trường Mỹ với doanh số năm 2004 đạt trên 30 tỷ đồng. Hiện nay
Nhật Bản là nước nhập khẩu lớn về các sản phẩm thủ công mỹ nghệ của Việt Nam
với mức tăng trưởng từ 30 - 35%/năm kể từ 1996 đến nay năm 2002 đạt mức 22,4
triệu USD ngoài ra còn rất nhiều các nước khác đặc biệt là thị trường Mỹ đang là thị
trường hứa hẹn rất nhiều cơ hội [12]. Tuy vậy để hàng mây tre đan đến được với
người tiêu dùng nước ngoài cũng đòi hỏi phải trải qua rất nhiều tiêu chẩn kiểm định
như tiêu chuẩn JIS hay JAS (quy định về chất liệu công nghiệp). Giờ đây khách
nước ngoài muốn tìm đến nguồn gốc Á Đông với những sản phẩm do chính bàn tay
lao động thủ công của những người thợ tạo nên từ các nguyên liệu thiên nhiên.
Trong thời gian gần đây thị trường ngoài nước đã được mở rộng và tiềm năng vẫn
còn rất lớn. Nó không những đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ và sử dụng rộng rãi trong
nước mà còn góp phần đáng kể vào việc xuất khẩu sang các nước châu Âu, châu
Úc, châu Mỹ. Do có vai trò thiết thực đối với xã hội và nền kinh tế quốc dân, nghề
mây tre đan nứa nội địa và xuất khẩu đang được nhà nước chú ý phát triển. Nghề
sản xuất mây tre đan trước đây chỉ có ở một số làng nghề truyền thống trong nước
giờ đây đã được nhân rộng ra một số địa phương xung quanh nhưng vẫn còn mang
12